Tiểu luận: Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện.pdf (Công cụ tài chính) | Tải miễn phí
Tiểu luận: Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
25
432 KB
2
287
4.3 (
6 lượt)
25432 KB
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 25 trang, để tải xuống xem rất đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề tương quan
Tài liệu tương tự
Nội dung
Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt
Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
–0o0-Chơng 1
chính sách tiền tệ trong nền kinh tế
thị trờng .
1.1. Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ :
Khái niệm chính sách tiền tệ : Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô
do Ngân hàng trung ơng khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ, biện pháp của
mình nhằm đạt các mục tiêu :ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm ,tăng trởng
kinh tế .
Tuỳ điều kiện các nớc, chính sách tiền tệ có thể đợc xác lập theo hai hớng: chính
sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền ,giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh ,giảm
thất nghiệp nhng lạm phát tăng -chính sách tiền tệ chống thất nghiệp) hoặc chính sách tiền
tệ thắt chặt(giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm đầu t vào sản xuất kinh doanh từ đó
làm giảm lạm phát nhng thất nghiệp tăng-chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền)
Vị trí chính sách tiền tệ : Trong hệ thống các công cụ đIều tiết vĩ mô của Nhà nớc thì
chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp
vào lĩnh vực lu thông tiền tệ .Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế
vĩ mô khác nh chính sách tài khoá,chính sách thu nhập,chính sách kinh tế đối ngoại.
Đối với Ngân hàng trung ơng ,việc hoạch định và thực thi chính sách chính sách tiền
tệ là hoạt động cơ bản nhất ,mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho chính sách tiền tệ
quốc gia đợc thực hiện có hiệu quả hơn.
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ :
*ổn định giá trị đồng tiền: NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay
giảm giá trị đồng tiền của nớc mình.Giá trị đồng tiền ổn định đợc xem xét trên 2 mặt: Sức
mua đối nội của đồng tiền(chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nớc)và sức mua đối
ngoại(tỷ giá của đồng tiền nớc mình so với ngoại tệ).Tuy vậy ,CSTT hớng tới ổn định giá
trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì nh vậy nền kinh tế không thể phát triển
đợc,để có một tỷ lệ lạm phát giảm phảI chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.
*Tăng công ăn việc làm: CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hởng trực tiếp tới việc
sử dụng có hiệu qủa các nguồn lực xã hội,quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hởng
tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế .Để có một tỷ lệ thất nghịêp giảm thì phải chấp nhận
một tỷ lệ lạm phát tăng lên.
*Tăng trởng kinh tế :Tăng trởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong
việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trởng đó
ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng ,nó thể hiện lòng tin của
dân chúng đối với Chính phủ .Mục tiêu này chỉ đạt đợc khi kết quả hai mục tiêu trên đạt
đợc một cách hài hoà.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu :Có mối quan hệ chặt chẽ,hỗ trợ nhau, không tách rời.
Nhng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau
thậm chí triệt tiêu lẫn nhau.Vậyđể đạt đợc các mục tiêu trên một cách hài hoà thì NHTW
trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
1.3 Các công cụ của CSTT :
1.3.1.Nghiệp vụ thị trờng mở:
Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực hiện trên thị
trờng mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó đIều tiết lợng tiền cung ứng.
Cơ chế tác động:Khi NHTW mua (bán)chứng khoán thì sẽ làm cho cơ số tiền tệ tăng
lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi).
Nếu thị trờng mở chỉ gồm NHTW và các NHTM thì hoạt động này sẽ làm thay đổi
lợng tiền dự trữ của các NHTM (R ),nếu bao gồm cả công chúng thì nó sẽ làm thay đổi
ngay lợng tiền mặt trong lu thông(C)
Đặc điểm:Do vận dụng tính linh hoạt của thị trờng nên đây đợc coi là một công cụ
rất năng động ,hiệu quả,chính xác của CSTT vì khối lợng chứng khoán mua( bán ) tỷ lệ
với qui mô lợng tiền cung ứng cần đIều chỉnh,ít tốn kém về chi phí ,dễ đảo ngợc tình
thế.Tuy vậy, vì đợc thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các
chủ thể khác tham gia trên thị trờng và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phảI có
sự phát triển đồng bộ của thị trờng tiền tệ ,thị trờng vốn.
1.3.2 Dự trữ bắt buộc:
Khái niệm :Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phảI giữ lại,do NHTW qui
định ,gửi tại NHTW,không hởng lãI,không đợc dùng để đầu t,cho vay và thông thờng đợc
tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng só tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng
thanh toán,sự ổn định của hệ thống ngân hàng
Cơ chế tác động:Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hởng trực tiếp đến số nhân
tiền tệ (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các NHTM.Mặt khác khi tăng (giảm )
tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng), làm cho lãI suất
cho vay tăng (giảm),từ đó làm cho lợng cung ứng tiền giảm (tăng).
Đặc đIểm:Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nớc nên giúp NHTW chủ
động trong việc đIều chỉnh lợng tiền cung ứng và tác động của nó cũng rất mạnh (chỉ cần
thay đổi một lợng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hởng tới một lợng rất lớn mức cung
tiền). Song tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm ,phức tạp,
tốn kém và nó có thể ảnh hởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các NHTM.
1.3.3 Chính sách tái chiết khấu:
Khái niệm : Đây là hoạt động mà NHTW thực hiện cho vay ngắn hạn đối với các
NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc đIều chỉnh lãI suất táI chiết khấu (đối
với thơng phiếu) và hạn mức cho vay táI chiết khấu(cửa sổ chiết khấu)
Cơ chế tác động:Khi NHTW tăng (giảm ) lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn chế (khuyến
khích) việc các NHTM vay tiền tại NHTW làm cho khả năng cho vay của các NHTM
giảm (tăng) từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế giảm (tăng).Mặt khác khi
NHTW muốn hạn chế NHTM vay chiết khấu của mình thì thực hiện việc khép cửa sổ
chiết khấu lại.
Ngoài ra, ở các nớc có thị trờng cha phát triển (thơng phiếu cha phổ biến để có thể
làm công cụ táI chiết khấu) thì NHTW còn thực hiện nghiệp vụ này thông qua việc cho
vay táI cấp vốn ngắn hạn đối với các NHTM.
Đặc điểm:Chính sách tái chiết khấu giúp NHTW thực hiện vai trò là ngời cho vay
cuối cùng đối với các NHTM khi các NHTM gặp khó khăn trong thanh toán ,và có thế
kiểm soát đựoc hoạt động tín dụng của các NHTM đồng thời có thể tác động tới việc đIều
chỉnh cơ cấu đầu t đối với nền kinh tế thông qua việc u đãi tín dụng vào các lĩnh vực cụ
thể.Tuy vậy ,hiệu qủa của cộng cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động cho vay của các
NHTM, mặt khác mức lãi suất tái chiết khấu có thể làm méo mó ,sai lệch thông tin về
cung cầu vốn trên thị trờng.
Trên đây là 3 công cụ tác động gián tiếp tới qui mô lợng tiền cung ứng,trong một nền
kinh tế nếu NHTW sử dụng có hiệu quả cấc công cụ này thì sẽ không cần đến bất cứ một
công cụ nào khác .Tuy vậy trong những điều kiện cụ thể (các quốc gia đang phát triển ;các
giai đoạn kinh tế quá nóng ) thì để đạt đợc mục tiêu của mình ,NHTW có thể sử dụng các
công cụ điều tiết trực tiếp sau:
1.3.4. Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM
Khái niệm :là việc NHTW quy định tổng mức d nợ của các NHTM không đợc vợt
quá một lợng nào đó trong một thời gian nhất định(một năm) để thực hiện vai trò kiểm
soát mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn mức tín dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên
cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô(tốc độ tăng trởng ,lạm phátiêu thụ..)sau đó NHTW sẽ
phân bổ cho các NHTM và NHTM không thể cho vay vợt quá hạn mức do NHTW quy
định .
Cơ chế tác động:Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lợng tiền
cung ứng,việc quy định pháp lý khối lợng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế có quan hệ
thuận chiều với qui mô lợng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHTM.
Đặc điểm:Giúp NHTW điều chỉnh ,kiểm soát đợc lợng tiền cung ứng khi các công cụ
gián tiếp kém hiệu quả ,đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao trong những giai đoạn
phát triển quá nóng,tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế .Song nhợc điểm của nó rất lớn :
triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM,làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến
kinh tế ,dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngoàI sự kiểm soát của NHTW và nó sẽ trở
nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên .
1.3.5 Quản lý lãi suất của các NHTM:
Khái niệm :NHTW đa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi suất cho vay để
hớng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó,từ đó ảnh hởng tới qui mô tín dụng
của nền kinh tế và NHTW có thể đạt đợc quản lý mức cung tiền của mình.
Cơ chế tác động:Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hớng tăng hay giảm sẽ ảnh hởng
trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho lợng tiền cung ứng thay
đổi theo.
Đặc điểm:Giúp cho NHTW thực hiện quản lý lợng tiền cung ứng theo mục tiêu của
từng thời kỳ,đIều này phù hợp với các quốc gia khi cha có điều kiện để phát huy tác dụng
của các công cụ gián tiếp.Song, nó dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền
kinh tế vì thực chất lãI suất là “giá cả” của vốn do vậy nó phải đợc hình thành từ chính
quan hệ cung cầu về vốn trong nến kinh tế .Mặt khác việc thay đổi quy định đIều chỉnh
lãI suất dễ làm cho các NHTM bị động,tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình.
Chơng 2
Thực trạng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.
2.1 Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Kể khi đất nớc chuyển sang nền kinh tế thị trờng thì quá trình thực hiện chính sách
tiền tệ cũng đợc xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh tế của nó và phù hợp với thực
tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau:
Cách xác định lợng tiền cung ứng: Nếu nh trong thời kỳ bao cấp chúng ta chỉ quan
niệm lợng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao gồm tiền mặt và mức cung là bao nhiêu, ở
thời kỳ nào là do chính phủ phê duyệt thì ngày nay việc quan niệm về lợng tiền cung ứng
để thay đổi bên cạnh lợng tiền mặt (C) còn tính đến khả năng tạo tiền của các NHTM, tổ
chức tín dụng khác (D). Bên cạnh đó lợng tiền cung ứng hàng năm phải dựa trên cơ sở: tỉ
lệ lạm phát ớc tính, tốc độ tăng trởng kinh tế theo kế hoạch, vòng quay tiền tệ…
Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: Đợc sử dụng một cách linh hoạt,
phù hợp với điều kiện Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ không đông cứng, đóng băng
nh thời kì bao cấp (lãi mất cố định nhiều năm…)
Cơ chế điều hành: Năm 1988, Hệ thlống NH đã đợc phân thành 2 cấp NHNN và các
NHTM, trong đó NHNN là cơ quan quản lý Nhà nớc trên lĩnh vực tiền tệ- tín dụng- ngân
hàng; trực thuộc chính phủ. Thống đốc NHNN có quyền chủ động hơn và chịu trách
nhiệm trực tiếp trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
2.2 Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ những năm qua.
2.2.1. Công cụ lãi suất:
ở Việt Nam, lãi suất đợc sử dụng nh công cụ chính của chính sách tiền tệ, nó là yếu
tố đánh dấu sự chuyển biến từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá stập trung sang cơ chế thị trờng,
nó còn là công cụ quan trọng để chuyển các Ngân hàng sang cơ chế tự hạch toán kinh
doanh.
Giai đoạn 1988- 1991: Chính sách lãi suất đợc thay đổi cơ bản: Lãi suất tiết kiệm cao
hơn tốc độ trợt giá (lạm phát ), nâng lãi suất tiền gửi và tiền vay của các tổ chức kinh tế
tiến gần với lãi suất huy động tiết kiệm.Lãi suất cho vay vốn lu động và tốc độ lạm phát
(%)
Biểu1: Lãi suất cho vay vốn lu động và tốc độ lạm phát(%).
Từ T3/81- T10/91
1. Lãi tiết kiệm
3/89
6/89
– Loại 3T
12
9
7
7
– Loại không kì hạn
9
7
5
2. Lãi cho vay vốn lu
6,8-
5,1-
3-4
động
6,5
5,5
+ 5,4
– 2,9
3. Tốc độ ép
7/89 2/90 IV/90
7/91
10/91
4
3,5
3,5
5
2,4
2,1
2,1
3-4
1,8
1,8
2,13,7
-2,5
+0,2
+7,6
+2,5
+5,5
Nhờ việc tăng lãi suất huy động vốn đã thực hiện đợc chủ trơng của Nhà nớc là đâỷ
lùi lạm phát và có cơ sở để thực hiện việc tài trợ vốn
cho các xí nghiệp quốc
doanh đang lâm vào tình trạng khủng hoảng lúc bấy giờ. Song xét trên bình diện toàn nền
kinh tế thì chúng ta đã thất bại trong lĩnh vực đầu t vì lãi suất cho vay quá cao, vốn ngân
hàng ứ đọng, nền kinh tế phát sinh các hoạt động kinh tế thiếu tính cực : vay tiền chơi đề,
hoặc để gửi lãi ăn chênh lệch. Tình trạng đó đã dẫn đến sự đổ bể của các HTX tín dụng
còn các NHTM thực chất là phá sản nếu không có bàn tay cứu giúp của Nhà nớc.
Việc thi hành chính sách lãi suất thực dơng đã đợc thực hiện nhng lại cha triệt để vì
thực tế với các ngân hàng thì lãi suất cho vay lại nhỏ hơn lãi suất huy động: Năm 1991 lãi
suất huy động tiết kiệm 45% năm; chỉ số trợt giá bình quân 43,4% năm ; lãi suất cho vay
40,2% năm.
Giai đoạn 1992-1995: Lãi suất đã bắt đầu đợc sử dụng nh công cụ chính của CSTT,
lãi suất thực dơng bắt đầu đợc duy trì từ cuối 1992, điều chỉnh linh hoạt cùng với tỉ lệ lạm
phát và bám sát thị trờng (trong thời gian 2 năm từ T8/1992-T8/1994 mức lãi suất đợc điều
chỉnh tới 6 lần), NHNN khống chế “sàn ” lãi suất tiền gửi, trần lãi suất cho vay và có một
bộ phận cho vay theo lãi suất thoả thuận (T8/1992: Lãi tiết kiệm loại 3 tháng: 2,3%, lãi
cho vay 2,5%, lạm phát +0,3%).
Để thực hiện nguyên tắc trên đồng thời tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay để khuyến
khích đầu t phát triển trong nền kinh tế một số biện pháp sau đây đã đợc sử dụng:
. Thay đổi cơ cấu nguồn vốn ngân hàng theo hớng tăng nhanh nguồn vốn có lãi suất
thấp ( tăng tiền gửi giao dịch, vốn tín dụng nớc ngoài, vốn ngân sách)
. Thu hẹp chênh lệch lãi suất huy động và cho vay giữa ngoại tệ và bản tệ theo hớng
tăng lãi suất đối với ngoại tệ: Lãi suất cho vay ngoại tệ năm 1993 là 7,5% lên 8,5% năm
1994 và 9,0% năm 1995 và điều chỉnh hàng tháng lãi suất ngoại tệ theo biến động lãi mất
thị trờng TCQT SINGAPORE.
. Qua việc quốc hội thông qua dự luật bỏ thuế doanh thu NH đã hỗ trợ cho NHNN
tiến thêm một bớc trong việc cải tiến lãi suất vào cuối T12/1995: Lãi suất cho vay ngắn
hạn tối đa giảm từ 2,1% tháng xuống 1,75% tháng ; lãi suất cho vay trung – dài hạn đợc
giữ nguyên không quá 1,7% tháng. Mặt khác có quy định để các NHTM tuân thủ chênh
lệch lãi suất bình quân giữa huy động và cho vay là 0,35% tháng.
Ngoài ra, từ T8/94: Chính sách lãi suất TD còn đợc cải cách theo hớng nâng lãi suất
tiền gửi có kì hạn lên gần với lãi suất tiền gửi tiết kiệm của dân c cùng kì hạn để bảo đảm
lợi ích kinh tế chính đáng của họ và khuyến khích họ gỉ tiền vào ngân hàng. Đồng thời
thực hiện lãi suất cho vay trung, dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn: Năm 1994 giữ
nguyên mức lãi suất cho vay ngắn hạn; nâng lãi suất cho vay trung hạn, dài hạn từ 1,2%
lên 1,7% tháng.
Quá trình cải cách lãi suất trên đã nâng cao tính chủ động cho các NHTM trong việc
ấn định mức lãi suất cụ thể theo yêu cầu huy động vốn và nhu cầu tín dụng thị trờng, tăng
sự cạnh tranh trong hoạt động tín dụng và làm giảm chi phí NH có lợi cho nền kinh tế, tạo
điều kiện cho các NHTM thực hiện điều chỉnh cơ cấu đầu t theo mục tiêu chính sách tín
dụng.
Giai đoạn từ 1996- Nay: Đến cuối 1996, NHNN chỉ quy định các mức lãi suất :“trần”
theo thời hạn cho vay và khống chế tỷ lệ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy
động vốn bình quân chung là 0,35%(tháng) (4,2% năm). Trong phạm vi “trần” lãi suất và
tỷ lệ chênh lệch lãi suất đợc công bố, các NHTM đợc điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất
cho vay và huy động vốn phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn và đặc điểm kinh doanh
riêng. Sau 4 lần điều chỉnh lãi suất kể từ cuối 1995: Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa giảm
từ 22% năm xuống 15% năm, lãi suất cho vay trung- dài hạn giảm 21% năm xuống còn
16,2% năm.
Mặt khác nhằm điều chỉnh các luồng vốn d thừa từ thành thị về nông thôn thì lãi suất
cho vay ở nông thông đợc duy trì cao hơn một chút so với lãi suất cho vay ở thành thị.
Trong năm 1997, với mục tiêu góp phần tăng trởng kinh tế và phù hợp xu hớng giảm
lãi suất, việc quy định trần lãi suất cho vay giảm mạnh, T7/1997 lãi suất cho vay ngắn hạn
giảm từ 1,2% tháng xuống 1% tháng, lãi suất cho vay trung dài hạn giảm từ 1,35% tháng
xuống 1,1% tháng ,chênh lệch lãi suất huy động và cho vay bình quân quy định là 0,35%
tháng(4,2% năm)
Tuy nhiên từ quý IV năm 1997, do chịu ảnh hởng của cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ trong khu vực, đồng USD có xu hớng lên giá và lãi xuất
tiền gửi bằng USD ở
mức cao trong khi lãi suất huy động của VND ở mức thấp nên đã có hiện tợng ngời gửi
tiền rút VND để chuyển sang USD. Nhiều tổ chức kinh tế và dân c găm giữ USD gây khó
khăn cho các NHTM và tăng sức ép đối với đồng nội tệ, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn cho thị
trờng tiền tệ và việc huy động vốn của các NHTM, đặc biệt là một số NHTM cổ phần.
. Trớc tình hình đó, ngày 20/1/1998, thống đốc NHNN ra QĐ số 39/1998 / QĐNHNN1 với nội dung chủ yếu là:
– Đa ra mức trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng bằng VND:
lãi cho vay ngắn hạn từ 1%-1,2% tháng; lãi suất cho vay trung và dài hạn là 1,1- 1,25%
tháng ; đồng thời xoá bỏ sự chênh lệch về lãi suất giữa 2 khu vực thành thị và nông thôn.
Đó là cơ sở tăng lãi suất huy động vốn VND. Hạn chế rút tiền VND tích trữ USD ,tăng
vốn cho sản xuất kinh doanh.
– Quy định trần lãi suất cho vay bằng USD vẫn giữ nguyên 8,5% năm nh trớc đây
đồng thời NHNN còn quy định lãi suất tiền gửi tối đa của các pháp nhân tại TCTD nhằm
hạn chế việc quản lí ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi góp phần tăng cờng cho việc quản lí
ngoại hối.
– Đến cuối năm, trần lãi suất cho vay bằng USD đợc điều chỉnh giảm từ 8,5 % xuống
7,5% năm để phù hợp với cân bằng lãi suất LiBOR, SiBOR hiện hành; đồng thời góp phần
mở rộng cho vay ngoại tệ đối với nền kinh tế.
Nhìn chung việc điều chỉnh lãi suất trong năm 1998 là phù hợp với diễn biến kinh tế
vĩ mô và tỷ giá, nó đã có tác động tích cực đối với việc huy động vốn và cho vay trong
nền kinh tế. Tổng số vốn huy động ở hầu hết các tổ chức tín dụng đều tăng lên điều đó cho
thấy mối tơng quan giữa lạm phát và lãi suất tiền gửi đợc coi là tơng đối hợp lý. Từ đó,
quy mô tín dụng cung ứng cho nền kinh tế tăng lên đặc biệt tín dụng bằng VND có tốc độ
tăng cao hơn. Thị trờng ngoại tệ ,tỉ giá VND/USD lại trở về trạng thái tơng đối ổn định.
Bớc sang năm 1999, nền kinh tế có dấu hiệu tăng trởng chững lại, để phù hợp với chỉ
số lạm phát, quan hệ cung cầu về vốn trên thị trờng tiền tệ và thực hiện giải pháp kích cầu
về đầu t của chính phủ, NHNN đã 5 lần điều chỉnh trần lãi suất cho vay bằng VND theo
xu hớng giảm: Từ 1,2% tháng (ngắn hạn) và (1,25%tháng -trung dài hạn) xuống mức thấp
nhất là 0,85% tháng (thành thị); 1% tháng (nông thôn); 1,15% tháng (NHTMCP nông
thôn- Quỹ TDND cơ sở ); 0,7% (NH phục vụ ngời nghèo). Trần lãi suất cho vay bằng
USD là 7,5% năm.
Sự điều chỉnh lãi suất trên là quyết định hết sức kịp thời và phù hợp với diễn biến của
nền kinh tế, kích thích tăng trởng kinh tế trong bối cảnh nguy cơ giảm phát đang là chậm
lại tốc độ tăng trởng.
Năm 2000, lãi suất trong nớc có những diễn biến khá phức tạp .Thực hiện chủ trơng
kích cầu của chính phủ, lãi suất cho vay bằng VND vẫn tiếp tục đợc điều chỉnh theo xu
hớng giảm: lãi suất cho vay phổ biến gỉam từ 0,75% tháng xuống 0,70% tháng. Trong khi
đó lãi suất ngoại tệ lại chịu tác động của thị trờng tài chính quốc tế, trong năm 2000, lãi
suất thị trờng quốc tế liên tục tăng buộc lãi suất ngoại tệ trong nớc cũng phải tăng theo (từ
3,5% năm lên 4,5% năm ), nhiều khi lãi suất VND thấp hơn lãi suất USD.
Ngày 2/8/2000, NHNN đã quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất: chuyển từ cơ
chế điều hành trần lãi suất sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng
VND và cơ chế lãi suất thị trờng có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ: Đối với cho
vay VND, lãi suất cho vay không vợt quá lãi suất cơ bản đợc công bố hàng tháng. Hiện
nay, lãi suất cơ bản là 0,75% tháng, biên độ cho vay ngắn hạn là 0,3% tháng, biên độ cho
vay trung và dài hạn là 0,5% tháng. Đối với lãi suất cho vay USD, lãi suất cho vay không
vợt quá lãi suất USD trên thị trờng liên NH Singapore (SiBOR) kì hạn 3 tháng đôí với cho
vay ngắn hạn, kì hạn 6 tháng đối với cho vay trung dài hạn tại thời điểm cho vay cộng biên
độ do thống đốc NHNN quy định (Hiện nay biên độ cho vay ngắn hạn là 1% năm, biên độ
cho vay trung dài hạn là 2,5% năm ). Còn đối với các ngoại tệ khác do chiếm tỷ trọng nhỏ
trong hoạt động tiền gửi TD nên cho phép các TCTD tự xác định.
Với nội dụng điều hành lãi suất cơ bản nh trên cho thấy lãi suất cơ bản đợc xác định
trên cơ sở lãi suất thị trờng với mức độ rủi ro thấp, đảm bảo sự kiểm soát lãi suất của
NHNN, phù hợp thực tiễn Việt Nam, đây là một bớc tiến mới, bớc đi tiếp theo trong tiến
trình tự do hoá lãi suất.
Nh vậy, chính sách lãi suất linh hoạt và phù hợp cùng với việc ổn định tỷ giá
VND/USD trong những năm qua không những góp phần quan trọng trong quá trình ổn
định kinh tế vĩ mô mà còn làm tăng tính hấp dẫn của đồng tiền Việt Nam và lòng tin của
dẫn chúng vào hệ thống ngân hàng, giảm dần tình trạng sử dụng hay cất trữ USD, từng
bớc đẩy lùi tình trạng “đô la hoá” ở Việt Nam.
Điều đó chứng tỏ rằng: Trong điều kiện nền kinh tế thị trờng phát triển cha cao, việc
sử dụng lãi suất làm công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam là hoàn
toàn cần thiết và đúng đắn.
2.2.2 Công cụ Hạn mức tín dụng:
Đây là công cụ đợc coi là cần thiết ở Việt Nam trong những năm đầu của thời kì đổi
mới hiệu quả của nó đã thể hiện rõ rệt trong việc chống lạm phát: Những năm 19901991do lạm phát còn ở tỉ lệ cao (67,6% tháng ). Để khống chế lạm phát, NHNN chủ trơng
thi hành CSTT “thắt chặt” ngay từ đầu năm để giảm bớt lợng tiền cung ứng. Dựa trên một
số chỉ tiêu vĩ mô dự kiến năm 1992 là: Tăng trởng kinh tế (4,5%); chỉ số lạm phát (30%/
năm), NHNN đa ra hạn mức tín dụng đối với tất cả hệ thống NHTM là 34,5% (mức tăng
so với năm trớc). Bằng nhiều biện pháp kết hợp, năm đó chúng ta đã đạt đợc kết quả thực
tế rất khả quan: mức tăng trởng kinh tế tăng gấp 2 lần so với dự kiến (8,65%), mức lạm
phát thấp hơn dự kiến rất nhiều (17,6%), tiền tệ đi dần vào ổn định.
ở thời kỳ đầu, công cụ hạn mức TD chỉ áp dụng cho 4 NHTMQD( NH Ngoại thơng,
NH Công thơng, NH Nông nghiệp, NH đầu t phát triển) nhng sau vài năm đổi mới, do quy
mô mở rộng tín dụng của các NHTM quá nhanh, số lợng các NHTM ngày càng nhiều nên
NHNN quyết định áp dụng hạn mức tín dụng cho hầu hết các NHTM. Tính đến cuối năm
1997 có 26 NHTM trong nớc phải áp dụng hạn mức tín dụng còn các NH nớc ngoài và
NH liên doanh tuy chiếm thị phần tín dụng đáng kể (10-15% thị phần tín dụng trong nớc)
nhng vẫn cha phải áp dụng hạn mức tín dụng.
Những năm sau đó, đặc biệt là từ 1995 đến 1997, NHNN vẫn tiếp tục thực hiện chính
sách tiền tệ “thắt chặt” để kiểm soát lạm phát từ đó đa ra rỉ lệ hạn mức tín dụng ở mức vừa
phải cho các NHTM. Song kết quả thực tế cho thấy hiện tợng phổ biến là hầu hết các
NHTM đều có xu hớng vợt qúa chỉ tiêu hạn mức tín dụng đợc giao, cụ thể .
Biểu 2: Tình hình thực hiện hạn mức tín dụng (1995-1998).
1995
1996
1997
Quỹ T D
/1998
Năm
Danh mục
KH giao Thực
KH
Thực KH
Thực
KH
Thực
giao
hiện
giao
hiện
giao
hiện
37,8% 25%
29%
21%
26,4% 4%
hiện
Tăng so với
21%
4,8%
năm trớc
Hiện tợng trên xuất phát từ hai nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, trong giai đoạn nay tốc độ huy động vốn nhàn rỗi bình quân hàng năm của
các NHTM tăng nhanh (khoảng 26% đến 37% năm) vì vậy các NHTM tất yếu phải thực
hiện đầu t tăng trởng tín dụng đối với nền kinh tế vì con đờng để đầu t qua thị trờng tiền tệ,
thị trờng vốn là khó khăn trong điều kiện nớc ta lúc bấy giờ.
Thứ hai, Do diễn biến lãi suất đang có xu hớng giảm trần lãi suất cho vay trong khi
đó để huy động nguồn vốn nhàn rỗi các NHTM phải tăng lãi suất huy động (do tâm lý
ngời dân không muốn gửi), điều đó làm cho chênh lệch giữa lãi suất cho vay với lãi suất
huy động giao động ở mức 0,15% – 0,25% tháng, thấp hơn so với trớc đây 0,3%-0,45%
tháng. Với chênh lệch nh vậy để đảm bảo hoạt động kinh doanh đủ bù đắp chi phí hoạt
động thì buộc các NHTM phải tăng d nợ đối với nền kinh tế.
Hiện tợng trên cũng góp phần giải thích tại sao trong những năm 1995- 1997 mặc dù
lạm phát đợc kiểm chế ở mức thấp (bình quân 6,9% năm) nhng nền kinh tế vẫn đạt tốc độ
tăng trởng cao 9,28% năm.
Tuy nhiên, từ năm 1998 đến nay, công cụ hạn mức tín dụng đã mất dần vai trò của nó
trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phơng tiện thanh toán vì lạm phát có xu hớng giảm
và thấp dần ; mặt khác nhu cầu vốn của nền kinh tế ngày càng tăng và cần phải mở rộng
tín dụng để thực hiện mục tiêu tăng trởng kinh tế. Do đó từ quý II/1998, NHNN đã không
áp dụng công cụ này nh một công cụ thờng xuyên để điều hành chính sách tiền tệ (mặc dù
có thể coi nó nh một giải phóng tình thế khi cần thiết).
Source: https://thevesta.vn
Category: Cộng Đồng