Tàu vũ trụ robot – Wikipedia tiếng Việt
Tàu vũ trụ robot/phi thuyền robot là một phi thuyền không người lái, thường dưới sự kiểm soát từ xa. Một phi thuyền robot được thiết kế để thực hiện các phép đo nghiên cứu khoa học thường được gọi là tàu thăm dò không gian. Nhiều nhiệm vụ không gian phù hợp hơn với hoạt động telerobotic hơn là có người lái, do chi phí thấp hơn và các yếu tố rủi ro thấp hơn. Ngoài ra, một số điểm đến hành tinh như sao Kim hoặc vùng lân cận của sao Mộc là quá khắc nghiệt đối với sự sống còn của con người, với công nghệ hiện tại. Các hành tinh bên ngoài như Sao Thổ, Sao Thiên Vương, và Sao Hải Vương quá xa để tiếp cận với công nghệ vũ trụ có người lái hiện tại, do đó các tàu vũ trụ viễn thám là cách duy nhất để khám phá chúng.
Nhiều vệ tinh nhân tạo là những con thuyền robot, cũng như nhiều tàu khu trục và tàu lượn .
Bản sao của Sputnik 1 tại Bảo tàng Hàng không và Vũ trụ Quốc gia Hoa Kỳ
Bạn đang đọc: Tàu vũ trụ robot – Wikipedia tiếng Việt
Một bản sao của Explorer 1
Tàu vũ trụ robot đầu tiên được Liên Xô (Liên Xô) phóng vào ngày 22 tháng 7 năm 1951, một chuyến bay dưới mức vệ tinh quỹ đạo, mang theo hai con chó Dezik và Tsygan.[1] Bốn chuyến bay khác được thực hiện thông qua mùa thu năm 1951.
Xem thêm: Wikia Thế giới Anime
Vệ tinh tự tạo tiên phong, Sputnik 1, được đưa vào quỹ đạo toàn cầu 215 – by-939 km ( 116 by 507 nmi ) của Liên Xô ) vào ngày 4 tháng 10 năm 1957. Ngày 3 tháng 11 năm 1957, Liên Xô phóng vệ tinh quay quanh Trái Đất Sputnik 2. Có khối lượng 113 kg ( 249 lb ), Sputnik 2 mang động vật hoang dã sống tiên phong vào quỹ đạo, con chó Laika. [ 2 ] Vì vệ tinh không được phong cách thiết kế để tách khỏi quy trình tiến độ trên của thiết bị phóng, tổng khối lượng trong quỹ đạo là 508,3 kilôgam ( 1.121 lb ). [ 3 ]Trong một cuộc đua ngang sức với Liên Xô, Hoa Kỳ đã phóng vệ tinh nhân tạo tiên phong của mình, Explorer 1, thành một quỹ đạo 193 x 1,373 dặm ( 357×2, 543 km ) vào ngày 31 tháng 1 năm 1958. Explorer 1 là một tàu thiên hà có kích cỡ 80,75 inch ( 205,1 cm ) dài 6,00 inch ( 15,2 cm ) đường kính xi lanh nặng 30,8 pounds ( 14,0 kg ), so với Sputnik 1, một 58 cm ( 23 in ) quả cầu nặng 83,6 kg ( 184 lb ). Explorer 1 mang những cảm ứng xác nhận sự sống sót của đai Van Allen, một mày mò khoa học lớn vào thời gian đó, trong khi Sputnik 1 không mang theo cảm ứng khoa học nào. Ngày 17 tháng 3 năm 1958, Hoa Kỳ quay quanh vệ tinh thứ hai của nó, Vanguard 1, có kích cỡ bằng một quả bưởi, và vẫn nằm trong quỹ đạo 360 – by-2. 080 hải lý ( 670 by 3,850 km ) vào năm năm nay .Chín vương quốc khác đã phóng thành công xuất sắc vệ tinh bằng phương tiện đi lại phóng của riêng họ : Pháp ( 1965 ), Nhật Bản và Trung Quốc ( 1970 ), Vương quốc Anh ( 1971 ), Ấn Độ ( 1980 ), Israel ( 1988 ), Iran ( 2009 ), Triều Tiên ( 2012 ) và New Zealand ( 2018 ). [ 4 ]
Source: https://thevesta.vn
Category: Thế Giới