Vẻ đẹp tâm hồn, sức sống con người Việt Nam qua một số tác phẩm văn học dân gian – Tài liệu text
Vẻ đẹp tâm hồn, sức sống con người Việt Nam qua một số tác phẩm văn học dân gian Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.28 KB, 20 trang )
Bạn đang đọc: Vẻ đẹp tâm hồn, sức sống con người Việt Nam qua một số tác phẩm văn học dân gian – Tài liệu text
CHUYÊN ĐỀ DẠY ĐT HSGQG NĂM 2014
LUYỆN ĐỀ: VẺ ĐẸP TÂM HỒN, SỨC SỐNG CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM
QUA MỘT SỐ TÁC PHẨM VHDG
Phần I. Nhắc lại về vẻ đẹp tâm hồn, sức sống của con người VN qua một
số tác phẩm VHDG
Viết về con người, về tâm hồn và sức sống của con người là một nội
dung xuyên suốt của văn học các thời đại, thể hiện chủ nghĩa nhân đạo trong
văn học. Văn học dân gian là tiếng nói của nhân dân lao động, được ra đời từ
trong chính cuộc sống lao động của người dân. Bởi vậy, những tác phẩm VHDG
thể hiện tâm tư, ước vọng, và cả sức sống bền bỉ của người dân lao động, dù
cuộc sống có muôn vàn cực khổ, có bị áp bức, bóc lột thì vẫn luôn gắng sức vì
cuộc sống, đấu tranh để đòi quyền sống, vẫn lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống,
vào sức mạnh của chính nghĩa.
1.
Con người chịu nhiều khó khăn, thử thách
– Cuộc sống là một bản nhạc không bình lặng mà có nhiều nốt thăng, nốt
trầm, có những niềm vui nhưng cũng đầy rẫy những khó khăn, thử thách,
nhất là trong xã hội xưa, khi khoa học kĩ thuật còn lạc hậu và hủ tục, luật lệ
còn nặng nề. Các tác phẩm VHDG đã ghi lại những khó khăn, vất vả ấy của
người dân lao động.
– Những khó khăn của họ trên rất nhiều lĩnh vực. Đó có thể là những vất vả
trong lao động (Cày đồng đang buổi ban trưa….ruộng cày); những hiểm nguy
trong cuông cuộc kiếm kế sinh nhai (con cò mà đi ăn đêm….); những thiếu
thốn về vật chất (Hai cha con CĐT chung một chiếc khố, Tấm không có quần
áo đẹp, lành lặn để đi xem hội; người em út chỉ có một túp lều và một cây
khế…). Những khó khăn của họ còn là bị áp bức, bóc lột bởi bọn chúa đất
phong kiến (cơ khổ cho đứa giữ trâu..), bị ngăn cấm tình yêu tự do (Mẹ em
tham thúng xôi rền….), bị coi rẻ thân phận (thân em như tấm lụa đào….), bị kẻ
thù xâm lược đàn áp (- Cha đời lính tẩy, lính Tây / Hễ trông thấy gái giở ngay
xì xồ / Một tháng sáu phiên chợ Đơ/ Kẻ gian cũng lắm, lệ cơ cũng nhiều.)…
2. Vẻ đẹp tâm hồn, sức sống của con người Việt Nam qua một số tác
phẩm VHDG.
– Mặc dù cuộc sống có nhiều khó khăn, thử thách nhưng người dân lao động
vẫn thể hiện một vẻ đẹp tâm hồn ngời sáng và một sức sống phi thường, kiên
trì, bền bỉ, sẵn sàng đối diện và vượt qua mọi khó khăn, thử thách, vươn đến
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Qua các tác phẩm VHDG, ta thấy sáng lên ở người
dân lao động là những phẩm chất tốt đẹp như hiền lành (Tấm), hiếu thảo
(Tấm, CĐT), sống yêu thương, tình nghĩa (ca dao), không chỉ yêu con người
mà còn yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước. Đồng thời, họ cũng có một
sức sống phi thường. Họ kiên trì, bền bỉ làm lụng để vượt qua những khó
khăn, vất vả về vật chất (CĐT, ca dao), vượt qua thiên tai (Sơn Tinh – Thủy
Tinh); họ không đầu hàng số phận mà vẫn tìm mọi cách để sinh tồn (tháng
giêng, tháng hai….tháng nạn/ Đi vay đi tạm được một quan tiền…); họ kiên
trì đấu tranh để giành lại sự sống (Tấm đấu tranh giành sự sống), kiên trì bảo
vệ tình yêu và hạnh phúc (Tấm, CĐT); đấu tranh với kẻ thù để bảo vệ giang
sơn gấm vóc (ca dao, Thánh Gióng, An Dương Vương). Và, trong công cuộc
đấu tranh để vươn lên trong cuộc sống, mỗi người dân lao động đều luôn lạc
quan, tin tưởng ở tương lai, tin tưởng ở chính nghĩa (kết thúc có hậu của
truyện cổ tích, ca dao…).
Phần 2. Đề bài luyện tập
Đề 1: Bàn về ca dao, Nguyễn Đình Thi viết:
“ Ca dao là tấm gương của tâm hồn dân tộc”.
Anh (chị) hiểu lời nhận định trên như thế nào ? Bằng những hiểu biết về ca
dao Việt Nam, hãy làm sáng tỏ.
GỢI Ý
1.
Giải thích nhận định:
– Ca dao là một trong những dòng chính của thơ ca trữ tình; tác giả là
quần chúng nhân dân lao động. Do phát sinh từ những sinh hoạt của
người bình dân (lao động, cộng đồng, gia đình) nên ca dao diễn tả đời
sống nội tâm của nhân dân, dân tộc.
-Tấm gương là cách nói bằng hình ảnh để cho người đọc thấy sự chân
thực, cụ thể, sinh động, toàn diện của ca dao khi phản ánh tâm hồn con
người Việt Nam.
Ý nghĩa nhận định: Ca dao phản ánh một cách chân thật đời sống
tâm hồn dân tộc. Nói cách khác đến với ca dao người đọc bắt gặp tâm hồn
dân tộc, đời sống tâm tư tình cảm của cả một dân tộc. Từ đó,tâm hồn
người đọc như được phù sa bồi đắp, nuôi dưỡng, trở nên phong phú, trong
sáng và trưởng thành hơn.
2. Khẳng định vấn đề mà nhận định đặt ra
Đây là một nhận xét xác đáng, khái quát được nội dung bao trùm của ca
dao
3.Làm sáng tỏ nhận định qua hiểu biết về ca dao
a. Ca dao có khả năng biểu hiện vô cùng phong phú, bao trùm mọi mặt
đời sống tình cảm của con người, qua đó ta thấy được tâm hồn dân tộc.
-Tình yêu quê hương đất nước.
+ Quê hương là nơi ta sinh ra và lớn lên, ở đó có hình ảnh dòng sông,
bến nước, luỹ tre, cánh đồng…ăn sâu vào tâm hồn mỗi con người. Người
Việt Nam đi đâu cũng nhớ về quê hương :
“ Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”
+ Hình ảnh quê hương đất nước hiện lên trong ca dao vừa gần gũi thân
thương vừa đẹp đến nao lòng
“ Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói toả cành sương
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”
Một con đường xứ Nghệ với cảnh non xanh nước biếc đẹp như tranh, cảnh
Đồng Đăng, nhà Bè….
+ Lòng tự hào về vẻ đẹp quê hương, truyền thống dân tộc( Đánh giặc:
“ Ru con con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng
Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu cánh kiếm cho chồng đi quân”
Đoàn kết yêu thương gắn bó
“ Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
–
Tâm hồn Việt Nam là tâm hồn lạc quan yêu cuộc sống. Cuộc sống lao động vất
vả nhưng với họ luôn nhộn nhịp vui tươi:
“ Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc nhớ ngày phong lưu
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”
“Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau”
“ Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”
Đó là những cảnh đầm ấm hạnh phúc, cảnh thơ mộng. Tiếng hát lạc quan, ước
mơ hi vọng đem đến nụ cười trên môi người lao động bớt đi nhọc nhằn cay đắng.
( Có thể bổ sung ca dao hài hước trong sách giáo khoa)
–
Tâm hồn người Việt Nam chan chứa lòng yêu thương, nặng ân nghĩa,
sâu ân tình.
+ Tình yêu giữa người với người là âm điệu sâu lắng mà tha thiết được
đi sâu khai thác biểu hiện.
. Tình yêu lứa đôi sâu sắc.Tình cảm gia đình thiêng liêng :
“ Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…”
“ Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người”
. Tình nghĩa đồng bào:
“ Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
+ Con người Việt Nam sống có thuỷ, có chung, có tình, có nghĩa. Vì vậy
những bài ca dao về ân nghĩa trở thành phổ biến
( Chùm ca dao yêu thương tình nghĩa)
“ Đem vàng đem nghĩa mà cân
Vàng thì nặng bảy, ái ân nặng mười”
+Khao khát được giãi bày tình cảm
( phân tích những câu ca dao than thân)
b. Để biểu hiện tâm hồn phong phú của dân tộc, hình thức ca dao thật
nhuần nhị trong sáng: cấu tứ, hình ảnh, giai điệu, hình thức đối đáp,
ngôn ngữ.
Hình thức này đã làm cho đời sống dân tộc trong ca dao được thăng
hoa
4. Bình luận nâng cao
– Ca dao thực sự là hòn ngọc quý trong kho tàng văn học dân tộc, với
ngôn ngữ trong sáng, sức biểu cảm tinh tế. Ca dao đã phản ánh sâu sắc
tâm hồn tính cách con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Tâm hồn dân tộc
đã làm nên sức sống của ca dao.
– Ngày nay ca dao vẫn giữ một vị trí quan trọng trong đời sống tình
cảm của nhân dân, là bài học lớn cho các nhà văn nhà thơ.
– Thế hệ trẻ cần biết quý trọng gìn giữ ca dao.
Đề 2
Lời thơ dân gian không những sẽ bước đầu cho ta làm quen với tâm tư tình
cảm của đồng bào ta xưa kia mà đồng thời sẽ còn giúp ta học được những
cách nói năng tài tình chính xác. Theo tôi, đối với một người Việt Nam mà
thiếu những kiến thức này thì có thể xem như là thiếu một trong những điều
cơ bản.
(Hoài Thanh, Một vài suy nghĩ về ca dao,
Báo Văn nghệ, số 1, 2-1-1982)
Qua một số bài ca dao đã học, đã đọc, anh (chị) hãy giải thích và làm
sáng tỏ ý kiến trên.
GỢI Ý
1. Dẫn dắt, giới thiệu ý kiến
2. Giải thích ý kiến của Hoài Thanh
2.1. Giải thích từ, cụm từ
* Lời thơ dân gian
– Trong văn học dân gian có rất nhiều thể loại tập trung thể hiện đời
sống của người dân xưa.
– Trong đó, ca dao là thể loại trữ tình bằng văn vần, diễn tả đời sống nội
tâm của con người. Nói cách khác, ca dao là thơ trữ tình dân gian truyền
thống.
– Lời thơ dân gian là nói đến ca dao
* … làm quen với tâm tư tình cảm của đồng bào ta xưa kia
– Ca dao là tiếng nói tâm hồn sâu lắng, tha thiết của đồng bào ta xưa
kia.
– Trong ca dao, tất cả những nỗi niềm cảm xúc của nhân dân ta đều
được bộc lộ. Đó là tiếng nói yêu thương tình nghĩa, là những lời than thân
trách phận, là tiếng cười vừa hài hước, vừa sâu cay, là mơ ước, là hi vọng,
chờ đợi…
– Đọc và tìm hiểu ca dao, người đọc sẽ cảm nhận được tất cả những
cung bậc cảm xúc đó trong đời sống tinh thần của người xưa.
*… học được cách nói năng tài tình, chính xác
– Trong văn học dân gian cũng như trong ca dao, ngôn ngữ được sử
dụng chủ yếu là lời ăn tiếng nói hằng ngày giản dị, nôm na của những người
lao động.
– Song cách nói năng ấy không phải không tài tình chính xác. Đó là cách
nói xa vời, bay bổng khi thể hiện một tình yêu thầm kín, là cách nói đầy hình
ảnh khi bộc bạch tâm trạng xót xa cho thân phận nghèo, là cách nói hóm hỉnh
khi giễu cợt, đả kích…
– Cách nói năng đó đã giúp người đọc ca dao có thêm những kinh
nghiệm quý báu trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc.
*… thiếu một trong những điều cơ bản
– Điều cơ bản: điều cốt lõi, không thể không có
– Văn học dân gian Việt Nam nói chung và ca dao Việt Nam nói riêng là
kho tàng quý báu chứa đựng những nét đẹp truyền thống của văn hóa dân
tộc Việt Nam, là cội nguồn của sự hình thành và phát triển đời sống tinh thần
của mỗi con người Việt Nam.
– Đến với văn học dân gian, đến với ca dao, mỗi người Việt Nam sẽ được
đến với đời sống của chính ông cha, tổ tiên mình. Đó là nền tảng cơ bản cho
sự phát triển mỗi nhân cách.
2.2. Nội dung của cả ý kiến
Hoài Thanh khẳng định: Ca dao Việt Nam không chỉ giúp mỗi người
Việt Nam hiểu được đời sống tinh thần phong phú, đẹp đẽ của cha ông mình
xưa kia mà còn giúp họ có thêm những cách nói năng giản dị mà chính xác,
tài tình khi sử dụng ngôn ngữ dân tộc. Đó là những kiến thức cốt lõi không
thể thiếu để mỗi con người Việt Nam tự phát triển mình.
3. Làm sáng tỏ ý kiến
3.1. Tâm tư tình cảm của đồng bào ta xưa
– Tình yêu thiên nhiên: Gió đưa cành trúc la đà…………Tây Hồ; Đường vô xứ
Nghệ quanh quanh / Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
– Tình cảm gia đình: tình cảm của con cái đối với cha mẹ, tình cảm vợ chồng,
tình cảm anh em…
– Tình yêu đôi lứa
+ Khát vọng hạnh phúc, hôn nhân: Ước gì sông…..sang chơi
+ Nỗi nhớ nhung da diết: Khăn thương nhớ ai
+ Tấm lòng thuỷ chung, son sắt: Tay bưng chén muối……quên nhau
– Tiếng nói than thân
+ Xót xa cho thân phận người phụ nữ phải sống phụ thuộc, không được
quyết định hạnh phúc của mình: Thân em như…
+ Lo lắng hạnh phúc tan vỡ do những rào cản của xã hội và sự mong
manh của tình yêu:
Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy
Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa
Em với anh cũng muốn kết nghĩa giao hòa
Sợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trời
Em với anh cũng muốn kết nghĩa ở đời
Sợ rằng mây bạc giữa trời mau tan.
+ Đau đớn trước thân phận nhỏ mọn và khát vọng một tâm hồn trong
sạch, cao đẹp.
Thân em như củ ấu gai………..ngọt bùi
-Tiếng cười hài hước: cười để giải trí; cười để chế giễu, tố cáo.
. Anh hùng là anh hùng rơm….cơn anh hùng
. Cậu cai nón dấu lông gà…………đi thuê
3.2. Cách nói năng tài tình chính xác
* Tài tình: Ngôn ngữ trong ca dao vốn giản dị, mộc mạc, đời thường nhưng
cũng rất tinh tế, giàu hình ảnh
– Hình ảnh thơ đẹp, giàu sức gợi: dải lụa đào, cầu dải yếm, mười tay…
– Biện pháp tu từ nghệ thuật: so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, điệp, đối…
* Chính xác: Ngôn ngữ phù hợp, hiệu quả trong việc diễn tả những cung bậc
khác nhau của tâm tư, tình cảm
– Ca dao tình yêu: Ngôn ngữ nhẹ nhàng, bay bổng, đầy tâm trạng
– Ca dao than thân: Ngôn ngữ lắng đọng, day dứt
– Ca dao hài hước: Ngôn ngữ hóm hỉnh, giễu cợt, đả kích với việc tạo ra
những hình ảnh đối lập, gây cười
4. Đánh giá chung
– Ý kiến đánh giá của Hoài Thanh vừa nêu được những nét đẹp của ca dao
vừa khẳng định được ý nghĩa của ca dao trong đời sống tinh thần của người
dân Việt Nam.
– Từ ý kiến đó, người đọc càng thêm yêu quý, trân trọng kho tàng ca dao và có
cái nhìn đúng đắn về vị trí của nó trong văn học dân tộc và trong đời sống.
Đề bài 3
Về truyện cố tích, giáo trình Lịch sử Văn học Việt Nam có nhận xét:
“Truyện cổ tích thường cho chúng ta thấy rằng, trong cuộc đấu tranh cho một
cuộc đời tốt đẹp, có đau khổ mà không buông xuôi, có thất bại mà không đầu
hàng, có bi thảm mà không tuyệt vọng, thực trạng đen tối nhưng ánh sáng
của niềm tin vẫn muốn xua tan màu sắc ảm đạm của một cái gì tận thế và
trong ánh sáng đó, con người vẫn cố gắng vươn lên”
(Nhiều tác giả, Lịch sử văn học Việt Nam, tập I, NXB Giáo dục, H, 1975,
tr45)
Anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
GỢI Ý
1.
Đặt vấn đề
Dẫn dắt và giới thiệu nhận định cần làm sáng tỏ.
2.
Giải quyết vấn đề
a.
Giải thích:
•
Truyện cổ tích : Là những tác phẩm tự sự dân gian, có sự tham
gia của các yếu tố hoang đường, kì ảo, kể về cuộc đời, số phận
của những con người bình thường trong xã hội, thể hiện quan
niệm đạo đức, lí tưởng và mơ ước của nhân dân lao động. Trong
hệ thống thể loại của văn học dân gian, có thể nói đây là một
trong những thể loại quen thuộc, gần gũi nhất và có sức hấp dẫn
đặc biệt đối với mỗi người.
•
…..trong cuộc đấu tranh cho một cuộc đời tốt đẹp: Truyện cổ tích
phản ánh cuộc đấu tranh của nhân dân lao động, hướng tới một
cuộc đời trong mơ ước, công bằng và hạnh phúc.
•
…có đau khổ mà không buông xuôi, có thất bại mà không đầu
hàng, có bi thàm mà không tuyệt vọng, thực trạng có đen tối
nhưng ánh sáng của niềm tin vẫn muốn xua tan màu sắc ảm
đạm của một cái gì tận thế và trong ánh sáng đó, con người vẫn
cố gắng vươn lên: Trong cuộc đấu tranh cho một cuộc đời công
bằng, tốt đẹp, ta luôn bắt gặp những số phận bất hạnh, cảnh ngộ
trớ trêu .Nhưng vượt lên trên thực tại đen tối ấy là tinh thần lạc
quan, là niềm tin, là sự nỗ lực vươn lên, là tinh thần thực tế có
khả năng cải tạo xã hội.
Bằng cách nói hàm súc, giàu hình ảnh, ý kiến đã khẳng
định sức sống mãnh liệt, tinh thần lạc quan của những
con người bé nhỏ trong truyện cổ tích, làm sáng lên thực
tại tối tăm, bất hạnh.
b.
Phân tích, chứng minh
* Truyện cổ tích phản ánh mâu thuẫn, đấu tranh xã hội, hướng
tới ước mơ về một cuộc đời tốt đẹp.
•
Truyện cổ tích ra đời từ thời xa xưa nhưng đặc biệt nở rộ trong
xã hội có sự phân hóa giàu – nghèo, tốt – xấu…Truyện cổ tích vì
vậy phản ánh mâu thuẫn và đấu tranh xã hội. Đó là mâu thuẫn
giữa kẻ giàu – người nghèo, kẻ thống trị – người bị trị, giữa
thiện – ác…( Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Thạch Sanh, Cây khế..)
•
Thông qua việc phản ảnh những mâu thuẫn ấy, nhân dân lao
động gửi gắm mơ ước về một xã hội công bằng, tốt đẹp.
-> Hơn bất cứ một thể loại văn học dân gian nào, truyện cổ tích vì
vậy có thể xem là cuộc đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp hơn của nhân
dân lao động.
* Trong cuộc đấu tranh cho một cuộc đời tốt đẹp, truyện cố tích
quả thực đã cho thấy thực tại đen tối, khổ đau, số phận bất hạnh,
hẩm hiu của những con người bé nhỏ
•
Truyện cổ tích phơi bày những cảnh sống trái ngược nhau, dựng
lên bức tranh thê thảm về cuộc sống khốn cùng của những người
dân lành. Đó là cái đói của hai cô cháu trong Sự tích chim hít cô,
tình cảnh nghèo khổ của anh Khoai(Cây tre trăm đốt), Thạch
Sanh, Chử Đồng Tử …Ngay cả khi cái nghèo, cái đói không phải là
chủ đề chính của một số câu chuyện thì hình ảnh cái đói, nạn đói
vẫn xuất hiện phổ biến trong truyện cổ tích (nạn đói trong Sự
tích ông đầu rau, Sự tích chim đa đa, đoàn người lũ lượt chờ
phát chấn trong Gái ngoan dạy chồng..
•
Truyện cổ tích còn cho thấy tình cảnh bị chà đạp, bị áp bức, bóc
lột của những con người bé nhỏ. ( Cây tre trăm đốt, Thạch Sanh,
đặc biệt là truyện Tấm Cám) (Tập trung phân tích tình cảnh của
Tấm qua mâu thuẫn dai dẳng, quyết liệt với mẹ con Cám để thấy
được số phận bé nhỏ, đáng thương, tội nghiệp của Tấm)
* Tuy nhiên, trong thực tại bi thảm ấy, con người vẫn vươn lên,
không chịu khuất phục bằng sức mạnh của niềm tin và tinh thần
lạc quan (Nội dung trọng tâm)
•
Những con người bé nhỏ trong truyện cổ tích thường không khuất
phục trước hoàn cảnh, đau khổ mà không buông xuôi, thất bại mà
không đầu hàng, luôn vươn lên để giành hạnh phúc cho mình
( HS chứng minh bằng sức sống mãnh liệt, vượt qua thực tại nhiều
đau khổ, bất công của các nhân vật trong một số truyện cổ tích như:
Lọ nước thần, Sọ Dừa…Đặc biệt, nên tập trung phân tích truyện Tấm
Cám để làm rõ nội dung này. Cô Tấm ở chặng đầu chỉ biết khóc và cầu
cứu sự giúp đỡ của Bụt, nhưng ở chặng sau không hề khóc, cũng
không chịu khuất phục trước sự tiêu diệt của mẹ con Cám mà liên tục
biến hóa thành chim vàng anh -> cây xoan đào -> khung cửi -> cây thị
-> cô Tấm xinh đẹp hơn xưa. Sự tái sinh ấy và hành động quyết liệt, chủ
động giành lại hạnh phúc của Tấm đã cho thấy sức sống mãnh liệt của
những con người nhỏ bé)
•
Truyện cổ tích còn mang đến ánh sáng của sự lạc quan, bi thảm
mà không tuyệt vọng
– Những yếu tố kì ảo ( ông Bụt, con vật, đồ vật thần kì…) xuất hiện
trong truyện cổ tích không chỉ đem đến sức hấp dẫn và sắc màu
đặc trưng của thể loại mà còn thể hiện một cái nhìn lạc quan của
nhân dân lao động vào cuộc sống, niềm tin tưởng và mơ ước về
những lực lượng cứu giúp con người.
– Kết thúc của truyện cổ tích thường là có hậu, minh chứng cho sự
lạc quan cả nhân dân ( Tấm Cám, Thạch Sanh, Chử Đồng Tử..)
– Ngay cả khi kết thúc mang tính bi thảm nhưng bằng sự lí giải
đầy nhân hậu của nhân dân, truyện cổ tích vẫn làm sáng lên
những tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người, không bi kịch,
tuyệt vọng mà ấm áp tình nghĩa ( Sự tích trầu cau, Sự tích chim
quốc..)
c.
Đánh giá chung
– Ra đời và phát triển trong thời kì xã hội có sự phân hóa, phản ánh cuộc
đấu tranh của nhân dân lao động cho một cuộc đời công bằng và tốt đẹp,
truyện cổ tích đã cho thấy sức sống mãnh liệt, tinh thần lạc quan của những
con người nhỏ bé, từ đó khơi gợi trong mỗi con người niềm tin và mơ ước về
một cuộc sống tốt đẹp.
– Với tinh thấn đó, trải qua thời gian, truyện cổ tích cho đến nay vẫn gắn
bó, thân thuộc và có ý nghĩa lớn lao trong đời sống tâm hồn dân tộc.
3.Kết thúc vấn đề ( 1đ)
Khẳng định lại nhận định cần làm sáng tỏ
ĐỀ 4:
“Xét đến cùng, ý nghĩa thực sự của văn học là nhân đạo hoá con
người”(M.Gorki)
Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về ý kiến trên. Bằng những hiểu biết về
ca dao, truyện cổ tích, hãy chứng minh.
GỢI Ý
1. MB
– Dẫn dắt
– Nêu vấn đề
VD: Con người sở dĩ đáng kiêu hãnh, trở thành Con Người vì không phải chỉ
biết sống theo bản năng, mà còn có một đời sống tinh thần phong phú. Trong
đời sống tinh thần của con người, văn học đóng một vai trò quan trọng, tất
nhiên văn học nói ở đây phải là văn học chân chính. Văn học đã mở rộng tầm
mắt cho con người, giúp cho con người một cách sống tốt đẹp để tự hoàn
thiện nhân cách của mình, có thêm sức mạnh để tham gia vào cuộc chiến đấu
cho cái thiện toàn thắng trên cõi đời này. Văn học chân chính giáo dục con
người bằng cái thật và cái đẹp, sâu sắc hơn nữa “văn học chân chính có khả
năng
nhan
đạo
hóa
con
người”.
2. TB
a. Giải thích lời nhận định
– Văn học là một hoạt động sáng tạo NT, đó là hình thức nghệ thuật
ngôn từ. Văn học có từ rất sớm, gắn bó thiết thân với đời sống tinh thần của
con người ngay từ thuở xa xưa. Dù dưới hình thức nào thì nó vẫn là sự phản
ánh thế giới khách quan qua thế giới chủ quan của nghệ sĩ. Tác phẩm nghệ
thuật chân chính là sự giãi bày những tình cảm, những khát vọng sâu xa của
nhà văn trước cuộc đời, trước những vấn đề có ý nghĩa thân thiết đối với con
người. Dù văn học viết về những sự cố lớn lao: bão táp cách mạng, chiến
tranh, hay chỉ diễn tả một tiếng chuông chùa, một bờ tre, ruộng lúa… bao giờ
ta cũng tìm thấy hình bóng, tâm sự của con người gửi gắm ở bên trong. Con
người với tất cả niềm vui, nỗi buồn, tâm tư khát vọng, thành đạt hay khổ đau
luôn luôn là đối tượng trung tâm của văn học, là mối quan tâm hàng đầu của
nghệ sĩ chân chính. Tình yêu thương đối với con người là nguồn động lực căn
bản nhất thúc đẩy ngòi bút của mọi nhà văn chân chính.
– Văn học hướng về đời sống con người, mang những giá trị, chức năng
quan trọng. Bên cạnh chức năng nhận thức, chức năng thẩm mĩ, chức năng
giao tiếp, văn học nghệ thuật còn có chức năng giáo dục, nghĩa là tác động,
cải tạo quan điểm, tư tưởng, đạo đức của con người. Nói một cách khác, một
chức năng quan trọng nhất của văn học NT là nhân đạo hoá con người. Đó là
quá trình làm cho con người tin hơn ở những điều thiện, ở khả năng vươn tới
cái cao cả, cao thượng, kể cả những con người đã trải qua và chịu đựng
những điều ác khủng khiếp do xã hội và có khi do chính mình gây ra.
Letxing cho rằng “Tất cả các thể loại thơ ca đều phải uốn nắn chúng ta”, Lê
Quí Đôn lại nói “Văn chương là gốc lớn của sự lập thân”. NT nói chung, văn
chương nói riêng thường có xu hướng khuếch đại cái tốt để nó trở nên đẹp
đẽ,lộng lẫy hơn, từ đó lôi cuốn hấp dẫn mọi người, làm cho mọi người tin
rằng trên đời này bao giờ cũng còn có lương tri, công lý, bao giờ cũng có
người tốt, khơi dậy ở mọi người khát vọng hướng tới cái lí tưởng, muốn noi
gương, bắt chước điều thiện, điều hay. Đồng thời, nhà văn cũng phóng đại cái
xấu, làm choc nó trở lên ghê tởm và đáng ghét hơn để người đọc nhận ra mặt
nó, khinh ghét, phủ định nó, trước là trong tác phẩm, sau là trong chính cuộc
đời.
Lời nhận định ngắn gọn, hàm súc, đã khái quát chính xác giá trị giáo dục,
khả năng nhân đạo hoá con người của văn học
b. Chứng minh nội dung lời nhận định
* Nói tới quá trình nhân đạo hóa của văn học trước hết là khả năng gợi lòng
trắc ẩn, động tâm, thương cảm đối với những cảnh ngộ bất hạnh đói nghèo
diễn ra trong xã hội.
– Ca dao than thân trách phận gợi tình yêu thương,sự đồng cảm ở con người
VD: Thân em như hạt mưa sa……luống cày
“Khổ như tôi đây mới ra thậm khổ’
Lên non đốn củi đụng chỗ đốn rồi
Xuống sông gánh nước đụng chỗ cát bồi khe khô”
Hoặc “Tháng giêng, tháng hai…..quan tiền”
– Truyện cổ tích “Tấm Cám”. Mỗi chúng ta đều động lòng thương cảm trước
cảnh ngộ bất hạnh của cô Tấm.
* Khả năng nhân đạo hóa còn bộc lộ ở sự tự ý thức về bản thân, tự nhận diện
bản thân trước những điều xấu, tốt, thiện, ác… mà tác phẩm gợi lên. Người
ta đã nói đến sự “thanh lọc” tâm hồn của văn học, hay hình thức “sám hối”
của bản thân trước lương tâm của quá trình tiếp nhận tác phẩm là như thế.
– Ca dao là tiếng nói của nhân dân lao động. Ca dao k chỉ nói đến những cảnh
ngộ đáng thương, những lời than thân chua xót, khơi gợi tình cảm nhân đạo
của con người mà ca dao còn đề cao những tình cảm đạo đức tốt đẹp cũng
như phê phán những tính cách chưa tốt để mỗi con người đọc ca dao mà tu
sửa bản thân
+ Ca dao đề cao những tình cảm đạo đức truyền thống trong gia đình: ông bà
– con cháu, cha con, mẹ con, vợ chồng, anh em…
“Công cha như…..đạo con”
+ Ca dao đề cao những tình cảm cần có trong xã hội, đó là tình nghĩa bạn bè
hay tình yêu thương đồng loại
VD: “nhiễu điều ….nhau cùng”
“Bạn bè là nghĩa tương tri
Sao cho sau trước một bề mới yên”…
+ Ca dao phê phán sự bạc nghĩa phụ tình
“Có oản anh tình phụ xôi…………………Có nhân ngãi mới anh quên em rồi”
Mà ngợi ca sự thuỷ chung, son sắc: “Cây đã cũ bến đò xưa / Bộ hành có nghĩa
nắng mưa cũng chờ”
Ca dao là tấm gương để con người soi vào, tự nhận diện bản thân, sửa tâm
tính và thanh lọc tâm hồn.
– Truyện cổ tích
+ Nếu ca dao đến với người đọc bằng hình tượng thơ, ngôn ngữ nghệ thuật
thì truyện cổ tích đến với người đọc chủ yếu qua hệ thống nhân vật. Các nhân
vật trong truyện cổ tích là nhân vật chức năng, được xây dựng thành hai
tuyến Thiện – Ác rõ rệt. Cô Tấm là đại diện cho cái Thiện, mẹ con Cám là đại
diện cho cái Ác.
+ Cuộc đấu tranh Thiện – Ác diễn ra gay go quyết liệt. Cái Thiện ban đầu có
thể yếu thế nhưng cuối cùng sẽ giành chiến thắng (Tấm – Cám)
+ Cuộc đấu tranh Thiện Ác trong truyện cổ tích thể hiện triết lý nhân sinh của
nhân dân: Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo… Những câu chuyện đó có sức cảm
hoá con người, hướng con người tới cái thiện, bài trừ cái ác.
HS có thể lấy VD truyện cổ tích khác.
* K chỉ vậy, văn học chân chính còn góp phần tố cáo những thế lực đen tối, tàn
bạo trong xã hội, chà đạp lên cuộc sống của con người. Bằng những hình
tượng, văn học đã tiếp sức cho con người thêm sức mạnh để chống lại điều
ác, để xóa bỏ những xã hội đen tối tàn bạo, để xã hội trở nên tốt đẹp, ngập
tràn tình yêu thương.
VD: “Con ơi nhớ lấy câu này / Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”
– Truyện Tấm Cám tố cáo những hành vi độc ác của mẹ con Cám. Kết thúc
truyện, cái ác bị trừng trị, thể hiện rõ thái độ của nhân dân: Gieo gió gặt bão
Con người có thêm niềm tin, sức mạnh trong cuộc đấu tranh “Phò chính
trừ tà”, bảo vệ cái Thiện.
c. Khái quát
– Không thể nào có thể nói hết khả năng nhân đạo hóa của văn học đối với con
người. Đọc một tác phẩm văn học chân chính, ta có cảm giác thật hạnh phúc
và sung sướng như đang được đối diện, tâm tình trò truyện với một người
bạn thông minh, nhân ái, từng trải, như đang được chia sẻ nỗi buồn, niềm vui,
tâm tư, ước vọng; như đang được đón nhận ý chí, niềm tin, nghị lực trong
cuộc hành trình đầy thử thách của cuộc sống. Biết bao nhiêu tác phẩm văn
chương đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ. Nói như
Gorki :“sách vở đã chỉ cho tôi chỗ đứng của mình trong đời sống, nói cho tôi
biết rằng con người thật là vĩ đại và đẹp đẽ, rằng con người luôn luôn hướng
về cái tốt đẹp hơn, rằng con người đã làm nên nhiều thứ trên trái đất và vì
thế mà họ đã chịu biết bao đau khổ”. Và cũng chính Gorki đã tuyên ngôn: “Con
người – cái tên mới đẹp làm sao, mới vinh quang làm sao. Con người phải tôn
trọng
con
người”.
– Văn học giúp ta hiểu biết con người, hiểu chính mình, cảm thông chia sẻ với
nỗi khổ đau của mình trong đời sống. Đọc văn, ta như đang được đón nhận ý
chí, niềm tin, nghị lực trong cuộc hành trình đầy gian khó, ta biết căm ghét
cái giả dối, ti tiện, tàn ác, biết hướng tới cái chân, thiện, mĩ; biết sống một
cách chân thật, nhân ái, cao thượng… đó là những dấu hiệu của quá trình
‘nhân đạo hóa” mà văn học chân chính đã và mãi mãi sẽ đem lại cho con
người, vì hạnh phúc của con người.
3. KB
tham thúng xôi rền …. ), bị coi rẻ thân phận ( thân em như tấm lụa đào …. ), bị kẻthù xâm lược đàn áp ( – Cha đời lính tẩy, lính Tây / Hễ trông thấy gái giở ngayxì xồ / Một tháng sáu phiên chợ Đơ / Kẻ gian cũng lắm, lệ cơ cũng nhiều. ) … 2. Vẻ đẹp tâm hồn, sức sống của con người Việt Nam qua một số ít tácphẩm VHDG. – Mặc dù đời sống có nhiều khó khăn vất vả, thử thách nhưng người dân lao độngvẫn bộc lộ một vẻ đẹp tâm hồn ngời sáng và một sức sống khác thường, kiêntrì, bền chắc, sẵn sàng chuẩn bị đối lập và vượt qua mọi khó khăn vất vả, thử thách, vươn đếnmột đời sống tốt đẹp hơn. Qua những tác phẩm VHDG, ta thấy sáng lên ở ngườidân lao động là những phẩm chất tốt đẹp như hiền lành ( Tấm ), hiếu thảo ( Tấm, chủ đầu tư dự án ), sống yêu thương, tình nghĩa ( ca dao ), không riêng gì yêu con ngườimà còn yêu vạn vật thiên nhiên, yêu quê nhà, quốc gia. Đồng thời, họ cũng có mộtsức sống khác thường. Họ kiên trì, bền chắc làm lụng để vượt qua những khókhăn, khó khăn vất vả về vật chất ( chủ đầu tư, ca dao ), vượt qua thiên tai ( Sơn Tinh – ThủyTinh ) ; họ không đầu hàng số phận mà vẫn tìm mọi cách để sống sót ( thánggiêng, tháng hai …. tháng nạn / Đi vay đi tạm được một quan tiền … ) ; họ kiêntrì đấu tranh để giành lại sự sống ( Tấm đấu tranh giành sự sống ), kiên trì bảovệ tình yêu và niềm hạnh phúc ( Tấm, nhà đầu tư ) ; đấu tranh với quân địch để bảo vệ giangsơn gấm vóc ( ca dao, Thánh Gióng, An Dương Vương ). Và, trong công cuộcđấu tranh để vươn lên trong đời sống, mỗi người dân lao động đều luôn lạcquan, tin cậy ở tương lai, tin cậy ở chính nghĩa ( kết thúc có hậu củatruyện cổ tích, ca dao … ). Phần 2. Đề bài luyện tậpĐề 1 : Bàn về ca dao, Nguyễn Đình Thi viết : “ Ca dao là tấm gương của tâm hồn dân tộc bản địa ”. Anh ( chị ) hiểu lời nhận định và đánh giá trên như thế nào ? Bằng những hiểu biết về cadao Việt Nam, hãy làm sáng tỏ. GỢI Ý1. Giải thích nhận định và đánh giá : – Ca dao là một trong những dòng chính của thơ ca trữ tình ; tác giả làquần chúng nhân dân lao động. Do phát sinh từ những hoạt động và sinh hoạt củangười tầm trung ( lao động, hội đồng, mái ấm gia đình ) nên ca dao miêu tả đờisống nội tâm của nhân dân, dân tộc bản địa. – Tấm gương là cách nói bằng hình ảnh để cho người đọc thấy sự chânthực, đơn cử, sinh động, tổng lực của ca dao khi phản ánh tâm hồn conngười Việt Nam. Ý nghĩa nhận định và đánh giá : Ca dao phản ánh một cách chân thực đời sốngtâm hồn dân tộc bản địa. Nói cách khác đến với ca dao người đọc phát hiện tâm hồndân tộc, đời sống tâm tư nguyện vọng tình cảm của cả một dân tộc bản địa. Từ đó, tâm hồnngười đọc như được phù sa bồi đắp, nuôi dưỡng, trở nên phong phú và đa dạng, trongsáng và trưởng thành hơn. 2. Khẳng định yếu tố mà đánh giá và nhận định đặt raĐây là một nhận xét xác đáng, khái quát được nội dung bao trùm của cadao3. Làm sáng tỏ đánh giá và nhận định qua hiểu biết về ca daoa. Ca dao có năng lực biểu lộ vô cùng phong phú và đa dạng, bao trùm mọi mặtđời sống tình cảm của con người, qua đó ta thấy được tâm hồn dân tộc bản địa. – Tình yêu quê nhà quốc gia. + Quê hương là nơi ta sinh ra và lớn lên, ở đó có hình ảnh dòng sông, bến nước, luỹ tre, cánh đồng … ăn sâu vào tâm hồn mỗi con người. NgườiViệt Nam đi đâu cũng nhớ về quê nhà : “ Anh đi anh nhớ quê nhàNhớ canh rau muống nhớ cà dầm tươngNhớ ai dãi nắng dầm sươngNhớ ai tát nước bên đường hôm nao ” + Hình ảnh quê nhà quốc gia hiện lên trong ca dao vừa thân mật thânthương vừa đẹp đến nao lòng “ Gió đưa cành trúc la đàTiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ XươngMịt mù khói toả cành sươngNhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ ” Một con đường xứ Nghệ với cảnh non xanh nước biếc đẹp như tranh, cảnhĐồng Đăng, nhà Bè …. + Lòng tự hào về vẻ đẹp quê nhà, truyền thống lịch sử dân tộc bản địa ( Đánh giặc : “ Ru con con ngủ cho lànhĐể mẹ gánh nước rửa bành cho voiMuốn coi lên núi mà coiCoi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồngTúi gấm cho lẫn túi hồngTêm trầu cánh kiếm cho chồng đi quân ” Đoàn kết yêu thương gắn bó “ Bầu ơi thương lấy bí cùngTuy rằng khác giống nhưng chung một giàn ” Tâm hồn Việt Nam là tâm hồn sáng sủa yêu đời sống. Cuộc sống lao động vấtvả nhưng với họ luôn sinh động vui mắt : “ Rủ nhau đi cấy đi càyBây giờ khó nhọc nhớ ngày phong lưuTrên đồng cạn dưới đồng sâuChồng cày vợ cấy con trâu đi bừa ” “ Rủ nhau xuống bể mò cuaĐem về nấu quả mơ chua trên rừngEm ơi chua ngọt đã từngNon xanh nước bạc ta đừng quên nhau ” “ Hỡi cô tát nước bên đàngSao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ” Đó là những cảnh đầm ấm niềm hạnh phúc, cảnh thơ mộng. Tiếng hát sáng sủa, ướcmơ hy vọng đem đến nụ cười trên môi người lao động bớt đi nhọc nhằn cay đắng. ( Có thể bổ trợ ca dao vui nhộn trong sách giáo khoa ) Tâm hồn người Việt Nam chan chứa lòng yêu thương, nặng ân tình, sâu ân tình. + Tình yêu giữa người với người là âm điệu sâu lắng mà tha thiết đượcđi sâu khai thác bộc lộ .. Tình yêu lứa đôi thâm thúy. Tình cảm mái ấm gia đình thiêng liêng : “ Công cha như núi Thái SơnNghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra … ” “ Chồng em áo rách nát em thươngChồng người áo gấm xông hương mặc người ”. Tình nghĩa đồng bào : “ Nhiễu điều phủ lấy giá gươngNgười trong một nước phải thương nhau cùng ” + Con người Việt Nam sống có thuỷ, có chung, có tình, có nghĩa. Vì vậynhững bài ca dao về ân huệ trở thành phổ cập ( Chùm ca dao yêu thương tình nghĩa ) “ Đem vàng đem nghĩa mà cânVàng thì nặng bảy, ái ân nặng mười ” + Khao khát được giãi bày tình cảm ( nghiên cứu và phân tích những câu ca dao than thân ) b. Để biểu lộ tâm hồn đa dạng và phong phú của dân tộc bản địa, hình thức ca dao thậtnhuần nhị trong sáng : cấu tứ, hình ảnh, giai điệu, hình thức đối đáp, ngôn từ. Hình thức này đã làm cho đời sống dân tộc bản địa trong ca dao được thănghoa4. Bình luận nâng cao – Ca dao thực sự là hòn ngọc quý trong kho tàng văn học dân tộc bản địa, vớingôn ngữ trong sáng, sức biểu cảm tinh xảo. Ca dao đã phản ánh sâu sắctâm hồn tính cách con người Việt Nam, dân tộc bản địa Việt Nam. Tâm hồn dân tộcđã làm ra sức sống của ca dao. – Ngày nay ca dao vẫn giữ một vị trí quan trọng trong đời sống tìnhcảm của nhân dân, là bài học kinh nghiệm lớn cho những nhà văn nhà thơ. – Thế hệ trẻ cần biết quý trọng gìn giữ ca dao. Đề 2L ời thơ dân gian không những sẽ trong bước đầu cho ta làm quen với tâm tư nguyện vọng tìnhcảm của đồng bào ta xưa kia mà đồng thời sẽ còn giúp ta học được nhữngcách nói năng tài tình đúng chuẩn. Theo tôi, so với một người Việt Nam màthiếu những kiến thức và kỹ năng này thì hoàn toàn có thể xem như là thiếu một trong những điềucơ bản. ( Hoài Thanh, Một vài tâm lý về ca dao, Báo Văn nghệ, số 1, 2-1-1982 ) Qua một số ít bài ca dao đã học, đã đọc, anh ( chị ) hãy lý giải và làmsáng tỏ quan điểm trên. GỢI Ý1. Dẫn dắt, trình làng ý kiến2. Giải thích quan điểm của Hoài Thanh2. 1. Giải thích từ, cụm từ * Lời thơ dân gian – Trong văn học dân gian có rất nhiều thể loại tập trung chuyên sâu biểu lộ đờisống của người dân xưa. – Trong đó, ca dao là thể loại trữ tình bằng văn vần, diễn đạt đời sống nộitâm của con người. Nói cách khác, ca dao là thơ trữ tình dân gian truyềnthống. – Lời thơ dân gian là nói đến ca dao * … làm quen với tâm tư nguyện vọng tình cảm của đồng bào ta xưa kia – Ca dao là lời nói tâm hồn sâu lắng, tha thiết của đồng bào ta xưakia. – Trong ca dao, toàn bộ những nỗi niềm cảm hứng của nhân dân ta đềuđược thể hiện. Đó là lời nói yêu thương tình nghĩa, là những lời than thântrách phận, là tiếng cười vừa vui nhộn, vừa sâu cay, là mơ ước, là hy vọng, chờ đón … – Đọc và khám phá ca dao, người đọc sẽ cảm nhận được toàn bộ nhữngcung bậc cảm hứng đó trong đời sống niềm tin của người xưa. * … học được cách nói năng tài tình, đúng chuẩn – Trong văn học dân gian cũng như trong ca dao, ngôn từ được sửdụng đa phần là lời ăn lời nói hằng ngày giản dị và đơn giản, nôm na của những ngườilao động. – Song cách nói năng ấy không phải không tài tình đúng mực. Đó là cáchnói xa vời, bay bổng khi bộc lộ một tình yêu thầm kín, là cách nói đầy hìnhảnh khi bộc bạch tâm trạng xót xa cho thân phận nghèo, là cách nói hóm hỉnhkhi giễu cợt, đả kích … – Cách nói năng đó đã giúp người đọc ca dao có thêm những kinhnghiệm quý báu trong việc sử dụng ngôn từ dân tộc bản địa. * … thiếu một trong những điều cơ bản – Điều cơ bản : điều cốt lõi, không hề không có – Văn học dân gian Việt Nam nói chung và ca dao Việt Nam nói riêng làkho tàng quý báu tiềm ẩn những nét đẹp truyền thống lịch sử của văn hóa truyền thống dântộc Việt Nam, là cội nguồn của sự hình thành và tăng trưởng đời sống tinh thầncủa mỗi con người Việt Nam. – Đến với văn học dân gian, đến với ca dao, mỗi người Việt Nam sẽ đượcđến với đời sống của chính ông cha, tổ tiên mình. Đó là nền tảng cơ bản chosự tăng trưởng mỗi nhân cách. 2.2. Nội dung của cả ý kiếnHoài Thanh khẳng định chắc chắn : Ca dao Việt Nam không chỉ giúp mỗi ngườiViệt Nam hiểu được đời sống ý thức nhiều mẫu mã, đẹp tươi của cha ông mìnhxưa kia mà còn giúp họ có thêm những cách nói năng giản dị và đơn giản mà đúng mực, tài tình khi sử dụng ngôn từ dân tộc bản địa. Đó là những kiến thức và kỹ năng cốt lõi khôngthể thiếu để mỗi con người Việt Nam tự tăng trưởng mình. 3. Làm sáng tỏ ý kiến3. 1. Tâm tư tình cảm của đồng bào ta xưa – Tình yêu vạn vật thiên nhiên : Gió đưa cành trúc la đà … … … … Tây Hồ ; Đường vô xứNghệ quanh quanh / Non xanh nước biếc như tranh họa đồ. – Tình cảm mái ấm gia đình : tình cảm của con cháu so với cha mẹ, tình cảm vợ chồng, tình cảm bạn bè … – Tình yêu đôi lứa + Khát vọng niềm hạnh phúc, hôn nhân gia đình : Ước gì sông … .. sang chơi + Nỗi nhớ nhung da diết : Khăn thương nhớ ai + Tấm lòng thuỷ chung, son sắt : Tay bưng chén muối … … quên nhau – Tiếng nói than thân + Xót xa cho thân phận người phụ nữ phải sống nhờ vào, không đượcquyết định niềm hạnh phúc của mình : Thân em như … + Lo lắng niềm hạnh phúc tan vỡ do những rào cản của xã hội và sự mongmanh của tình yêu : Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảyHòn đá bạc đầu vì bởi sương saEm với anh cũng muốn kết nghĩa giao hòaSợ mẹ bằng đất, sợ cha bằng trờiEm với anh cũng muốn kết nghĩa ở đờiSợ rằng mây bạc giữa trời mau tan. + Đau đớn trước thân phận nhỏ mọn và khát vọng một tâm hồn trongsạch, cao đẹp. Thân em như củ ấu gai … … … .. ngọt bùi-Tiếng cười vui nhộn : cười để vui chơi ; cười để chế giễu, tố cáo .. Anh hùng là anh hùng rơm …. cơn anh hùng. Cậu cai nón dấu lông gà … … … … đi thuê3. 2. Cách nói năng tài tình đúng chuẩn * Tài tình : Ngôn ngữ trong ca dao vốn giản dị và đơn giản, mộc mạc, đời thường nhưngcũng rất tinh xảo, giàu hình ảnh – Hình ảnh thơ đẹp, giàu sức gợi : dải lụa đào, cầu dải yếm, mười tay … – Biện pháp tu từ thẩm mỹ và nghệ thuật : so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, điệp, đối … * Chính xác : Ngôn ngữ tương thích, hiệu suất cao trong việc diễn đạt những cung bậckhác nhau của tâm tư nguyện vọng, tình cảm – Ca dao tình yêu : Ngôn ngữ nhẹ nhàng, bay bổng, đầy tâm trạng – Ca dao than thân : Ngôn ngữ ngọt ngào, day dứt – Ca dao vui nhộn : Ngôn ngữ hóm hỉnh, giễu cợt, đả kích với việc tạo ranhững hình ảnh trái chiều, gây cười4. Đánh giá chung – Ý kiến nhìn nhận của Hoài Thanh vừa nêu được những nét đẹp của ca daovừa chứng minh và khẳng định được ý nghĩa của ca dao trong đời sống niềm tin của ngườidân Việt Nam. – Từ quan điểm đó, người đọc càng thêm yêu quý, trân trọng kho tàng ca dao và cócái nhìn đúng đắn về vị trí của nó trong văn học dân tộc bản địa và trong đời sống. Đề bài 3V ề truyện cố tích, giáo trình Lịch sử Văn học Việt Nam có nhận xét : “ Truyện cổ tích thường cho tất cả chúng ta thấy rằng, trong cuộc đấu tranh cho mộtcuộc đời tốt đẹp, có đau khổ mà không buông xuôi, có thất bại mà không đầuhàng, có bi thảm mà không vô vọng, tình hình đen tối nhưng ánh sángcủa niềm tin vẫn muốn xua tan sắc tố ảm đạm của một cái gì tận thế vàtrong ánh sáng đó, con người vẫn nỗ lực vươn lên ” ( Nhiều tác giả, Lịch sử văn học Việt Nam, tập I, NXB Giáo dục đào tạo, H, 1975, tr45 ) Anh ( chị ) hãy làm sáng tỏ đánh giá và nhận định trên. GỢI Ý1. Đặt vấn đềDẫn dắt và ra mắt nhận định và đánh giá cần làm sáng tỏ. 2. Giải quyết vấn đềa. Giải thích : Truyện cổ tích : Là những tác phẩm tự sự dân gian, có sự thamgia của những yếu tố hoang đường, kì ảo, kể về cuộc sống, số phậncủa những con người thông thường trong xã hội, biểu lộ quanniệm đạo đức, lí tưởng và mơ ước của nhân dân lao động. Tronghệ thống thể loại của văn học dân gian, hoàn toàn có thể nói đây là mộttrong những thể loại quen thuộc, thân mật nhất và có sức hấp dẫnđặc biệt so với mỗi người …… trong cuộc đấu tranh cho một cuộc sống tốt đẹp : Truyện cổ tíchphản ánh cuộc đấu tranh của nhân dân lao động, hướng tới mộtcuộc đời trong mơ ước, công minh và niềm hạnh phúc …. có đau khổ mà không buông xuôi, có thất bại mà không đầuhàng, có bi thàm mà không vô vọng, tình hình có đen tốinhưng ánh sáng của niềm tin vẫn muốn xua tan sắc tố ảmđạm của một cái gì tận thế và trong ánh sáng đó, con người vẫncố gắng vươn lên : Trong cuộc đấu tranh cho một cuộc sống côngbằng, tốt đẹp, ta luôn phát hiện những số phận xấu số, cảnh ngộtrớ trêu. Nhưng vượt lên trên thực tại đen tối ấy là ý thức lạcquan, là niềm tin, là sự nỗ lực vươn lên, là ý thức thực tiễn cókhả năng tái tạo xã hội. Bằng cách nói hàm súc, giàu hình ảnh, quan điểm đã khẳngđịnh sức sống mãnh liệt, ý thức sáng sủa của nhữngcon người nhỏ bé trong truyện cổ tích, làm sáng lên thựctại tối tăm, xấu số. b. Phân tích, chứng tỏ * Truyện cổ tích phản ánh xích míc, đấu tranh xã hội, hướngtới tham vọng về một cuộc sống tốt đẹp. Truyện cổ tích sinh ra từ thời thời xưa nhưng đặc biệt quan trọng nở rộ trongxã hội có sự phân hóa giàu – nghèo, tốt – xấu … Truyện cổ tích vìvậy phản ánh xích míc và đấu tranh xã hội. Đó là mâu thuẫngiữa kẻ giàu – người nghèo, kẻ thống trị – người bị trị, giữathiện – ác … ( Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Thạch Sanh, Cây khế .. ) Thông qua việc phản ảnh những xích míc ấy, nhân dân laođộng gửi gắm mơ ước về một xã hội công minh, tốt đẹp. -> Hơn bất kể một thể loại văn học dân gian nào, truyện cổ tích vìvậy hoàn toàn có thể xem là cuộc đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp hơn của nhândân lao động. * Trong cuộc đấu tranh cho một cuộc sống tốt đẹp, truyện cố tíchquả thực đã cho thấy thực tại đen tối, khổ đau, số phận xấu số, hẩm hiu của những con người bé nhỏTruyện cổ tích trình diện những cảnh sống trái ngược nhau, dựnglên bức tranh thê thảm về đời sống khốn cùng của những ngườidân lành. Đó là cái đói của hai cô cháu trong Sự tích chim hít cô, tình cảnh bần hàn của anh Khoai ( Cây tre trăm đốt ), ThạchSanh, Chử Đồng Tử … Ngay cả khi cái nghèo, cái đói không phải làchủ đề chính của 1 số ít câu truyện thì hình ảnh cái đói, nạn đóivẫn Open thông dụng trong truyện cổ tích ( nạn đói trong Sựtích ông đầu rau, Sự tích chim đa đa, đoàn người lũ lượt chờphát chấn trong Gái ngoan dạy chồng .. Truyện cổ tích còn cho thấy tình cảnh bị chà đạp, bị áp bức, bóclột của những con người nhỏ bé. ( Cây tre trăm đốt, Thạch Sanh, đặc biệt quan trọng là truyện Tấm Cám ) ( Tập trung nghiên cứu và phân tích tình cảnh củaTấm qua xích míc dai dẳng, kinh khủng với mẹ con Cám để thấyđược số phận nhỏ bé, đáng thương, tội nghiệp của Tấm ) * Tuy nhiên, trong thực tại bi thảm ấy, con người vẫn vươn lên, không chịu khuất phục bằng sức mạnh của niềm tin và tinh thầnlạc quan ( Nội dung trọng tâm ) Những con người nhỏ bé trong truyện cổ tích thường không khuấtphục trước thực trạng, đau khổ mà không buông xuôi, thất bại màkhông đầu hàng, luôn vươn lên để giành niềm hạnh phúc cho mình ( HS chứng tỏ bằng sức sống mãnh liệt, vượt qua thực tại nhiềuđau khổ, bất công của những nhân vật trong một số ít truyện cổ tích như : Lọ nước thần, Sọ Dừa … Đặc biệt, nên tập trung chuyên sâu nghiên cứu và phân tích truyện TấmCám để làm rõ nội dung này. Cô Tấm ở chặng đầu chỉ biết khóc và cầucứu sự giúp sức của Bụt, nhưng ở chặng sau không hề khóc, cũngkhông chịu khuất phục trước sự hủy hoại của mẹ con Cám mà liên tụcbiến hóa thành chim vàng anh -> cây xoan đào -> khung cửi -> cây thị -> cô Tấm xinh đẹp hơn xưa. Sự tái sinh ấy và hành vi kinh khủng, chủđộng giành lại niềm hạnh phúc của Tấm đã cho thấy sức sống mãnh liệt củanhững con người nhỏ bé ) Truyện cổ tích còn mang đến ánh sáng của sự sáng sủa, bi thảmmà không vô vọng – Những yếu tố kì ảo ( ông Bụt, con vật, vật phẩm thần kì … ) xuất hiệntrong truyện cổ tích không chỉ đem đến sức mê hoặc và sắc màuđặc trưng của thể loại mà còn bộc lộ một cái nhìn sáng sủa củanhân dân lao động vào đời sống, niềm tin cậy và mơ ước vềnhững lực lượng tương hỗ con người. – Kết thúc của truyện cổ tích thường là có hậu, dẫn chứng cho sựlạc quan cả nhân dân ( Tấm Cám, Thạch Sanh, Chử Đồng Tử .. ) – Ngay cả khi kết thúc mang tính bi thảm nhưng bằng sự lí giảiđầy nhân hậu của nhân dân, truyện cổ tích vẫn làm sáng lênnhững tình cảm đạo đức tốt đẹp của con người, không thảm kịch, vô vọng mà ấm cúng tình nghĩa ( Sự tích trầu cau, Sự tích chimquốc .. ) c. Đánh giá chung – Ra đời và tăng trưởng trong thời kì xã hội có sự phân hóa, phản ánh cuộcđấu tranh của nhân dân lao động cho một cuộc sống công minh và tốt đẹp, truyện cổ tích đã cho thấy sức sống mãnh liệt, ý thức sáng sủa của nhữngcon người nhỏ bé, từ đó khơi gợi trong mỗi con người niềm tin và mơ ước vềmột đời sống tốt đẹp. – Với tinh thấn đó, trải qua thời hạn, truyện cổ tích cho đến nay vẫn gắnbó, quen thuộc và có ý nghĩa lớn lao trong đời sống tâm hồn dân tộc bản địa. 3. Kết thúc yếu tố ( 1 đ ) Khẳng định lại đánh giá và nhận định cần làm sáng tỏĐỀ 4 : “ Xét đến cùng, ý nghĩa thực sự của văn học là nhân đạo hoá conngười ” ( M.Gorki ) Anh ( chị ) tâm lý như thế nào về quan điểm trên. Bằng những hiểu biết vềca dao, truyện cổ tích, hãy chứng tỏ. GỢI Ý1. MB – Dẫn dắt – Nêu vấn đềVD : Con người sở dĩ đáng tự tôn, trở thành Con Người vì không phải chỉbiết sống theo bản năng, mà còn có một đời sống niềm tin đa dạng chủng loại. Trongđời sống ý thức của con người, văn học đóng một vai trò quan trọng, tấtnhiên văn học nói ở đây phải là văn học chân chính. Văn học đã lan rộng ra tầmmắt cho con người, giúp cho con người một cách sống tốt đẹp để tự hoànthiện nhân cách của mình, có thêm sức mạnh để tham gia vào đại chiến đấucho cái thiện toàn thắng trên cõi đời này. Văn học chân chính giáo dục conngười bằng cái thật và cái đẹp, thâm thúy hơn nữa “ văn học chân chính có khảnăngnhanđạohóaconngười ”. 2. TBa. Giải thích lời đánh giá và nhận định – Văn học là một hoạt động giải trí phát minh sáng tạo NT, đó là hình thức nghệ thuậtngôn từ. Văn học có từ rất sớm, gắn bó thiết thân với đời sống ý thức củacon người ngay từ thuở thời xưa. Dù dưới hình thức nào thì nó vẫn là sự phảnánh quốc tế khách quan qua quốc tế chủ quan của nghệ sĩ. Tác phẩm nghệthuật chân chính là sự giãi bày những tình cảm, những khát vọng sâu xa củanhà văn trước cuộc sống, trước những yếu tố có ý nghĩa thân thương so với conngười. Dù văn học viết về những sự cố lớn lao : bão táp cách mạng, chiếntranh, hay chỉ miêu tả một tiếng chuông chùa, một bờ tre, ruộng lúa … bao giờta cũng tìm thấy hình bóng, tâm sự của con người gửi gắm ở bên trong. Conngười với toàn bộ niềm vui, nỗi buồn, tâm tư nguyện vọng khát vọng, thành đạt hay khổ đauluôn luôn là đối tượng người tiêu dùng TT của văn học, là mối chăm sóc số 1 củanghệ sĩ chân chính. Tình yêu thương so với con người là nguồn động lực cănbản nhất thôi thúc ngòi bút của mọi nhà văn chân chính. – Văn học hướng về đời sống con người, mang những giá trị, chức năngquan trọng. Bên cạnh công dụng nhận thức, công dụng thẩm mĩ, chức nănggiao tiếp, văn học nghệ thuật và thẩm mỹ còn có công dụng giáo dục, nghĩa là tác động ảnh hưởng, tái tạo quan điểm, tư tưởng, đạo đức của con người. Nói một cách khác, mộtchức năng quan trọng nhất của văn học NT là nhân đạo hoá con người. Đó làquá trình làm cho con người tin hơn ở những điều thiện, ở năng lực vươn tớicái cao quý, hùng vĩ, kể cả những con người đã trải qua và chịu đựngnhững điều ác kinh khủng do xã hội và có khi do chính mình gây ra. Letxing cho rằng “ Tất cả những thể loại thơ ca đều phải uốn nắn tất cả chúng ta ”, LêQuí Đôn lại nói “ Văn chương là gốc lớn của sự lập thân ”. NT nói chung, vănchương nói riêng thường có khuynh hướng khuếch đại cái tốt để nó trở nên đẹpđẽ, lộng lẫy hơn, từ đó hấp dẫn mê hoặc mọi người, làm cho mọi người tinrằng trên đời này khi nào cũng còn có lương tri, công lý, khi nào cũng cóngười tốt, khơi dậy ở mọi người khát vọng hướng tới cái lí tưởng, muốn noigương, bắt chước điều thiện, điều hay. Đồng thời, nhà văn cũng phóng đại cáixấu, làm choc nó trở lên ghê tởm và đáng ghét hơn để người đọc nhận ra mặtnó, khinh ghét, phủ định nó, trước là trong tác phẩm, sau là trong chính cuộcđời. Lời đánh giá và nhận định ngắn gọn, hàm súc, đã khái quát đúng mực giá trị giáo dục, năng lực nhân đạo hoá con người của văn họcb. Chứng minh nội dung lời đánh giá và nhận định * Nói tới quy trình nhân đạo hóa của văn học trước hết là năng lực gợi lòngtrắc ẩn, động tâm, thương cảm so với những cảnh ngộ xấu số đói nghèodiễn ra trong xã hội. – Ca dao than thân trách phận gợi tình yêu thương, sự đồng cảm ở con ngườiVD : Thân em như hạt mưa sa … … luống cày “ Khổ như tôi đây mới ra thậm khổ’Lên non đốn củi đụng chỗ đốn rồiXuống sông gánh nước đụng chỗ cát bồi khe khô ” Hoặc “ Tháng giêng, tháng hai … .. quan tiền ” – Truyện cổ tích “ Tấm Cám ”. Mỗi tất cả chúng ta đều động lòng thương cảm trướccảnh ngộ xấu số của cô Tấm. * Khả năng nhân đạo hóa còn thể hiện ở sự tự ý thức về bản thân, tự nhận diệnbản thân trước những điều xấu, tốt, thiện, ác … mà tác phẩm gợi lên. Ngườita đã nói đến sự “ thanh lọc ” tâm hồn của văn học, hay hình thức “ sám hối ” của bản thân trước lương tâm của quy trình tiếp đón tác phẩm là như vậy. – Ca dao là lời nói của nhân dân lao động. Ca dao k chỉ nói đến những cảnhngộ đáng thương, những lời than thân chua xót, khơi gợi tình cảm nhân đạocủa con người mà ca dao còn tôn vinh những tình cảm đạo đức tốt đẹp cũngnhư phê phán những tính cách chưa tốt để mỗi con người đọc ca dao mà tusửa bản thân + Ca dao tôn vinh những tình cảm đạo đức truyền thống cuội nguồn trong mái ấm gia đình : ông bà – con cháu, cha con, mẹ con, vợ chồng, bạn bè … “ Công cha như … .. đạo con ” + Ca dao tôn vinh những tình cảm cần có trong xã hội, đó là tình nghĩa bạn bèhay tình yêu thương đồng loạiVD : “ nhiễu điều …. nhau cùng ” “ Bạn bè là nghĩa tương triSao cho sau trước một bề mới yên ” … + Ca dao phê phán sự bạc nghĩa phụ tình “ Có oản anh tình phụ xôi … … … … … … … Có nhân ngãi mới anh quên em rồi ” Mà ngợi ca sự thuỷ chung, son sắc : “ Cây đã cũ bến đò xưa / Bộ hành có nghĩanắng mưa cũng chờ ” Ca dao là tấm gương để con người soi vào, tự nhận diện bản thân, sửa tâmtính và thanh lọc tâm hồn. – Truyện cổ tích + Nếu ca dao đến với người đọc bằng hình tượng thơ, ngôn từ nghệ thuậtthì truyện cổ tích đến với người đọc đa phần qua mạng lưới hệ thống nhân vật. Các nhânvật trong truyện cổ tích là nhân vật tính năng, được thiết kế xây dựng thành haituyến Thiện – Ác rõ ràng. Cô Tấm là đại diện thay mặt cho cái Thiện, mẹ con Cám là đạidiện cho cái Ác. + Cuộc đấu tranh Thiện – Ác diễn ra gay go kinh khủng. Cái Thiện khởi đầu cóthể yếu thế nhưng sau cuối sẽ giành thắng lợi ( Tấm – Cám ) + Cuộc đấu tranh Thiện Ác trong truyện cổ tích biểu lộ triết lý nhân sinh củanhân dân : Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo … Những câu truyện đó có sức cảmhoá con người, hướng con người tới cái thiện, tiêu diệt cái ác. HS hoàn toàn có thể lấy VD truyện cổ tích khác. * K chỉ vậy, văn học chân chính còn góp thêm phần tố cáo những thế lực đen tối, tànbạo trong xã hội, chà đạp lên đời sống của con người. Bằng những hìnhtượng, văn học đã tiếp sức cho con người thêm sức mạnh để chống lại điềuác, để xóa bỏ những xã hội đen tối tàn tệ, để xã hội trở nên tốt đẹp, ngậptràn tình yêu thương. VD : “ Con ơi nhớ lấy câu này / Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan ” – Truyện Tấm Cám tố cáo những hành vi gian ác của mẹ con Cám. Kết thúctruyện, cái ác bị trừng trị, bộc lộ rõ thái độ của nhân dân : Gieo gió gặt bão Con người có thêm niềm tin, sức mạnh trong cuộc đấu tranh “ Phò chínhtrừ tà ”, bảo vệ cái Thiện. c. Khái quát – Không thể nào hoàn toàn có thể nói hết năng lực nhân đạo hóa của văn học so với conngười. Đọc một tác phẩm văn học chân chính, ta có cảm xúc thật hạnh phúcvà sung sướng như đang được đối lập, tâm tình trò truyện với một ngườibạn mưu trí, nhân ái, từng trải, như đang được san sẻ nỗi buồn, niềm vui, tâm tư nguyện vọng, ước vọng ; như đang được đảm nhiệm ý chí, niềm tin, nghị lực trongcuộc hành trình dài đầy thử thách của đời sống. Biết bao nhiêu tác phẩm vănchương đã trở thành cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ. Nói nhưGorki : “ sách vở đã chỉ cho tôi chỗ đứng của mình trong đời sống, nói cho tôibiết rằng con người thật là vĩ đại và đẹp tươi, rằng con người luôn luôn hướngvề cái tốt đẹp hơn, rằng con người đã làm nên nhiều thứ trên toàn cầu và vìthế mà họ đã chịu biết bao đau khổ ”. Và cũng chính Gorki đã tuyên ngôn : “ Conngười – cái tên mới đẹp làm thế nào, mới vinh quang làm thế nào. Con người phải tôntrọngconngười ”. – Văn học giúp ta hiểu biết con người, hiểu chính mình, cảm thông san sẻ vớinỗi khổ đau của mình trong đời sống. Đọc văn, ta như đang được đảm nhiệm ýchí, niềm tin, nghị lực trong cuộc hành trình dài đầy gian khó, ta biết căm ghétcái giả dối, ti tiện, gian ác, biết hướng tới cái chân, thiện, mĩ ; biết sống mộtcách chân thực, nhân ái, hùng vĩ … đó là những tín hiệu của quy trình ‘ nhân đạo hóa ” mà văn học chân chính đã và mãi mãi sẽ đem lại cho conngười, vì niềm hạnh phúc của con người. 3. KB
Source: https://thevesta.vn
Category: Cộng Đồng