Bài văn đạt 9,5 điểm thi đại học
Nguyễn Hồng Ngọc Lam là thí sinh hiếm hoi đạt 9,5 điểm Văn trong kỳ tuyển sinh 2007. Lam dự thi vào ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn (ĐH Quốc gia TP HCM). Dưới đây là bài văn của Lam.
> Thủ khoa Văn bắt nguồn từ bài viết ‘Thủy Tinh’
ĐỀ THI TUYỂN SINH NĂM 2007
MÔN VĂN KHỐI D
PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ CÁC THÍ SINH
Câu I: (2 điểm)
Bạn đang đọc: Bài văn đạt 9,5 điểm thi đại học
Anh / chị hãy trình diễn thực trạng sinh ra và mục tiêu sáng tác của bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh .
Câu II: (5 điểm)
Tràng Giang của Huy Cận là bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ xưa vừa văn minh .
Anh / chị hãy nghiên cứu và phân tích bài thơ Tràng Giang để làm sáng tỏ nhận xét trên .
TRÀNG GIANG
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
H.C
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngã;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
( Văn học 11, Tập một, NXB Giáo dục đào tạo, tái bản 2005, tr. 143 )
PHẦN TỰ CHỌN (Thí sinh chỉ được chọn làm 1 trong 2 câu)
Câu III.a: Theo chương trình THPT không phân ban (3 điểm)
So sánh cách nhìn người nông dân của hai nhân vật Hoàng và Độ trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao .
Câu III.b: Theo chương trình THPT phân ban thí điểm (3 điểm)
Phân tích những nét đẹp trong tâm lý và ứng xử của nhân vật Hiền trong truyện ngắn Một người TP.HN của Nguyễn Khải ( đoạn trích trong Ngữ văn 12, sách giáo khoa thử nghiệm Ban KHXH và NV ) .
Nguyễn Hồng Ngọc Lam. Ảnh : Thanh Nga . |
BÀI LÀM CỦA NGUYỄN HỒNG NGỌC LAM
Câu II:
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca”, Kinh cầu tự”. Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”, “Bài thơ cuộc đời”… Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ “Tràng Giang”. Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập “Lửa thiêng”, được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.
Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp
….
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà .
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ xưa lại văn minh cho bài thơ. ” Tràng giang ” là một cách nói chệch đầy phát minh sáng tạo của Huy Cận. Hai âm ” ang ” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm xúc về con sông, không riêng gì dài vô cùng mà còn rộng bát ngát, bát ngát. Hai chữ ” tràng giang ” mang sắc thái cổ xưa lịch sự và trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng .
Tứ thơ ” Tràng giang ” mang nét cổ xưa như thơ xưa : Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái bát ngát sóng nước, không như những nhà thơ mới thường bộc lộ cái tôi của mình. Nhưng nếu những thi nhân xưa tìm đến vạn vật thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về vạn vật thiên nhiên để biểu lộ nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người đơn độc, nhỏ bé trước thiên hà bát ngát. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức điệu đàng của tác phẩm, chứa đựng một niềm tin tân tiến .
Câu đề từ giản dị và đơn giản, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã tóm gọn được xúc cảm chủ yếu của cả bài : ” Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài “. Trước cảnh ” trời rộng “, ” sông dài ” sao mà bát ngát, bát ngát của vạn vật thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm ” bâng khuâng ” và nhớ. Từ láy ” bâng khuâng ” được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, đơn độc, lạc lõng. Và con ” sông dài “, nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp những khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc .
Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã phát hiện những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như vậy :
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Vẻ đẹp cổ xưa của bài thơ được bộc lộ khá rõ ngay từ bốn câu tiên phong này. Hai từ láy nguyên ” điệp điệp “, ” song song ” ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không riêng gì mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng ” điệp điệp “, nước ” song song ” ấy là một ” con thuyền xuôi mái “, lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự hoạt động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, bát ngát của vạn vật thiên nhiên, một dòng ” tràng giang ” dài và rộng bát ngát không biết đến nhường nào .
Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách ” thuyền về nước lại “, nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ do đó mà gợi nên trong lòng người nỗi ” sầu trăm ngả “. Từ chỉ số nhiều ” trăm ” hô ứng cùng từ chỉ số ” mấy ” đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn .
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được thể hiện không thiếu nhất qua câu thơ rực rỡ : ” Củi một càng khô lạc mấy dòng “. Huy Cận đã khéo dùng phép hòn đảo ngữ phối hợp với những từ ngữ tinh lọc, biểu lộ nổi đơn độc, lạc lõng trước ngoài hành tinh bát ngát. ” Một ” gợi lên sự rất ít, nhỏ bé, ” cành khô ” gợi sự khô héo, hết sạch nhựa sống, ” lạc ” mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên ” mấy dòng ” nước vạn vật thiên nhiên to lớn bát ngát. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị và đơn giản, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi .
Nét đẹp cổ xưa ” tả cảnh ngụ tình ” thật khôn khéo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở những khổ thơ còn lại để người đọc hoàn toàn có thể cảm thông, đồng cảm về một nét tâm trạng thường gặp ở những nhà thơ mới. Nhưng cạnh bên đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp tân tiến rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói ” Củi một cành khô ” thật đặc biệt quan trọng, không riêng gì tóm gọn xúc cảm của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng .
Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của khoảng trống lạnh lẽo :
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. “Lơ thơ” gợi sự ít ỏi, bé nhỏ “đìu hiu” lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi “đâu đó”, âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi “đâu” như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là “đâu có”, một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.
Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông :
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
” Nắng xuống, trời lên ” gợi sự hoạt động, lan rộng ra về khoảng trống, và gợi cả sự chia lìa : bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. ” sâu chót vót ” là cảnh diễn đạt mới lạ, đầy phát minh sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp tân tiến. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả ngoài hành tinh, cả khoảng trống bát ngát, vô tận. Cõi vạn vật thiên nhiên ấy quả là bát ngát với ” sông dài, trời rộng “, còn những gì thuộc về con người thì lại nhỏ bé, đơn độc biết bao : ” bến cô liêu ” .
Vẻ đẹp cổ xưa của khổ thơ hiện ra qua những thi liệu quen thuộc trong Đường thi như : sông, trời, nắng, cuộc sông cón người thì buồn tẻ, chán chường với ” vãn chợ chiều “, mọi thứ đã tan rã, chia lìa .
Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về đơn độc. Nhưng vạn vật thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, vắng vẻ :
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ xưa, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là ” hàng nối hàng “. Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngộp trước vạn vật thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, đơn độc. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là ” bờ xanh tiếp bãi vàng ” như mở ra một khoảng trống bát ngát vô cùng, vô tận, vạn vật thiên nhiên tiếp nối đuôi nhau vạn vật thiên nhiên, dường không có con người, không có chút hoạt động và sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết :
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. ” … không … không ” để phủ định trọn vẹn những liên kết của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân thiện để kéo mình ra khỏi nỗi đơn độc đang bao trùm, vây kín, chỉ có một vạn vật thiên nhiên bát ngát, bát ngát. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện đi lại giao kết của con người, có vẻ như đã bị cõi vạn vật thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào .
Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ xưa và tân tiến cho khung trời trên cao :
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Bút pháp chấm phá với ” mây cao đùn núi bạc ” thành ” lớp lớp ” đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ xưa thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ :
Mặt đất mây đùn cửa ải xa .
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ ” đùn “, khiến mây như hoạt động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất tân tiến, bởi nó đã vận dụng phát minh sáng tạo từ thơ cổ xưa quen thuộc .
Và nét văn minh càng thể hiện rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều : Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả khoảng trống nhưng gợi được thời hạn bởi nó sử dụng ” cánh chim ” và ” bóng chiều “, vốn là những hình tượng thẩm mỹ và nghệ thuật để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ xưa .
Nhưng giữa khung cảnh cổ xưa đó, người đọc lại phát hiện nét tâm trạng tân tiến :
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
” Dợn dợn ” là một từ láy nguyên phát minh sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ ” vời con nước ” cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, đơn độc của ” lòng quê “. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê nhà khi đang đứng giữa quê nhà, nhưng quê nhà đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc giờ đây, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước .
Bên cạnh tâm trạng văn minh ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ : ” Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai ” của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã thâm thúy lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê nhà thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ ngày hôm nay .
Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim… Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.
Vẻ đẹp tân tiến lan toả qua những câu chữ phát minh sáng tạo, độc lạ của nhà thơ như ” sâu chót vót “, dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại sau cuối là tâm trạng nhớ quê nhà ngay khi đứng giữa quê nhà, nét tâm trạng văn minh của những nhà tri thức muốn góp phần sức mình cho quốc gia mà đành bất lực, không làm gì được .
Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong thái tiêu biểu vượt trội rất ” Huy Cận “, với vẻ đẹp cổ xưa nhã nhặn sâu lắng và vẻ đẹp tân tiến mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê nhà .
———————————
Câu III.a:
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh năm 1915, mất năm 1951 một nhà văn hiện thực xuất sắc của văn xuôi Nước Ta văn minh. Xuất thân từ tỉnh Hà Nam, nhà văn này đã từng viết rất thành công xuất sắc về đời sống của người tri thức và người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng tám. Sau Cách mạng tháng tám, ông lại tự rèn luyện mình, dứt khoát từ bỏ lối sống cũ để quyết tâm đi theo cách mạng. ” Đôi mắt “, được Nam Cao sáng tác tết 1948, thời gian nhận đường của giới văn nghệ sĩ, biểu lộ khá đầy đủ phong thái của ông sau Cách mạng tháng tám. Ban đầu Nam Cao đặt tựa là ” Tiên sử thằng Tào Tháo “, sau đổi là ” Đôi mắt ” vì ông nhận thấy yếu tố quan trọng hơn hết lúc bấy giờ là cách nhìn của giới văn nghệ sĩ. Trong tác phẩm hai nhân vật chính, Hoàng và Độ, có cách nhìn trọn vẹn trái ngược nhau, mới điển hình nổi bật là cách nhìn về người nông dân, đã phần nào nói lên yếu tố quan điểm, lập trường của Nam Cao .
Hoàng và Độ là hai nhà văn, Hoàng là nhà văn anh, còn Độ thuộc lớp đàn em. Cả hai có cách sống, cách tâm lý và cách nhìn đời, nhìn người trái chiều hẳn nhau, đặc biệt quan trọng là khi nhìn người nông dân .
Hoàng sống phong phú, xa hoa, tách rời với quần chúng nhân dân nên anh có cách nhìn rơi lệch, sai lầm, phiến diện một chiều về người nông dân. Anh không hề nhìn ra được nét đẹp bên trong tâm hồn họ, mà chỉ thấy cái ngố hình thức bề ngoài .
Trong mắt Hoàng những người nông dân nghèo khổ ấy đầy những tính xấu: “Toàn là những người ngu đần, lỗ mãng, ích kỉ, tham lam, bần tiện cả”. Dường như với Hoàng mọi sự xấu xa của con người đã tập trung về cả người nông dân. Anh nhìn thấy họ là một lũ lố lăng: “Cái ông thanh niên, các bà phụ nữ lại còn nhố nhăng”, anh phiền vì sự “nhăng xị” của họ: “Viết chữ quốc ngữ sai vần mà lại cứ hay nói chuyện chính trị rối rít cả lên. Không chỉ nhố nhăng họ còn lại hay nói chữ mở miệng ra “đề nghị, yêu cầu, phê bình, cảnh cáo”. Hoàng cho đó là chuyện thật nực cười. Anh không thấy được sự cố gắng của người nông dân kém hiểu biết nhưng lại rất đỗi yêu nước. Thấy người nông dân đọc thuộc lòng bài “ba giai đoạn”, anh cho đó là con vẹt biết nói, dây dưa, lôi thôi, mồm nói vội lắm vậy mà đọc cho anh nghe “cả một bài dài đến năm trang giấy”.
Anh lại càng phiến diện hơn khi nhìn người nói dân toàn là những người tò mò, tọc mạch : ” Anh chỉ giết một con gà, ngày mai cả làng này đã biết “. Hoàng khăng khăng với Độ : ” Ngày mai, chuyện anh đến chơi tôi thế nào cũng đã chạy khắp làng. Họ sẽ kể rất rạch ròi tên anh, tuổi anh, anh gầy béo thế nào, có bao nhiêu nốt ruồi ở mặt, có mấy lỗ rách nát ở ống quần bên trái “. Có thể đó là thực sự, bởi Hoàng đã thề không hề bịa chuyện, và người đọc cũng biết người nông dân có tính xấu đó. Nhưng Hoàng đã nói quá, đã thổi phồng lên khiến người nông dân trở nên đầy xấu xa. Anh không hề có cái nhìn thông cảm. Bởi thế, Hoàng mới cho người nông dân mới thật gian ác, tàn ác = chị dâu đẻ mà em bắt ra cái lều ngoài vườn. Hoàng không hề hay vờ vịt không biết những tập tục kiêng cự của người nông dân ?
Tất cả những tính xấu của người nông dân hiện lên trong mắt Hoàng, lại càng trở nên xấu xa. Hoàng không nhận ra đó là thực trạng nghèo khó đã biến hóa người nông dân, mà anh qui toàn bộ về thực chất. Anh bêu rếu, nói xấu, mỉa mai chua chát nhưng người nông dân lương thiện đã nuôi nấng anh. Lối sống vị kỉ, xa rời quần chúng đã đem đến cho Hoàng cách nhìn rơi lệch, một chiều, một phía. Anh thấy người nông dân ” quả là không chịu được, không chịu được “. Anh khinh bỉ họ đến cùng cực : ” Nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài, theo cái bĩu môi dài thườn thượt. Mũi anh nhăn lại như ngửi thấy mùi xác thối ” .
Là nhà văn đáng lẽ Hoàng phải có tấm lòng nhân ái, cảm thông, nhưng đằng này anh lại hiện lên như một kẻ tàn ác, ích kỉ. Bởi không chỉ là nhà văn, Hoàng là một ” tay chợ đen tài tình ” sống giàu sang giữa cảnh bần hàn của dân tộc bản địa, giữa lúc những người nông dân nghèo vật chất nhưng giàu ý thức cũng lăn xả thân mình góp phần cho quốc gia. Hoàng không nhìn thấy cái nguyên có thật xinh xắn bên trong, mà chỉ thấy cái ngố bên ngoài và nhìn nhận họ qua một cái nhìn phiến diện không nên có ở một nhà văn. Chính vì không hề có cái tâm, lòng nhân ái mà Hoàng đã chỉ thấy những gì xấu xa của người nông dân. Hoàng tiêu biểu vượt trội cho lớp nhà văn ích kỉ, rơi lệch về cách nhìn, về thái độ so với người nông dân và cuộc kháng chiến lúc bấy giờ .
Trái hẳn với Hoàng, Độ lại có cái nhìn đầy cảm thông so với người nông dân. Anh nhận thấy lịch sử dân tộc đã sang trang, thấy được sức mạnh quần chúng, thấy được cốt lõi bên trong của người nông dân .
Trước đây, Độ cũng có cái nhìn rơi lệch, phiến diện như Hoàng. Anh đã từng bi quan, chán nản. Nhưng khi cách mạng mở ra, Độ đã ” ngã ngữa người ra ” vì thấy được sức mạnh thật sự của quần chúng, vẻ đẹp tâm hồn người nông dân .
Độ nhận ra họ là những con người rất giàu lòng yêu nước, chuẩn bị sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc : ” Vô số anh răng đen mắt toét, gọi lựu đạn là nựu đạn, hát ” Tiến quân ca ” như người buồn ngủ cầu kinh mà lúc ra trận thì xung phong can đảm và mạnh mẽ lắm “. Anh đã ” đi khắp làng này đến làng kia ” để tìm hiểu và khám phá ngõ ngách sâu kín trong tâm hồn người nông dân, anh khao khát thấu được nét đẹp của họ, vì với anh thì những người nông dân ” vẫn còn là một bí hiểm “. ” huyền bí “, bởi Độ đã thấy được sức mạnh tiềm ẩn của họ, chứ không như Hoàng, chỉ thấy trình diện trước mắt bao nhiêu là tính xấu .
Độ biết người nông dân yêu nước lắm, vì vậy, cùng một vấn đề anh người trẻ tuổi đọc thuộc lòng bài ” ba gia đoạn “. Độ không cho anh ta là con vẹt biết nói, mà Độ thấy được bó tre anh người trẻ tuổi vác đi để ngăn quân địch. Tấm lòng nhân hậu, đầy cảm thông của Độ đã nhìn thấu một trái tim yêu nước bên trong ” cái ngố vẻ bên ngoài ” .
Phải hòa nhập vào nông dân, phải trải qua những khó khăn, gian khổ mà người nông dân chịu đựng, Độ mới cảm nhận và hiểu sâu sắc suy nghĩ, tâm hồn của họ đến thế. Dù chỉ là một “anh tuyên truyền viên nhãi nhép” nhưng có thể nói Độ đã đóng góp được rất nhiều cho đất nước. Anh đã có cái nhìn đúng đắn, chân thật mà cũng đầy cảm thông, cái nhìn của một tấm lòng nhân ái, chứ không phải của tâm hồn hẹp hòi, ích kỉ như Độ.
Nếu như Hoàng chỉ nhìn thấy vẻ bề ngoài rồi từ đó thổi phồng, qui thành bản chất thì Độ cũng thấy sự thật rành rành, nhưng không dừng lại ở đó, Độ nhìn thấu vào tận sâu thẳm bên trong tâm hồn người nông dân. Nếu như cái nhìn của Hoàng là phiến diện, lệch lạc một chiều, một phía thì Độ có cái nhìn tiến bộ, đúng đắn, đầy cảm thông.
Qua hai cái nhìn trái ngược, trái chiều của hai nhân vật Hoàng và Độ. Nam Cao đã thể hiện quan điểm đầy tân tiến về cái nhìn đời, nhìn người của văn nghệ sĩ kháng chiến. Nhà văn phải ” sống đã rồi hãy viết “, phải nhìn ra đồng cảm trái tim con người, mà muốn làm được điều đó thì nhà văn cần có một trái tim nhân hậu, có cái tâm .
Nhan đề ” Đôi mắt ” giản dị và đơn giản nhưng rất gợi mở, rất rực rỡ đã tóm gọn được giá trị tư tưởng của cả bài. Tác phẩm không riêng gì dừng lại ở cách nhìn về người nông dân của Hoàng và Độ, mà còn lan rộng ra ra là cách nhìn đời và người cho mọi người. Với tác phẩm này, đặc biệt quan trọng qua hai cách nhìn tương phản, trái chiều. Nam Cao đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh những nhà văn ích kỉ, chỉ chăm sóc đến bản thân mình. Đồng thời ông cũng lên án những ai có cái nhìn phiến diện một chiều rơi lệch, biểu dương cái nhìn đúng đắn, tổng lực. Ông ý niệm nhà văn trước hết phải có tấm lòng để xác lập đúng chổ, đúng lập trường. Từ đó có cách nhìn đúng mà viết nên tác phẩm hay, có ích cho quốc gia, nhân dân. Nếu không, dù có có tài năng đến mấy cũng chỉ là kẻ vô dụng, làm trò cười cho mọi người và tác phẩm dù có hay đến mấy cũng sẽ không được tiếp đón .
Nguyễn Hồng Ngọc Lam (Theo Tuổi Trẻ)
Source: https://thevesta.vn
Category: Làm Đẹp