Elizabeth I của Anh – Wikipedia tiếng Việt

Đối với những định nghĩa khác, xem Elizabeth

Elizabeth I (7 tháng 9 năm 1533 – 24 tháng 3 năm 1603)[a] là Nữ vương nước Anh và Ireland từ ngày 17 tháng 11 năm 1558 cho đến khi qua đời. Bà được biết đến với những danh hiệu khác như Nữ vương Đồng trinh (The Virgin Queen),[1] Gloriana, hoặc Good Queen Bess, và trở nên bất tử với tên Faerie Queene trong thiên sử thi cùng tên của Edmund Spenser. Elizabeth I là người thứ sáu, cũng là người cuối cùng của Vương tộc Tudor, những người khác thuộc dòng Tudor đã từng lên ngôi báu là ông nội Henry VII, cha Henry VIII, em trai cùng cha khác mẹ Edward VI, em gái đồng đường Jane Grey và chị cùng cha khác mẹ Mary I. Thời trị vì của Elizabeth I kéo dài gần 45 năm, nổi bật với hai sự kiện: Vương quốc Anh trở nên một thế lực có ảnh hưởng toàn cầu, và những tranh chấp tôn giáo luôn sục sôi trong nước.[2]

Elizabeth khởi sự cai trị đất nước bằng cách tìm kiếm những lời tư vấn khôn ngoan và thích đáng,[3] những quyết định chính trị của Nữ vương thường dựa vào một nhóm các cố vấn đáng tin cậy được đặt dưới sự dẫn dắt của William Cecil, Nam tước Burghley. Một trong những quyết định quan trọng đầu tiên của Elizabeth là quay sang ủng hộ việc xác lập giáo hội theo khuynh hướng Kháng Cách cho nước Anh, với Nữ vương là Thống đốc Tối cao của Giáo hội. Từ đây hình thành và phát triển Anh giáo. Trái với sự mong đợi của thần dân cũng như của Quốc hội, Elizabeth không hề kết hôn. Mặc dù luôn cẩn trọng trong đối ngoại và dè dặt khi ủng hộ các chiến dịch quân sự tại Hà Lan, Pháp và Ireland, chiến tích nước Anh đánh bại hạm đội của Tây Ban Nha (Armada) năm 1588 được nối kết với tên tuổi của Nữ vương và thường được xem là một trong những chiến thắng lừng lẫy nhất trong lịch sử nước Anh.

Giai đoạn này thường được nhắc đến như là Thời kỳ Elizabeth hoặc Thời Hoàng kim Elizabeth. Các nhà viết kịch William Shakespeare, Christopher Marlowe và Ben Johnson đã tạo nên thanh danh cho mình trong thời kỳ này ; Francis Drake trở thành người Anh tiên phong triển khai một chuyến hải hành vòng quanh Trái Đất ; Francis Bacon thiết lập quan điểm chính trị và triết học ; Bắc Mỹ trở thành thuộc địa của Anh do công của Walter Raleigh và Sir Humphrey Gilbert .

Elizabeth là một quân vương điềm tĩnh, quyết đoán và tỏ ra bảo thủ hơn vua cha và vua em.[2] Câu nói được bà yêu thích là “Video et taceo” (Tôi quan sát và tôi im lặng).[4] Chính phẩm hạnh này đã nhiều lần cứu Nữ vương khỏi bị trói buộc vào những liên minh sai lầm trong chính trị và hôn nhân. Giống vua cha Henry VIII, bà thích viết lách và làm thơ. Nữ vương đã ban “Chứng thực Vương triều” (Royal Charter) cho những định chế nổi tiếng như Đại học Trinity ở Dublin (năm 1592) và Công ty Đông Ấn Anh Quốc (1600). Virginia, một trong 13 khu thuộc địa, về sau hợp nhất để trở nên Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, được đặt tên theo một danh hiệu của Elizabeth.

Tuy nhiên, những sử gia tỏ ra nghiêm khắc hơn, họ thường miêu tả Elizabeth là người nóng tính, [ 5 ] đôi khi thiếu quyết đoán [ 6 ] và cho rằng bà thành công xuất sắc là nhờ như mong muốn. Những năm cuối triều đại Elizabeth, một loạt những khó khăn vất vả về kinh tế tài chính và quân sự chiến lược đã làm giảm sút uy tín của Nữ vương đến mức khi bà qua đời nhiều người đã thở phào nhẹ nhõm. Dù vậy, Elizabeth vẫn được những sử gia xem là một nhà quản lý có sức lôi cuốn cá thể và biết cách vượt qua mọi trở ngại để sống sót trong một thời kỳ mà chính quyền sở tại thường hạn chế và thiếu hiệu suất cao, và khi vua chúa những Vương quốc láng giềng luôn phải đối phó với những khó khăn vất vả trong nước với rủi ro tiềm ẩn Vương quyền hoàn toàn có thể bị tổn hại nghiêm trọng, như trường hợp của những đối thủ cạnh tranh của Elizabeth như Nữ vương Mary của Scotland, bị tống giam năm 1568 rồi xử tử hình năm 1587 .
Elizabeth Tudor, lúc 13 tuổi .Elizabeth Tudor là con duy nhất của Quốc vương Henry VIII và Vương hậu Anne Boleyn. Hai người bí hiểm kết hôn vào một thời gian giữa mùa đông năm 1532 và cuối tháng 1 năm 1533. Elizabeth chào đời tại Lâu đài Placentia ở Greenwich ngày 7 tháng 9 năm 1533, và được đặt tên theo bà nội, Elizabeth xứ York. [ 7 ] Ngay khi sinh ra, Elizabeth được ban quyền thừa kế ngai báu mặc dầu Henry VIII đã có một con gái, Mary Tudor. Vương nữ Mary khi đó không được cha công nhận là người thừa kế hợp pháp vì nhà vua đã hủy bỏ hôn ước với người mẹ, Catherine xứ Aragon, xuất thân Vương nữ của Tây Ban Nha [ 8 ] [ 9 ] .Henry VIII mong đợi sự sinh ra của một con trai để bảo vệ sự kế tục của triều đại Tudor, nhưng sau khi sinh hạ Elizabeth, Vương hậu Anne bị sẩy thai hai lần trong năm 1534 và đầu năm 1536, rồi nhà vua khởi đầu có quan hệ với Jane Seymour .

Vẫn còn nhiều tranh luận về nguyên nhân Anne Boleyn bị thất sủng, nhưng các sử gia đồng ý với nhau về sự vô tội của Anne Boleyn đối với các cáo buộc chống lại bà, họ tin rằng cái chết của bà đã được sắp đặt bởi những đối thủ chính trị. Anne Boleyn bị bắt ngày 2 tháng 5 năm 1536 và bị cầm tù. Mười bảy ngày sau bà bị hành quyết với các tội danh phản quốc, loạn luân với anh/em trai, George Boleyn, và tội phù thủy[10][11]. Vương nữ Elizabeth Tudor khi đó còn chưa tròn 3 tuổi, bị tuyên bố là con bất hợp pháp và bị mất tước hiệu Vương nữ (Princess), cũng không được hưởng tài sản của người mẹ.[12] Bà chỉ còn là Lady Elizabeth và không được sống gần cha khi ông kết hôn với Jane Seymour.[12] Năm 1537, người vợ thứ ba của Henry VIII là Jane Seymour sinh ra con trai, Vương tử Edward; theo Đạo luật Kế vị năm 1544, Edward là người kế thừa ngai báu nước Anh, tức Edward VI của Anh.

Người bảo hộ đầu tiên của Elizabeth là Margaret Bryan, một người nữ quý tộc mà bà gọi là Muggie. Lúc 4 tuổi, Elizabeth có người bảo hộ mới, Katherine Champernowne, người mà Elizabeth thường gọi là “Kat”. Champernowne tạo lập một mối quan hệ thân thiết với Elizabeth và trở nên người bạn tốt và thân tín suốt cuộc đời bà. Champernowne đóng góp nhiều cho học vấn của Elizabeth, với sự kèm cặp của William Grindal, bà có thể viết tiếng Anh, tiếng Latin và tiếng Ý, sau đó đạt nhiều tiến bộ trong việc học tiếng Pháp và tiếng Hy Lạp.[13] Khi Grindal từ trần năm 1548, Roger Ascham thay thế Grindal hướng dẫn bà trong học thuật theo phương pháp mới, biến học tập thành một công việc thú vị.[14] Matthew Parker, mục sư của mẹ bà, dành một mối quan tâm đặc biệt đến cuộc sống và quyền lợi của Elizabeth do Anne, khi ấy đang sống trong kinh hãi trước khi bị hành quyết, ủy thác Parker chăm sóc đời sống tâm linh cho con gái. Về sau Parker trở thành Tổng Giám mục thành Canterbury sau khi Elizabeth đăng quang năm 1558. Một người bạn thân tình khác mà Elizabeth thường nhắc đến với nhiều tình cảm là một người Ireland, Thomas Butler, về sau là Bá tước xứ Ormonde (mất năm 1615).

The Miroir or Glasse of the Synneful Soul, bản thảo do Elizabeth, lúc 11 tuổi, dịch từ [15], bản thảo do Elizabeth, lúc 11 tuổi, dịch từ tiếng Pháp, để dâng cho Catherine Parr năm 1544. Bìa sách thêu được cho là do chính tay Nữ vương tương lai triển khai .

Lớn lên, Elizabeth là người đa tài, kiên định và cực kỳ thông minh. Bà ham thích học hỏi vì khao khát hiểu biết. Giống độc thân, bà là một cô gái lãng mạn và quyến rũ. Quốc vương Henry VIII qua đời năm 1547, truyền ngôi cho Edward VI. Vương hậu Catherine Parr, người vợ cuối của Henry VIII, sau khi trở thành Thái hậu thì tái kết hôn với Thomas Seymour, cậu của Edward VI. Seymour đem Elizabeth về nhà mình. Người ta tin rằng Seymour muốn tạo lập quan hệ thân tình với Elizabeth khi bà sống trong nhà ông. Ở đây, bà nhận lãnh giáo huấn từ Roger Ascham. Dưới ảnh hưởng của Catherine Parr và Ascham, Elizabeth được trưởng dưỡng trong đức tin Kháng Cách (Protestant).

Khi vua em Edward là người Kháng Cách sùng tín, còn trị vì, vị thế của Elizabeth vẫn còn bảo đảm an toàn. Đến năm 1553, Edward qua đời ở tuổi mười lăm vì bệnh tật từ khi còn nhỏ. Edward để lại một di chúc thay thế sửa chữa di chúc của Henry. Bất kể Đạo luật Kế vị 1544, di chúc này vô hiệu Mary và Elizabeth khỏi quyền thừa kế và công bố Lady Jane Grey, người được Thomas Seymour bảo lãnh, là người kế vị. [ 16 ] Một sự hợp tác giữa Thomas và John Dudley, Công tức xứ Northumberland, con trai của John, Guilford Dudley, đã kết hôn với Jane. Lady Jane lên ngai, nhưng bị phế truất chỉ hai tuần lễ sau đó. Trong sự tung hô của dân chúng, Mary thắng lợi tiến vào Luân Đôn, với cô em cùng cha khác mẹ Elizabeth ở bên cạnh [ 17 ] .Mối link giữa hai chị em không lê dài. Mary quyết tâm đàn áp đức tin Kháng Cách mà Elizabeth tiếp đón từ khi còn bé, và buộc mọi người phải dự lễ Misa. Elizabeth không có sự lựa chọn nào khác phải tỏ ra phục tùng Nữ vương. [ 18 ] Song uy tín của Mary sút giảm khi dân chúng biết dự tính kết hôn với Vương tử Felipe của Tây Ban Nha ( về sau là vua Felipe II của Tây Ban Nha ) [ 19 ] nhằm mục đích tìm kiếm sự hậu thuẫn cho phe Công giáo bên trong nước Anh. Sau cuộc nổi dậy của Wyatt năm 1554 tìm cách ngăn cản cuộc hôn nhân gia đình giữa Mary và Felipe nhưng thất bại, Elizabeth bị cầm giữ trong Tháp Luân Đôn vì bị cho là có dính líu đến cuộc nổi dậy. [ 20 ] Có những sự yên cầu xử tử hình Elizabeth, nhưng đa phần dân Anh không muốn nhìn thấy một thành viên thuộc dòng họ Tudor rất được lòng dân bị sát hại. Quan Chưởng ấn Stephen Gardiner muốn rút tên Elizabeth khỏi list kế vị, nhưng cả Mary lẫn Quốc hội đều không chấp thuận đồng ý. Sau hai tháng bị giam giữ, Elizabeth được trả tự do vào đúng ngày mẹ bà bị hành quyết mười tám năm trước. Ngày 22 tháng 5, khi Elizabeth được đưa đến Woodstock để bị quản thúc tại gia dưới sự giám sát của Sir Henry Bedingfield, dân chúng đứng hai bên đường hoan hô bà [ 21 ] [ 22 ] .Sau một thời hạn trị vì ôn hòa, Mary, một người Công giáo sùng tín, khởi sự theo đuổi chủ trương ngược đãi người Kháng Cách mà Nữ vương xem là những kẻ dị giáo và là mối de dọa cho thẩm quyền của bà. Do những cuộc bách hại chống phe Kháng Cách được thực thi dưới thời trị vì của mình, Nữ vương bị gán cho biệt danh ” Mary khát máu “. Dù bị Mary thuyết phục cải đạo theo Công giáo La Mã, Elizabeth khôn khéo duy trì lòng trung thành với chủ với lương tâm và khát vọng của mình. Cuối năm ấy, khi có những lời đồn đại về việc Mary có thai, Elizabeth được phép trở lại triều đình theo lời nhu yếu của Felipe. Do lo lắng Nữ vương hoàn toàn có thể chết khi sinh con, Felipe muốn Elizabeth, dưới sự bảo lãnh của ông, sẽ là người kế vị, thay vì người có huyết thống gần Elizabeth nhất, Nữ vương Mary của Scotland. Mary lớn lên trong hoàng cung Pháp và có hôn ước với Vương Thái tử Pháp, mặc dầu là người Công giáo, Felipe không muốn Mary thừa kế ngai báu nước Anh vì sợ ảnh hưởng tác động của người Pháp trên chính trường Anh qua Mary .
Phần còn lại của thành tháp cổ Hatfield House. Tại đây Elizabeth nghe tin Mary qua đời trong tháng 11 năm 1558 .

Tháng 11 năm 1558, sau cái chết của Mary, Elizabeth I lên ngôi báu nước Anh. So với Mary, Nữ vương mới rất được lòng dân, người ta thuật lại rằng khi Mary qua đời dân chúng đổ ra đường reo mừng. Theo giai thoại kể lại, Elizabeth được báo tin kế vị khi đang ngồi dưới gốc cây sồi ở Hatfield đọc Kinh Thánh Hi văn, một người hầu đến gần và háo hức nói “Bệ hạ…”. Elizabeth thốt lên một câu Kinh Thánh từ Thi thiên (Thánh vịnh) 118: 23, “Ấy là công việc của Chúa, một sự diệu kỳ trong mắt chúng ta”.

Elizabeth lên ngôi lúc 25 tuổi. Suốt trong lễ đăng quang ngày 15 tháng 1 năm 1559, Elizabeth được dân chúng nghênh đón tung hô, họ diễn kịch và đọc thơ tán tụng nhan sắc và trí tuệ của Nữ vương. [ 23 ] Lúc ấy chức Tổng Giám mục thành Canterbury ( đứng đầu chức sắc Giáo hội Anh ) đang khuyết ; Hồng y Reginald Pole vừa qua đời. Các Giám mục có thế lực khước từ tham gia lễ đăng quang vì chiếu theo giáo luật Công giáo, Elizabeth, một tín hữu Kháng Cách, bị xem là phạm pháp. Chỉ có một chức sắc ít tiếng tăm Owen Oglethorpe, Giám mục thành Carlisle, đến tham gia và trao vương miện cho Nữ vương. Lễ Tiệc Thánh được cử hành bởi tuyên úy của Nữ vương .Lễ đăng quang của Elizabeth I là lần sau cuối được cử hành theo nghi thức Latin ; từ đó, những lễ đăng quang, ngoại trừ của George I, đều được cử hành theo nghi thức Anh. Elizabeth thuyết phục Matthew Parker nhận lãnh chức vụ Tổng Giám mục Canterbury .Ngày 20 tháng 11 năm 1558, Elizabeth chuyện trò với Hội đồng Tư vấn và những nhà quý tộc tụ họp về Hatfield để tuyên thệ trung thành với chủ với Nữ vương, trong đó lần tiên phong bà đề cập đến ẩn dụ ” hai định chế ” thường được sử dụng sau này : định chế vạn vật thiên nhiên và định chế chính trị .

… trách nhiệm đặt nặng trên vai làm trẫm kinh hãi, nhưng khi nhận biết mình là một tạo vật của Thiên Chúa, được dựng nên để vâng phục ý chỉ của Ngài, từ đáy lòng trẫm khao khát được thêm sức bởi ân điển của Ngài, chú ý Chúa được nên trong trách nhiệm Ngài phó thác. Dù là một người như mọi người khác, bởi ý Chúa, trẫm được đặt vào vị trí đứng đầu một định chế chính trị, thế cho nên trẫm mong mọi người … sẽ chung tay giúp sức để triều đại này với sự Giao hàng của thần dân sẽ hoàn thành xong tốt trách nhiệm so với Thiên Chúa toàn năng, và để lại cho hậu thế nhiều điều tốt đẹp. Trẫm hứa sẽ hành vi theo những lời khuyên và tư vấn khôn ngoan và đúng đắn. [ 24 ]

Trước đó, trong cuộc diễu hành thắng lợi đi qua khắp thành phố ngay vào ngày trước lễ đăng quang, Elizabeth được thần dân hết lòng nghênh đón với những bài diễn văn cùng những tiệc tùng tung hô tân vương, hầu hết diễn ra theo khuynh hướng Kháng Cách. Sự duyên dáng và thái độ cởi mở của Elizabeth làm thần dân càng thêm thương mến bà. [ 23 ] Hôm sau, tại Điện Westminster, Owen Oglethorpe, Giám mục Carlise, đội vương miện cho Elizabeth. Lễ đăng quang được xem như thể một sự kiện bộc lộ sự đồng thuận của thần dân, trong âm thanh ồn ả của những loại nhạc cụ như đàn organ, sáo, kèn, trống, và chuông. [ 25 ]

Một trong những mối quan tâm hàng đầu của Elizabeth I khi bắt đầu trị vì là các vấn đề tôn giáo. Nhận biết thần dân muốn Nữ vương khước từ quyền lực của Giáo hoàng và ảnh hưởng của Tây Ban Nha, điều này phù hợp với ước nguyện của bà và những quyết sách được đề nghị bởi Sir William Cecil. Elizabeth cũng biết Giáo hoàng sẽ không chịu công nhận bà là con hợp pháp của Henry VIII và là quân vương của nước Anh.[26] Vì vậy, Nữ vương quyết định thành lập một giáo hội Kháng Cách phù hợp với nguyện vọng người dân Anh.[27] Năm 1559, Quốc hội làm luật thành lập giáo hội theo mô hình của Edward VI, với nhà vua là người đứng đầu giáo hội.[27] Dự luật nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ tại Viện Thứ dân, nhưng gặp chống đối tại Viện Quý tộc, đặc biệt là từ các Giám mục. Tuy nhiên, may mắn cho Elizabeth, nhiều vị trí Giám mục đang khuyết, kể cả chức vụ Tổng Giám mục thành Canterbury.[28][29] Điều này giúp các thành viên Viện Quý tộc ủng hộ Kháng Cách chiếm đa số phiếu khi biểu quyết. Đạo luật Đồng nhất (Act of Uniformity) được Nữ vương phê chuẩn năm 1559, quy định việc sử dụng Sách Cầu nguyện chung theo đức tin Kháng Cách trong các nhà thờ.[30] Bí tích Thánh thể của Giáo hội Công giáo bị bác bỏ. Nữ vương nhận danh hiệu “Thống đốc Tối cao của Giáo hội Anh” thay vì “Đầu của Giáo hội”.

Đạo luật Quyền Tối thượng năm 1559 buộc toàn bộ viên chức công phải đồng ý quyền trấn áp của nhà vua trên giáo hội. Nhiều Giám mục phủ nhận ủng hộ lập trường của Elizabeth bị bãi chức và được thay thế sửa chữa bởi những chức sắc ủng hộ Nữ vương. Bà chỉ định Hội đồng Tư vấn mới, không còn có sự hiện hữu của những thành viên Công giáo. Dưới triều Elizabeth, thực trạng chia rẽ và tranh chấp do bè đảng giảm thiểu đáng kể. Cố vấn trưởng của Nữ vương, Sir William Cecil, đảm nhiệm chức Bộ trưởng Ngoại giao, và Sir Nicholas Bacon làm Quan Chưởng ấn .

Nhiều tín hữu Công giáo, nhất là ở châu Âu đại lục, xem Elizabeth là dị giáo. Ngày 25 tháng 3 năm 1570, Giáo hoàng Piô V ra chỉ dụ Regnans in Excelsis phạt vạ tuyệt thông Elizabeth và gọi là bà là “Nữ vương tiếm vị”.[31] Chỉ dụ này, trên lý thuyết giải phóng người Công giáo tại Anh khỏi nghĩa vụ trung thành với Elizabeth, lại khiến giáo hội Anh liên kết chặt chẽ với vương quyền và đặt người Công giáo tại Anh vào tình huống khó khăn[32]

Robert Dudley. Mối thâm tình giữa Elizabeth và Dudley kéo dài hơn 30 năm.Ngay từ lúc mới lên ngôi, chuyện hôn nhân gia đình của Nữ vương là yếu tố được mọi người chăm sóc. Trong thực tiễn, Elizabeth chưa khi nào kết hôn mà không ai biết rõ nguyên do. Nữ vương cũng từng tính đến việc chọn người phối ngẫu, trong đó có François, Công tước xứ Anjou. Tuy vậy, Elizabeth không thấy cần có một người đàn ông giúp sức để trị nước, và một cuộc hôn nhân gia đình hoàn toàn có thể khiến Nữ vương vướng vào rủi ro tiềm ẩn bị ngoại bang can thiệp vào nội tình nước Anh, như trường hợp của Mary. Mặt khác, hôn nhân gia đình hoàn toàn có thể cho Nữ vương thời cơ có con nối dõi. [ 33 ]Nhiều người muốn kết hôn với Elizabeth, nhưng Nữ vương chỉ xem xét ba hoặc bốn trường hợp. Người bạn từ thuở thiếu thời, Robert Dudley, có lẽ rằng là người có nhiều cơ may nhất. Nhưng Dudley đã kết hôn và William Cecil, cố vấn thân tín nhất của Elizabeth, phản đối mối quan hệ này. Năm 1560, cái chết không rõ nguyên do của Amy Robstart, vợ của Dudley, đã gây ra nhiều lời đồn đoán. [ 34 ] Cuối cùng Nữ vương đặt bổn phận cao hơn tình cảm, phong Dudley làm Bá tước xứ Leicester và chỉ định ông vào Hội đồng Cơ mật, hai người vẫn duy trì tình bạn vĩnh viễn .Sau Dudley, Elizabeth xem hôn nhân gia đình như thể một phần trong chủ trương đối ngoại, [ 35 ] xem đây là nghĩa vụ và trách nhiệm hơn là tình cảm cá thể. Quốc hội nhiều lần khẩn khoản Nữ vương kết hôn, nhưng bà cứ lẩn tránh. [ 36 ] Khi Elizabeth mắc bệnh đậu mùa trong năm 1563, Quốc hội khẩn nài Nữ vương kết hôn hoặc chỉ định người tiếp sau nhằm mục đích tránh một cuộc nội chiến hoàn toàn có thể xảy ra khi bà băng hà, nhưng bị khước từ. Năm 1570, khi những nhân vật chủ chốt trong triều nhận biết Nữ vương không chịu kết hôn, cũng không chỉ định người tiếp sau, William Cecil ra sức tìm kiếm giải pháp cho yếu tố thừa kế. [ 35 ] Nhưng chính sự tĩnh mịch của Elizabeth đã củng cố sự bảo đảm an toàn chính trị cho bà : Nữ vương biết rằng nếu chỉ định người thừa kế hoàn toàn có thể xảy ra một cuộc thay máu chính quyền. [ 37 ] Trong khi đó, thực trạng độc thân của Elizabeth dấy lên trong dân chúng lòng sùng bái dành cho một Nữ vương đồng trinh. Trong thi ca cũng như trong hội họa, Nữ vương được miêu tả như thể một nữ thần, không phải một phụ nữ thông thường. [ 38 ]
Chính sách đối ngoại của Elizabeth hầu hết là phòng thủ, với một ngoại lệ là cuộc chiếm đóng Le Havre lê dài từ tháng 10 năm 1562 đến tháng 6 năm 1563, khi phe Huguenot liên minh với Elizabeth link với phe Công giáo Pháp tái chiếm bến cảng này. Elizabeth định ý trao đổi Le Havre để lấy Calais mà người Pháp đã chiếm lại vào tháng 1 năm 1558. [ 39 ] Năm 1560, bà gởi quân đến Scotland để ngăn cản dự tính của người Pháp sử dụng quốc gia này như một hậu cứ để tiến công nước Anh. [ 40 ] Năm 1585, Elizabeth ký Hiệp ước Nonsuch với Hà Lan nhằm mục đích ngăn ngừa mối đe dọa từ Tây Ban Nha. [ 41 ] Dựa vào sức mạnh của những hạm quân Anh Quốc mà Elizabeth hoàn toàn có thể theo đuổi chủ trương đối ngoại can đảm và mạnh mẽ hơn. Khi tranh chấp với Tây Ban Nha, 80 % đại chiến diễn ra trên mặt biển. [ 42 ] Nữ vương phong tước cho Francis Drake sau chuyến thám hiểm vòng quanh quốc tế từ năm 1577 đến 1580, và sau những cuộc đột kích của ông nhắm vào những hải cảng và hạm quân của Tây Ban Nha. Triều đại của bà cũng tận mắt chứng kiến việc xây dựng những đồn điền tiên phong trên những vùng đất mới ở châu Mỹ, và khu thuộc địa Virginia được đặt tên để vinh danh Nữ vương. Dù vậy, những vụ cướp biển và những vụ làm ăn bất chính của những tay phiêu lưu trên biển vẫn diễn ra ngoài vòng trấn áp của triều đình. [ 43 ] [ 44 ]Elizabeth phê chuẩn Hiệp ước Cateau-Cambresis năm 1559, mang lại tự do cho hai nước Anh và Pháp. Bà ủng hộ nguyên tắc ” Vương Quốc Anh của người Anh “. Tuy nhiên, một chủ quyền lãnh thổ dưới quyền quản lý của bà là Ireland không đồng ý nguyên tắc này .

Mary của Scotland[sửa|sửa mã nguồn]

Mary Stuart, tranh François Clouet, c. 1559Elizabeth có một đối thủ cạnh tranh nguy hại là một người em họ, một giáo dân Công giáo, Mary Stuart, Nữ vương Scotland và là vợ của Vua nước Pháp, François II. Năm 1559, với sự ủng hộ của nước Pháp, Mary công bố là Nữ vương Anh. Chính sách khởi đầu của Elizabeth so với Scotland là chống lại sự hiện hữu của người Pháp ở đây [ 45 ] do lo lắng thủ đoạn của người Pháp xâm lăng nước Anh và đặt Mary, Nữ vương Scotland lên ngai báu Anh Quốc. [ 46 ] Elizabeth gởi quân đến Scotland tương hỗ những người Kháng Cách chống đối. Tháng 7 năm 1560, Hiệp ước Edinburgh được ký kết giúp giải tỏa mối rình rập đe dọa của người Pháp từ phía bắc. [ 47 ] Năm 1561, khi Mary quay trở lại Scotland để cầm quyền thì giáo hội Kháng Cách đã có vị trí vững chãi ở đây, và quốc gia được quản lý bởi một hội đồng những nhà quý tộc Kháng Cách được Elizabeth hậu thuẫn. [ 48 ] Mary phủ nhận phê chuẩn hiệp ước. [ 49 ]Năm 1565, Mary kết hôn với Huân tước Darnley, người công bố quyền thừa kế ngai vàng nước Anh. Tuy vậy, cuộc hôn nhân gia đình là điểm khởi đầu một chuỗi những sai lầm đáng tiếc khiến Mary mất quyền trấn áp vào tay những người Kháng Cách Scotland và Elizabeth. Darnley bị mất lòng dân và mang tiếng xấu khi giải quyết và xử lý vụ án mạng David Rizzio, một thư ký người Ý của Mary. Tháng 2 năm 1567, Darnley bị James Hepburn, Bá tước xứ Bothwell giết chết. Tháng 5 năm 1657, Mary kết hôn với James Hepburn, dấy lên những hoài nghi cho rằng Nữ vương đồng mưu giết chồng .Những sự kiện này mau chóng làm sụp đổ uy tín chính trị của Mary và dẫn đến việc bà bị giam giữ tại Lâu đài Loch Leven. Giới quý tộc Scotland buộc Mary thoái vị và lập con trai của bà, James, kế vị. James sinh năm 1566, được giáo dưỡng trong niềm tin Kháng Cách. Mary trốn thoát khỏi Loch Leven năm 1568, băng qua biên giới để vào nước Anh. Mary bị giam giữ tại đây trong 19 năm. [ 50 ]

Năm 1569, những người chủ mưu vụ Nổi dậy ở phương Bắc âm mưu giải thoát Mary và lập kế hoạch cho bà kết hôn với Thomas Howard, Công tước xứ Norfork. Elizabeth cho bắt giam Howard. Năm 1570, xảy ra vụ mưu phản do Ridolfi cầm đầu nhằm ám sát Elizabeth để tôn Mary lên ngôi. Đến năm 1586 xảy ra vụ mưu phản Babington. Lúc đầu, Elizabeth chống lại chủ trương xử tử hình Mary, nhưng đến cuối năm Nữ vương chịu nhượng bộ trước áp lực của triều thần. Ngày 8 tháng 2 năm 1587, Mary bị chém đầu tại Lâu đài Fotheringhay, Northamptonshire.[51]

Tây Ban Nha[sửa|sửa mã nguồn]

Chân dung Elizabeth I trong ngày đọc diễn văn thắng lợi Hạm đội Tây Ban Nha ( Armada ), 19 tháng 8 năm 1588 ( minh họa phía sau ) ; bàn tay Nữ vương đặt trên quả địa cầu biểu trưng sức mạnh toàn thế giới của nước Anh .Sau những thất bại thảm hại trong vụ Le Havre từ năm 1562 – 1563, Elizabeth chống lại việc mở những cuộc viễn chinh nhắm vào lục địa Âu châu mãi cho đến năm 1585, khi Nữ vương cử một đạo quân đến hỗ trợ lực lượng phiến quân Kháng Cách tại Hà Lan đang chống lại vua Tây Ban Nha Felipe II. Sau khi những liên minh của Elizabeth, Hoàng thân Guillaume I của Orange-Nassau, và François ( Công tước Anjou ) từ trần, và một loạt những thị xã Hà Lan chịu thần phục Alexander Farnese Công tước xứ Parma, Thống đốc Hà Lan thuộc Tây Ban Nha. Tháng 12 năm 1584, liên minh giữa Felipe II và Liên đoàn Công giáo Pháp tại Joinville làm xói mòn sức mạnh của Henri III của Pháp, em của Anjou, trong nỗ lực chống lại quyền thống trị của Tây Ban Nha tại Hà Lan. Nó cũng lan rộng ra tác động ảnh hưởng của Tây Ban Nha dọc theo Eo biển Manche trên đất Pháp và trở thành mối rình rập đe dọa so với nước Anh. [ 41 ] Tháng 8 năm 1585, Anh và Hà Lan phản ứng bằng cách ký kết Hiệp ước Nonsuch, theo đó Elizabeth cam kết tương hỗ quân sự chiến lược cho Hà Lan. Hiệp ước này ghi lại sự bùng nổ Chiến tranh Anh-Tây Ban Nha, lê dài đến năm 1604 khi Hiệp ước Luân Đôn được ký kết .Năm 1586, Sir Francis Drake mở màn tập kích những tàu buôn Tây Ban Nha trên Thái Bình Dương và vùng biển Caribbean, và mở một cuộc tiến công kinh hoàng vào cảng Cádiz .Cuộc viễn chính dưới quyền chỉ huy của Robert Dudley, Bá tước xứ Leicester, là một thất bại. [ 52 ] Thiếu hụt tiền và binh lính cộng với sự bất tài của Dudley đã làm hỏng chiến dịch. Đến tháng 12 năm 1587, Dudley phải từ nhiệm và vua Felipe II quyết định hành động tiến chiếm nước Anh [ 53 ]Ngày 12 tháng 7 năm 1588, Armada Tây Ban Nha, hạm quân nổi tiếng và là sức mạnh thống trị trên mặt biển của Đế quốc Tây Ban Nha, giong buồm đến eo biển, sẵn sàng chuẩn bị cho cuộc xâm lăng trong kế hoạch phối hợp với đạo quân tinh nhuệ nhất của Công tước xứ Parma, từ Hà Lan tiến đánh vào bờ biển đông nam nước Anh. Nhờ thời tiết thuận tiện, với những tàu chiến nhỏ nhưng cơ động, cùng những tin tức tình báo gởi đi từ Hà Lan, thủy quân Anh sẵn sàng chuẩn bị sẵn sàng chuẩn bị cạnh tranh đối đầu Armada Tây Ban Nha với những tàu chiến lớn và trang bị hỏa lực mạnh. Do giám sát sai, [ 54 ] thiếu suôn sẻ và bị những con tàu lửa ( những chiếc thuyền chất đầy vật tư bắt lửa, phóng hỏa và lao vào hạm chiến địch ) của Anh tiến công. Mặt khác, vào ngày 1 tháng 8, những tàu chiến của Tây Ban Nha cắm neo trong hải cảng Graville bị đánh bạt lên phía hướng đông bắc, Armada bị vượt mặt. Hạm đội bị đánh tan tác quay về Tây Ban Nha sau khi gánh chịu những thiệt hại nặng nề gây ra bởi những cơn bão dữ trên biển Ireland. [ 55 ]Ngày 9 tháng 8 lịch Julius ( tức ngày 19 tháng 8 theo Lịch Gregorius ), [ 56 ] Elizabeth đến thị sát quân binh trú đóng tại Tilbury ở Essex. Mang một áo giáp che ngực bằng bạc bên ngoài chiếc áo dài màu trắng, Nữ vương đã đọc một trong những bài diễn văn nổi tiếng nhất của mình : [ 57 ]

Trẫm vẫn thường được khuyến nghị hãy cẩn trọng giữ mình khi đến giữa hàng quân có vũ trang, vì quan ngại những thủ đoạn bội phản ; nhưng trẫm bảo vệ rằng trẫm không hề muốn sống mà không tin yêu thần dân trung thành với chủ và đáng yêu của trẫm. Chỉ có những bạo chúa mới lo âu như vậy …Trẫm biết rằng mình chỉ là một phụ nữ yếu ớt ; nhưng là một phụ nữ có trái tim và lòng dũng mãnh của một quân vương, của một vua chúa nước Anh, dám coi thường cả Parma [ 58 ] và Tây Ban Nha, hoặc bất kể vua chúa châu Âu nào muốn xâm lăng bờ cõi của trẫm … [ 59 ]

Khi thoát nạn ngoại xâm, cả nước vui mừng. Buổi lễ Tạ ơn ở Đại giáo đường Thánh Phao-lô được tổ chức triển khai trang trọng không kém lễ đăng quang. [ 55 ] Việc vượt mặt hạm chiến nổi tiếng của Tây Ban Nha là một thắng lợi vang dội, cho Elizabeth và cho những người Kháng Cách tại Anh. Người dân Anh xem sự kiện này như là dấu chỉ về sự phù trợ của Thiên Chúa, và về sự bất khả xâm phạm của vương quốc dưới quyền quản lý của một Nữ vương đồng trinh. [ 42 ] Tuy nhiên, thắng lợi này không đổi khác toàn cục đại chiến. Chiến tranh vẫn tiếp nối, Tây Ban Nha liên tục trấn áp Hà Lan, và mối đe dọa xâm lăng vẫn còn đó. [ 53 ]
Khi Henri IV, một tín hữu Kháng Cách, lên ngôi báu năm 1589, Elizabeth điều quân đến tương hỗ tân vương. Quyền thừa kế của Henri bị thử thách bởi Liên minh Công giáo và Felipe II, do đó Elizabeth e rằng Tây Ban Nha sẽ chiếm đóng những hải cảng dọc eo biển, tuy nhiên những chiến dịch của Anh triển khai trên đất Pháp lại tổ chức triển khai kém và thiếu hiệu suất cao. [ 60 ] Huân tước Willoughby, phần đông chẳng chăm sóc đến những mệnh lệnh của Nữ vương, xua 4.000 quân lên phương bắc mà chẳng thu được hiệu quả nào. Tháng 12 năm 1589, quân Anh phải triệt thoái trong hỗn loạn, thiệt hại 50% quân số. Năm 1591, John Norreys dẫn 3.000 quân tiến đến Bretagne để chuốc lấy thất bại thảm hại. [ 61 ]Trong những cuộc viễn chinh, Elizabeth không muốn cung ứng nhu yếu của những tư lệnh mặt trận khi họ cần thêm quân dụng và viện binh hỗ trợ. Norreys phải đích thân về Luân Đôn để cầu viện, khi ấy quân đội của Liên minh Công giáo tiến đến tàn sát binh lính của ông tại Craon, phía tây bắc nước Pháp, vào tháng 5 năm 1591. Tháng 7, Elizabeth gởi một đạo quân khác dưới quyền chỉ huy của Robert Devereux, Bá tước xứ Essex, đến giúp Henri IV vây hãm thành Rouen. Lại thêm một thất bại : Devereux chẳng làm được gì và phải quay trở lại vào tháng 1 năm 1592. [ 62 ] Thông thường, Elizabeth không trấn áp được những tư lệnh một khi họ đem quân ra quốc tế. ” Ông ta ở đâu, làm gì, hoặc sẽ làm gì, trẫm không hề hay biết. ” Elizabeth viết như thế về Devereux. [ 63 ]
Mặc dù Ireland là một trong hai vương quốc của Elizabeth, bà phải đối lập với sự thù nghịch ở đây – trong những khu vực được dành cho quyền tự trị – [ 64 ] ở đó dân cư Công giáo ủng hộ quân địch của Nữ vương. Chính sách của Elizabeth là ban đất cho những cận thần và ngăn ngừa những người chống đối thiết lập hậu cứ cho Tây Ban Nha tiến công nước Anh. [ 40 ] Để đáp trả những cuộc nổi dậy liên tục, quân Anh vận dụng giải pháp đốt phá và tàn sát đàn ông, phụ nữ và trẻ nhỏ. Năm 1582, trong cuộc nổi dậy ở Munster của Gerald FitzGerald, Bá tước xứ Desmond, ước tính có khoảng chừng 30.000 người Ireland bị bỏ đói cho đến chết .Từ năm 1594 đến 1603 là quy trình tiến độ khó khăn vất vả nhất khi xảy ra cuộc nổi dậy gọi là Loạn Tyrone, hay Cuộc chiến Chín năm do Hugh O’Neill, Bá tước xứ Tyrone chỉ huy với sự hậu thuẫn của Tây Ban Nha. [ 65 ] Mùa xuân năm 1599, Elizabeth sai Robert Devereux, Bá tước xứ Essex, đến dẹp loạn, nhưng ông này không làm được gì mà còn tự ý bỏ về. Charles Blount, Huân tước Mountjoy, được cử đến sửa chữa thay thế Devereux, phải mất ba năm mới đánh bại quân phiến loạn. Năm 1603, O’Neill chịu đầu hàng, chỉ ít ngày sau khi Elizabeth qua đời. [ 66 ]
Hình ảnh của Elizabeth biến hóa theo tuổi tác và khi đời sống độc thân được chứng minh và khẳng định. Nữ vương được miêu tả như là Belphoebe hay Astraea, sau thắng lợi Armada, là Gloriana, còn trong thi ca của Edmund Spencer, là Faerie Queene, Nữ vương muôn đời tươi tắn. Các bức họa chân dung của Nữ vương ngày càng trở nên siêu thực và Nữ vương trở thành một hình tượng huyền bí trông tươi tắn hơn trong thực tiễn rất nhiều. Trong thực tiễn, da mặt Nữ vương bị rỗ hoa do mắc bệnh đậu mùa năm 1562, bà bị hói đầu nên phụ thuộc vào vào tóc giả và mỹ phẩm. [ 67 ] [ 68 ]Giai đoạn sau thắng lợi Armada năm 1588 là những năm khó khăn vất vả lê dài cho đến lúc kết thúc triều đại Elizabeth. [ 69 ] Tranh chấp với Tây Ban Nha và Ireland cứ dai dẳng, gánh nặng thuế má càng nặng hơn, thêm vào đó là thất mùa và ngân sách cuộc chiến tranh. Vật giá càng leo thang mức sống càng xuống thấp. [ 70 ] [ 71 ] Trong khi đó, những giải pháp trấn áp người Công giáo được tăng cường, đến năm 1591, Elizabeth được cho phép thẩm vấn và lục soát nhà ở người Công giáo. [ 72 ] Elizabeth ngày càng phụ thuộc vào vào những phương tiện đi lại tuyên truyền để nuôi dưỡng trong dân chúng ảo tưởng về một quốc gia an bình và thịnh vượng. [ 70 ] Trong những năm cuối, sự chỉ trích ngày càng tăng phản ánh sự bất bình của thần dân so với Nữ vương. [ 73 ]Tuy nhiên, đây chính là thời kỳ hoàng kim của văn học Anh. [ 74 ] Những tín hiệu tiên phong của trào lưu văn học mới khởi phát vào cuối thập niên thứ hai của triều đại Elizabeth với ” Euphues ” của John Lyly, và ” The Shepheardes Calender ” của Edmund Spencer trong năm 1578. Trong thập niên 1590, 1 số ít trong những năng lực lớn nhất của nền văn học Anh đến độ chín mùi, trong đó có William Shakespeare và Christopher Marlowe. Cùng với thời kỳ Jacobe sau đó, nền kịch nghệ Anh đạt đến đỉnh điểm của mình. [ 75 ] Khái niệm về thời đại Elizabeth huy hoàng được thiết kế xây dựng bởi những tên tuổi trong những lãnh vực kiến trúc, kịch nghệ, thi ca và âm nhạc .Ngày 4 tháng 8 năm 1598, cố vấn thân cận nhất của Elizabeth, Nam tước Burghley, từ trần. Con trai của ông, Robert Cecil, được chọn làm người thay thế sửa chữa, sau đó trở thành người chỉ huy cơ quan chính phủ. [ 76 ] Một trong những trách nhiệm của Cecil là sẵn sàng chuẩn bị cho một tiến trình chuyển giao quyền lực tối cao êm thắm. Do Elizabeth không công khai minh bạch chọn người tiếp sau nên Cecil phải thao tác trong bí hiểm. [ 77 ] Cecil thương thảo riêng với vua James VI của Scotland, người thừa kế hợp pháp nhưng không được công nhận. Theo lời khuyên của Cecil, James cố làm Elizabeth khuây khỏa và ” chiếm được tình cảm của bậc chí tôn “. Theo sử gia J. E. Neale, dù không công khai minh bạch công bố truyền ngôi cho James, quần thần đều biết dự tính này của Nữ vương. [ 78 ]Sức khỏe của Elizabeth vẫn tốt cho đến mùa thu năm 1602, một loạt những cái chết của bạn hữu khiến Nữ vương rơi vào thực trạng trầm cảm nghiêm trọng. Tháng 2 năm 1603, cô em họ cũng là người bạn thân tín, Catherine Carey, Nữ Công tước xứ Nottingham, qua đời ; đây là cú sốc so với Nữ vương. Tháng 3, Elizabeth ngã bệnh và vùi mình trong ” nỗi sầu khổ khôn nguôi “. [ 79 ] Elizabeth mất ngày 24 tháng 3 năm 1603 tại Lâu đài Richmond, khoảng chừng giữa hai giờ và ba giờ sáng. Vài giờ sau, Cecil và hội đồng công bố James Stuart của Scotland trở thành vua James I của Anh. [ 80 ]Quan tài của Elizabeth được mang đi ngay trong đêm trên thuyền rồng đến Lâu đài Whitehall. Trong tang lễ tổ chức triển khai vào ngày 28 tháng 4, quan tài của Nữ vương, phủ bằng nhung tím, được đưa đến Điện Westminster trên xe tang bốn ngựa kéo. Ghi chép của nhà viết sử John Stow :

Westminster bao phủ đầy người thuộc mọi tầng lớp, tràn ngập đường phố, các ngôi nhà, mọi cửa sổ, trên mái nhà, tập hợp tại đây để dự tang lễ. Khi đám đông nhìn thấy tượng Nữ vương trên quan tài, liền vang lên tiếng thở dài, rên rỉ, than khóc như chưa từng xảy ra bao giờ[81]

Đám tang của Elizabeth năm 1603Dù thút thít tiếc thương, dân chúng cảm thấy nhẹ nhõm khi Nữ vương qua đời. [ 82 ] Sự Open một thế hệ chỉ huy mới mang đến những tín hiệu tốt bắt đầu với nỗ lực kết thúc đại chiến chống Tây Ban Nha năm 1604 và cắt giảm thuế. Mãi cho đến năm 1612 khi Robert Cecil qua đời, chủ trương của triều đình không có nhiều đổi khác so với trước kia. [ 83 ] Tuy vậy, triều đại James I không được lòng dân khi nhà vua giao trách nhiệm cho những người thân tín ; đến thập niên 1620, dân chúng khởi đầu nhớ về Elizabeth với sự hụt hẫng. [ 84 ] Nữ vương được tôn vinh như thể một nữ anh hùng đấu tranh cho chính nghĩa Kháng Cách và là nhà chỉ huy một thời kỳ hoàng kim, trong khi họ xem James là người ủng hộ Công giáo, dưới tay là đám triều thần thối nát. [ 85 ] Trong những năm cuối đời, hình ảnh huy hoàng của Elizabeth được tô điểm tỏa nắng rực rỡ hơn, những khó khăn vất vả kinh tế tài chính, quân sự chiến lược và thực trạng phân hóa được xem là những vấn nạn nhất thời và thanh danh của Nữ vương càng lên cao. Triều đại Elizabeth được lý tưởng hóa để trở thành một thời kỳ mà hoàng gia, giáo hội và QH hoạt động giải trí hòa giải trong sự cân đối quyền lực tối cao được lao lý bởi hiến pháp. [ 86 ]Hình tượng của Elizabeth được miêu tả bởi những người Kháng Cách ngưỡng mộ bà từ thế kỷ XVII gây nhiều ảnh hưởng tác động và có giá trị lâu dài hơn. [ 87 ] Ký ức về Nữ vương trở nên sôi động khi xảy ra cuộc chiến tranh chống Napoleon, lúc ấy nước Anh đang cận kề họa ngoại xâm. [ 88 ] Trong thời kỳ Victoria, lịch sử một thời Elizabeth hội nhập thuận tiện vào ý thức hệ của đế chế. [ 82 ] [ 89 ] Đến giữa thế kỷ XX, Elizabeth trở nên hình tượng lãng mạn cho niềm tin dân tộc bản địa chống lại tai hại ngoại bang. [ 90 ] [ 91 ] Các sử gia trong quá trình này như J. E. Neale ( 1934 ), và A. L. Rowse ( 1950 ) xem triều đại Elizabeth là thời kỳ hoàng kim của sự tân tiến. [ 92 ]Tuy nhiên, những sử gia tân tiến có quan điểm nghiêm khắc hơn về Elizabeth. [ 93 ] Sự kiện điển hình nổi bật nhất trong thời trị vì của bà là chiến tích vượt mặt Armada, và những cuộc tập kích nhắm vào người Tây Ban Nha như vụ Cádiz trong năm 1578 và 1596, tuy nhiên 1 số ít sử gia cũng chỉ ra những thất bại quân sự trên bờ cũng như trên mặt biển như vụ ” Island voyage ” năm 1597. [ 60 ] Cung cách Elizabeth xử lý những yếu tố ở Ireland là một vết ố trên bảng thành tích của bà. [ 94 ] Do thiếu quyết đoán trong chủ trương đối ngoại, khó hoàn toàn có thể xem Elizabeth là một quân vương gan góc đứng ra bảo vệ những vương quốc Kháng Cách chống lại Tây Ban Nha và nhà Habsburg. Thường khi Nữ vương chỉ đáp ứng sự trợ giúp tối thiểu cho những lân bang Kháng Cách, và không chịu cấp tiền khá đầy đủ cho những tướng lĩnh hầu hoàn toàn có thể biến hóa tình hình ở hải ngoại. [ 95 ]
Một đồng sovereign thời Elizabeth, mặt trước khắc hình Nữ vương cầm vương trượng và quả cầu thánh giá, mặt sau khắc huy hiệu hoàng gia bên trong bông hồng Tudor .

Việc Elizabeth thiết lập giáo hội Anh đã giúp định hình bản sắc dân tộc cho nước Anh cho đến ngày nay.[96][97][98] Song, những người tôn vinh bà như là người anh hùng của chính nghĩa Kháng Cách đã bỏ qua sự kiện Nữ vương từ chối bác bỏ tất cả nghi thức Công giáo.[99][100] Các sử gia cũng ghi nhận rằng lúc ấy các tín hữu Kháng Cách sùng tín xem Đạo luật Settlement and Uniformity năm 1559 của Nữ vương là một sự thỏa hiệp.[101][102][103] Thật vậy, Elizabeth xem đức tin là một vấn đề cá nhân, và không muốn, theo cách nói của Francis Bacon, “thâm nhập vào lòng và tư tưởng thầm kín của người khác”.[104][105]

Dù chủ trương phòng thủ trong chủ trương ngoại giao, triều đại Elizabeth tận mắt chứng kiến sự thăng quan tiến chức vượt bậc của nước Anh trên trường quốc tế. Giáo hoàng Xíttô V nhận xét về bà với sự kinh ngạc, ” [ Elizabeth ] chỉ là một phụ nữ, bà chủ trên 50% hòn hòn đảo, nhưng đã làm Tây Ban Nha, Pháp, [ Thánh chế La Mã ], và mọi người lúng túng “. [ 106 ] Trong thời trị vì của Nữ vương, nước Anh giành được lòng tự tin và quyền tự quyết trong khi cả quốc tế Cơ Đốc giáo đang bị phân hóa. [ 84 ] [ 107 ] [ 108 ] Elizabeth là người tiên phong trong dòng họ Tudor thừa nhận rằng một quân vương chỉ hoàn toàn có thể quản lý quốc gia với sự đồng thuận của dân cư. [ 109 ] Do đó, Nữ vương luôn hợp tác với QH và những cố vấn là những người bà tin là dám nói lên thực sự – nghệ thuật và thẩm mỹ trị nước mà những quân vương thuộc dòng họ Stuart đã không chịu học hỏi. Trong khi 1 số ít sử gia cho rằng bà là người như mong muốn, [ 106 ] Elizabeth tin rằng bà được Thiên Chúa phù trợ. [ 110 ] Tự hào là một người Anh, [ 111 ] Nữ vương tin rằng Thiên Chúa, những lời khuyên chân tình, và tình yêu thần dân dành cho bà là những tác nhân xây đắp sự thành công xuất sắc của triều đại Elizabeth. [ 112 ] Trong một lần cầu nguyện, Elizabeth dâng lời tạ ơn Thiên Chúa :

Trong lúc cuộc chiến tranh và bạo loạn cùng sự ngược đãi luôn quấy nhiễu những vua chúa và những lân bang, thì triều đại tôi vui hưởng thái bình, và bờ cõi tôi là nơi ẩn náu cho hội thánh của Chúa. Tình yêu sắt son thần dân dành cho tôi khiến quân địch của tôi vỡ mộng. [ 106 ]

Hình ảnh Elizabeth I trong văn hóa truyền thống[sửa|sửa mã nguồn]

Trải qua bốn thế kỷ, Nữ vương Elizabeth I là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn học thẩm mỹ và nghệ thuật .

Hội họa, văn học, kịch nghệ, và âm nhạc[sửa|sửa mã nguồn]

Kịch, Điện ảnh, và Truyền hình[sửa|sửa mã nguồn]

Hình tượng Elizabeth Open nhiều trên sân khấu kịch, trong phim điện ảnh và truyền hình. Thật vậy, bà là quân vương nước Anh được làm phim nhiều nhất. [ 113 ] [ 114 ] George MacDonald Fraser wrote ” no historic figure has been represented more honestly in the cinema, or better served by her players “. [ 115 ]
Shakespeare in Love.Judi Dench, đoạt Giải Oscar với vai Elizabeth trong phimTrong điện ảnh, những diễn viên sau từng đóng vai Elizabeth :
Trên truyền hình, vai Elizabeth được giao cho :

  1. ^

    Các ngày trong bài viết này được tính trước ngày 14 tháng 9 năm 1752 theo lịch Julian và ngày 1 tháng 1 được coi là ngày đầu năm, mặc dù ngày 25 tháng 3 được coi là ngày đầu năm ở Anh trong thời gian Elizabeth còn sống

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

  • William Camden. Annales Rerum Gestarum Angliae et Hiberniae Regnante Elizabetha. (1615 and 1625.) Hypertext edition, with English translation. Dana F. Sutton (ed.), 2000. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2007.
  • Tudor and Elizabeth Portraits. Tudor and Elizabethan portraits and other works of art, provided for research and education. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2007.

Source: https://thevesta.vn
Category: Thế Giới