Tuổi thọ trung bình của Việt Nam xếp thứ mấy trong các nước ASEAN?

Tuổi thọ trung bình

Kết quả những cuộc Tổng tìm hiểu dân số và nhà ở từ năm 1989 đến nay cho thấy, tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh năm 1989 là 65,2 năm đã tăng lên 72,8 năm trong năm 2009 và năm 2019 đạt 73,6 năm .Tính riêng quy trình tiến độ năm nay – 2020, mỗi năm tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh tăng 0,1 năm. Năm năm nay đạt 73,4 năm, 2017 và 2018 đạt 73,5 năm, 2019 đạt 73,6 năm và 2020 đạt 73,7 năm. Tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh của nữ và nam ở Việt Nam đều tăng, nhưng tuổi thọ của nữ vẫn cao hơn nam 5,3 – 5,4 năm .

Năm 2016, tuổi thọ của nữ là 76,1 so với 70,8 của nam. Hai chỉ tiêu tương ứng của nữ và nam năm 2017 là 76,6 và 70,9; năm 2018 là 76,2 và 70,9.

Năm 2019 tuổi thọ của nữ và nam là 76,3 và 71,0 và năm 2020 là 76,4 và 71,0. Trong 6 vùng, tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh hằng năm của Đông Nam Bộ luôn đạt mức cao nhất cả nước và Tây Nguyên có mức thấp nhất .Năm 2020, Đông Nam Bộ có tuổi thọ là 76,2 ; tiếp đến Đồng bằng sông Cửu Long là 74,9 ; Đồng bằng sông Hồng là 74,8 ; Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là 73,2 ; Trung du và miền núi phía Bắc là 71,4 ; Tây Nguyên là 71,0 .Tuổi thọ trung bình của Việt Nam xếp thứ mấy trong các nước ASEAN? - Ảnh 1.Tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh của cả nước năm nay – 2020 chia theo vùng ( Nguồn : Tổng cục Thống kê )

Năm 2020, Bà Rịa – Vũng Tàu trở thành tỉnh có tuổi thọ trung bình cao nhất cả nước (76,5 năm). Tuy rằng tuổi thọ trung bình cả nước cao hơn so với năm 2019 nhưng tỉnh có tuổi thọ cao nhất đã thấp hơn so với năm trước. Chỉ có 2 thành phố trực thuộc Trung ương nằm trong top 10 là TP. HCM và thành phố Đà Nẵng. Tuổi thọ trung bình lần lượt là 76,5 năm và 76,3 năm.

Tuổi thọ trung bình của Việt Nam xếp thứ mấy trong các nước ASEAN? - Ảnh 2. Nguồn : Tổng cục Thống kêSo với mức trung bình chung của khu vực Khu vực Đông Nam Á, tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh của Việt Nam đạt cao hơn .Năm 2017 cao hơn 1,1 năm, năm 2018 cao hơn 0,6 năm và 2019 cao hơn 0,5 năm. Do tuổi thọ tăng qua những năm nên Chỉ số sức khỏe thể chất của cả nước đã tăng từ 0,822 năm năm nay lên 0,823 năm 2017 ; 0,825 năm 2019 và 0,826 năm 2020 .Trong khu vực Khu vực Đông Nam Á, tuổi thọ và theo đó là Chỉ số sức khỏe thể chất của Việt Nam đứng ở vị trí 5/11 vương quốc. Được biết, tuổi thọ trung bình của Việt Nam chỉ đứng sau Nước Singapore ( 83 năm ), Brunei ( 77 năm ), Thailand ( 75,5 năm ) và Malaysia ( 75 năm ) .

Ngoài ra, theo số liệu được tổng hợp và thống kê của trang Statista, tuổi thọ trung bình của Việt Nam giai đoạn 2020-2025 được dự báo sẽ vào khoảng 75,77; xếp thứ 5 trong các nước Đông Nam Á.

Tuổi thọ trung bình của Việt Nam xếp thứ mấy trong các nước ASEAN? - Ảnh 3.Nguồn : Statista

Số năm đi học

Số năm đi học trung bình của cả nước những năm 2016 – 2020 liên tục khuynh hướng tăng của những quy trình tiến độ trước. Một trong những nguyên do quan trọng dẫn tới hiệu quả đó là số năm đi học trung bình của nữ tăng nhanh hơn số năm đi học trung bình của nam .Tình trạng bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục giữa nam và nữ từng bước được thu hẹp. Số năm đi học trung bình của nữ tuy vẫn thấp hơn số năm đi học của nam, nhưng đã tăng từ 8,0 năm trong năm năm nay lên 8,6 năm trong 2019. Trong khi đó, số năm đi học trung bình của nam chỉ tăng từ 9,1 năm lên 9,4 năm .Tính chung, số năm đi học trung bình của cả nước từ 8,5 năm trong năm năm nay tăng lên đạt 8,6 năm vào năm 2017 ; 2018 đạt 8,7 năm ; 2019 đạt 9,0 năm và 2020 đạt 9,1 năm. Số năm đi học kỳ vọng cũng có khuynh hướng tăng, nhưng với vận tốc chậm hơn .Tuổi thọ trung bình của Việt Nam xếp thứ mấy trong các nước ASEAN? - Ảnh 4.Nguồn : Tổng cục Thống kêNăm năm nay và 2017 đều đạt 12,0 năm ; 2018 là 12,1 năm ; 2019 và 2020 cùng ở mức 12,2 năm. Như vậy, từ năm năm nay đến năm 2020, số năm đi học kỳ vọng của trẻ nhỏ trong độ tuổi đi học của cả nước chỉ tăng 0,2 năm ; trung bình mỗi năm tăng 0,05 năm .

Trong những năm 2016 – 2020, số năm đi học bình quân của Việt Nam đạt cao hơn mức bình quân chung của khu vực Đông Nam Á. (Năm 2017 và 2018 cao hơn 1,0 năm; 2019 cao hơn 1,1 năm); đứng thứ 5 khu vực.

Tuy nhiên, số năm đi học kỳ vọng thấp hơn trung bình của khu vực ( Năm 2017 thấp hơn 0,9 năm ; 2018 thấp hơn 0,8 năm và 2020 thấp hơn 0,9 năm ). Do số năm đi học kỳ vọng tăng chậm và đạt thấp nên Chỉ số giáo dục năm năm nay chỉ đạt 0,618 ; 2017 đạt 0,621 ; 2018 đạt 0,625 ; 2019 đạt 0,641 và 2020 đạt 0,640 .Theo thứ hạng, Chỉ số giáo dục của Việt Nam quá trình năm nay – 2020 đứng thứ 7/11 vương quốc Khu vực Đông Nam Á. Kết quả này cho thấy, mặc dầu Việt Nam là một trong những vương quốc có tỷ suất dân số biết chữ cao ; nhưng năng lực tiếp cận giáo dục vẫn còn hạn chế ; đặc biệt quan trọng là thời cơ đến trường của trẻ nhỏ trong độ tuổi đi học .
https://thevesta.vn/tuoi-tho-trung-binh-cua-viet-nam-xep-thu-may-trong-cac-nuoc-asean-20220402104655756.chn