Bài 10

PHẢN BIỆN 

Bạn đang đọc: Bài 10

HIỆN TƯỢNG THÍCH THÔNG LẠC
Toàn Không

10

XVIII). HT TTL:

“KINH
SÁCH ĐẠI THỪA KHÔNG PHẢI PHẬT THUYẾT”

Do bài đăng trên mạng ngày 21-12-2012 của Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC, trích NLGPD. 4, TG. 2010, tr. 125 – 132

1. Tác giả
Thông Lạc viết:
LI PHT DY:

“Này các Tỳ kheo! Có thể có Tỳ
kheo nói: “Này Hiền giả, tôi tự thân nghe từ miệng Thế Tôn, tự thân lãnh thọ
như vậy là pháp, như vậy là luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo sư”. Này các Tỳ kheo, các Ngươi không nên tán thán,
không
nên hủy báng lời nói của Tỳ kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi
mỗi chữ, mỗi mỗi câu, cần phả
i được học hỏi kỹng và đem so sánh với kinh, đối chiếu với
luật. Khi đem so sánh với kinh đối chiếu với luật, nếu chúng không phù hợp với
kinh, không
tương ưng với luật thời các ngươi có thể kết luận: “Chắc chắn
những lời này không phải là lời của Thế Tôn và Tỳ kheo ấy đã thọ giáo sai lầm”.

Và này các Tỳ kheo, các ngươi hãy từ bỏ chúng; khi đem
so sánh với kinh, đem đối chiếu với luật và nếu chúng phù hợp vớ
i kinh, tương ưng với luật, thì các Ngươi có thể kết luận: “Chắc chắn
những lời dạy này phải là lời dạy của Thế Tôn và Tỳ kheo ấy đã thọ giáo
chơn chánh”. Này các Tỳ kheo như vậy là đại giáo pháp thứ nhất, các ngươi hãy thọ trì”. (Kinh Trường Bộ tập 1 trang 618, kinh Đại
Bát Niết Bàn. Mahàparinibbàna Sutta, DN.16)

Đúng vậy, khi đem ra so sánh tất cả chúng ta thấy rằng kinh sách Đại Thừa không phải Phật thuyết 100 %. Cho nên, những lời di chúc sau cuối của đức Phật đã dạy tất cả chúng ta phải xem xét kỹ lưỡng để không bị những kiến giải, tưởng giải của những Tổ lường gạt. Như vậy, rõ ràng đức Phật đã biết trước, sau này những Tổ sẽ làm rơi lệch kinh sách Phật, vì vậy Ngài đã chuẩn bị sẵn sàng cho người đời sau còn có chỗ dựa vững chãi để loại trừ những tà pháp của ngoại đạo đang trộn lẫn trong giáo pháp Nguyên Thủy của Phật. Đọc đoạn kinh này những bạn còn hoài nghi chúng tôi nói kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông sai nữa không ? Những Giáo pháp tăng trưởng sau thời đức Phật đều mang tính trừu tượng, mơ hồ, mê tín dị đoan, ảo tưởng, không thực tiễn, nó được truyền thừa từ nước này sang nước khác, trong một thời hạn khá dài trên 2000 năm.

Phản biện:

Tác giả Thông Lạc không biết rằng trong Kinh số 5, Phẩm Thanh Văn, quyển
số 2 Tăng Nhất A Hàm thuộc Đại Tạng Kinh của Phật giáo Bắc truyền do Hòa Thượng
Thích Trí Tịnh chứng tỏ, Hòa Thượng Thích Minh Châu chủ tịch và 7 vị Phó Chủ
Tịch phiên dịch, cũng có một bài tựa như mà cụ thể hơn Kinh Trường Bộ Nam
truyền, như sau: KINH
SỐ 5:

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

«Nay có bốn đại nghĩa được quảng diễn; những gì là bốn? Khế kinh, Luật,
A-tỳ-đàm (A Tỳ Đạt Ma, Luận), Giới; đó gọi là bốn.

Tỳ-kheo nên biết, nếu có Tỳ-kheo nào từ phương Đông (Tây, Nam, Bắc) đến, tụng
kinh trì pháp, phụng hành cấm giới. Vị ấy nói rằng: ‘Tôi có thể tụng kinh trì
pháp, vâng giữ cấm giới, học rộng nghe nhiều.’ Giả sử, Tỳ-kheo kia có nói những
gì, cũng không nên thừa nhận khi chưa đủ để dốc lòng tin tưởng. Hãy cùng
Tỳ-kheo kia thảo luận, chiếu theo pháp mà cùng thảo bàn. Thế nào là y chiếu
theo cùng thảo bàn? Y chiếu theo pháp mà luận, đó là bốn đại luận được quảng
diễn này, tức là Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm, Giới. Nên cùng với Tỳ-kheo kia phân
biệt pháp được nói bởi Khế kinh, được hiển hiện trong Luật.

Giả sử khi tìm trong Khế kinh được nói, trong
Luật được hiển hiện, trong pháp được phân biệt; nếu những điều được hiển hiện
ấy tương ưng với Khế kinh, tương ưng với Luật và Pháp, khi ấy bèn thọ trì. Nếu
không tương ưng với Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm, thì nên trả lời người kia như
vầy: ‘Này bạn, nên biết đây chẳng phải là những lời dạy của Như Lai, mà những
lời bạn nói, chẳng phải gốc của chánh kinh; sở dĩ như vậy là vì nay tôi thấy nó
không tương ưng với Khế kinh, Luật, A-tỳ-đàm. Vì không tương ưng nên phải hỏi
về sự hành trì giới, nếu không tương ưng với giới hạnh, nên nói với người kia:
‘Đây chẳng phải là tạng của Như Lai!’ Hãy lập tức đuổi đi; đây gọi là gốc của
nghĩa đại nghĩa được quảng diễn thứ nhất”.

Xem như vậy mà tác giả Thông Lạc lấy Kinh điển Nam truyền ra để đả phá Phật giáo Bắc truyền là nghĩa thế nào chứ ? Chúng ta thấy những lời Phật dạy được viết trong Kinh Tạng Nam truyền sơ sài không vừa đủ như trong Kinh Tạng Bắc truyền ; cũng tương tự như như trên đây, những gì Phật nói được viết trong Kinh Tạng Nam truyền hầu hết đều được viết trong Kinh Tạng Bắc truyền. Do đó đọc 2 đoạn kinh nêu trên tất cả chúng ta thấy tác giả Thông Lạc đã viết những điều không đúng vì tỏ ra là người thiển cận cố chấp, muốn vô hiệu Phật giáo Bắc truyền với lý lẽ sai sự thực. Ngoài ra có nhiều lời dạy cao siêu của Phật không được ghi trong Kinh Tạng Nam truyền nhưng được ghi trong Kinh điển Bắc truyền, và những phần này chẳng ai hoàn toàn có thể bác bẻ là sai ý Phật, như đã chứng tỏ ở những phần bên trên. Như vậy mà tác giả Thông Lạc cho rằng Kinh điển Bắc truyền không phải của Phật nói thì chỉ là người cố chấp, đóng bít trí tuệ của mình mà thôi.

2. Rồi tác
giả Thông Lạc
CHÚ GII:

Trước khi vào
Niết
Bàn đức Phật đã biết chắc người đời sau sẽ kiến giải, tưởng giải làm
sai lệch giáo pháp của mình, nên Ngài đã di chúc lại những lời sau cùng này để chúng ta cẩn thận đối chiếu với kinh sách Nguyên Thủy và kinh sách Đại Thừa. Khi đối
chiếu chúng ta mới nhận xét kinh sách Nguyên Thủy dạy đạo đức làm Người làm Thánh, đó
Chư ác mạc tác, chúng
thiện phụng hành”
hoặc “Ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện
tăng thiện pháp”,
còn kinh sách Đại Thừa dạy: “Cúng bái cầu siêu,
cầu an, tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, ngồi thiền ức chế tâm, lạy hồng danh sám hối cho tiêu tội, v.v…”.
Như vậy kinh sách Đại Thừa dạy mê tín,
sống trong thế giới ảo tưởng (Niết Bàn, Cực Lạc Tây Phương).

Phản
biện:

Chư ác mạc tác, chúng thiện
phụng hành”
hoặc “Ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng thiện pháp”, điều này mọi người Phật tử đều học và hành chứ không riêng gì Nam truyền nên miễn bàn.

Tác giả Thông Lạc hồ
đồ cho rằng: “kinh
sách Đại Thừa dạy: “Cúng bái cầu siêu, cầu an, tụng kinh, niệm Phật, niệm
chú, ngồi thiền ức chế tâm, lạy hồng danh sám hối cho tiêu tội, v.v…”
Tất
cả các vấn đề nêu trên chỉ là phương tiện để dẫn dắt chúng sinh mà thôi: Cúng bái
cầu siêu để giúp người qua đời được lợi lạc (xin xem phần phản biện “Tuần Thất”
nơi mục XVII), Cầu an, tụng kinh để chúng sinh hiểu lời Phật dạy và an tâm thích
thú trong việc Chư ác mạc tác, chúng thiện
phụng hành”,
như thời Phật tại thế, mỗi
khi Ngài dạy điều gì, các Tỳ Kheo phải học để nhớ mà thực hành, thì bây giờ
tụng kinh cũng cùng mục đích như vậy. Niệm Phật, trì Chú là
cách tu của Tịnh Độ Tông (xin xem phần phản biện Tịnh Độ Tông nơi mục III phần
1) và Mật Tông (xin xem phần phản biện Mật Tông nơi mục III phần 2).

Tác giả Thông Lạc cho rằng Thiền Tông ngồi Thiền là ức chế tâm là không đúng thực sự như đã chứng tỏ ở phần trên ( xin xem phần phản biện “ ngồi thiền là ức chế tâm ” nơi mục III phần 4, mục IV và mục V ) ; tác giả Thông Lạc đã hiểu sai mà cho rằng : “ kinh sách Đại Thừa dạy mê tín dị đoan, sống trong quốc tế ảo tưởng ( Niết Bàn, Cực Lạc Tây Phương ) ”, Kinh sách Bắc truyền không dạy mê tín dị đoan, chỉ có những người giống như tác giả Thông Lạc không hiểu kinh Bắc truyền rồi hành sai thành ra mê tín dị đoan thôi, hoặc có người chưa hiểu thấu tầm cỡ, rồi viết sách làm xô lệch chứ Kinh không dạy mê tín dị đoan, không dạy Phật tử sống trong ảo tưởng như tác giả lầm tưởng rồi sinh ra chỉ trích bừa bãi. Lạy niệm Hồng Danh Chư Phật là một lối Sám Hối tội lỗi giúp cho hành giả nhẹ bớt nghiệp chướng trong việc tu hành, như thời xưa thời Phật còn tại thế, có những Tỳ Kheo phạm tội phỉ báng bậc Thánh, sau khi sám hối được Phật hay những vị Thánh Tăng tha nên hết tội, còn có Tỳ Kheo Cù Ba Ly phạm tội phỉ báng bậc Thánh, không chịu sám hối trước Phật sau bị mụn nhọt hành hạ đau đớn khổ sở cho đến chết bị đọa âm ti được ghi rõ ràng trong Tăng Nhất A Hàm, quyển 1, phẩm Tam Bảo, trang 363, là một dẫn chứng cho việc lễ lạy niệm Hồng danh Chư Phật để sám hối tội lỗi là việc đúng chứ không phải mê tín dị đoan. Nguồn gốc của sự lễ lạy từ thời đức Phật còn tại thế, những đệ tử của Phật từ vua quan đến dân chúng mỗi lần đến gặp đức Phật đang ngồi, họ đều qùy xuống, hai tay chống đất, đầu cổ cúi, trán sát gần chân Phật để tỏ sự tôn kính lòng ngưỡng mộ vô bờ bến so với bậc tối thượng tôn. Công đức của một vị Phật đã là vô biên, thì công đức của Chư Phật không hề nghĩ bàn được, nên việc lễ lạy Chư Phật phải là việc làm có ý nghĩa không hề bài bác. Cách sám hối lễ niệm Hồng Danh là một cách sám hối dễ nhất trong 5 cách sám hối là : 1. Lễ lạy niệm thương hiệu Chư Phật, như đã nói ở trên. 2. Lập giới đàn sám hối, phải có Thánh Tăng là bậc thanh tịnh Tăng chứng tỏ, ngày này khó kiếm ra Thánh Tăng. 3. Quán tưởng sám hối, người sám hối trước hình tượng Phật phải trình diễn tội lỗi đã phạm, nguyện ăn năn hối lỗi và không tái phạm, làm như thế đến khi nào thấy hào quang mới ngưng, lối quán tưởng này cũng chẳng dễ. 4. Quán Tâm vô sinh : là quán tâm mình không sinh, Kinh nói : “ Tội lỗi từ tâm sinh cũng từ tâm diệt, nếu tâm không sinh tội kia cũng chẳng còn, thế mới thật là sám hối ”, quán này chẳng phải dễ làm. 5. Quán Pháp vô sinh : là quán thật tướng của những Pháp không sinh, cũng chẳng diệt, không bị “ không – thời ” đổi khác chuyển dời ; khi biết được thật tướng rồi thì tội lỗi gá vào đâu mà sống sót được nữa ; cách quán này lại càng khó hơn. Lễ lạy niệm thương hiệu Chư Phật có hiệu quả quán tưởng công đức của Chư Phật để noi theo những Ngài, tránh làm ác chỉ thao tác lành, noi theo học hỏi mở lòng Từ Bi Hỉ Xả so với tổng thể chúng sanh v.v … trong việc tu hành giải thoát luân hồi sinh tử. Sám hối này mỗi lần vừa niệm và vừa lạy còn có hiệu quả trừ kiêu mạn, diệt chấp cái ta cái ngã, sẽ giúp cho sự tu hành mau có kết qủa ; lại bảo vệ sức khoẻ cho người sám hối ( giống như tập thể thao vì những động tác thân đứng lên qùy xuống lễ lạy, miệng niệm tên những vị Phật ). Do đó không nên nói rằng “ kinh sách Đại Thừa dạy mê tín dị đoan, sống trong quốc tế ảo tưởng ”, vì những lời của tác giả Thông Lạc vô tình đã cổ võ cho sự bất tôn kính Phật, là một điều không nên nói.

3. Tác giả
Thông Lạc viết tiếp:

“ Đem giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa của những Tổ ra so sánh với giới kinh của Phật, thì tất cả chúng ta thấy giới bổn không tương thích, không tương ưng với giới kinh một bên thì ngăn cấm như pháp lý, không đúng với ý thức tự giác, tự nguyện của đạo Phật. Còn giới kinh dạy đạo đức làm Người làm Thánh để tâm trọn vẹn vô lậu và đúng theo ý thức tự giác tự nguyện không có bắt buộc, không có khuyến dụ, không có mua chuộc. Cho nên, giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa và kinh sách Đại Thừa chắc như đinh không phải Phật thuyết, do những Tổ chịu tác động ảnh hưởng kinh Vệ Đà của Bà La Môn biên soạn ra, nên không tương thích và không tương ứng với những lời Phật dạy ”.

Giải thích phản biện: Giới luật thông thường của Cư sĩ
là 5 giới, 8 giới, giới luật của Tăng là 10 giới, 250 giới; còn Bồ Tát tại gia
6 giới trọng và 28 giới khinh, Bồ Tát xuất gia 10 giới trọng và 48 giới khinh.

Giới
Thanh Văn
là cẩn thận giữ gìn (chỉ trì), tức là không làm là giữ
giới; Giới Bồ Tát có cái không làm
là giữ giới, có cái không làm là phạm
giới (như thấy người tai nạn mà không cứu là phạm giới). Giới Thanh Văn
thân làm thì phạm, còn giới Bồ Tát có khởi niệm là phạm (như dù thân
không làm mà nghĩ đến ăn cắp là phạm giới, còn gây tai nạn mà không cố ý gây
tai nạn là không phạm), gọi là Tâm Địa giới. Một điểm cần để ý là qua Giới luật
và cách tu, chúng ta thấy rõ là: Giới Thanh Văn không làm
hại người, làm lợi mình và lợi người; giới Bồ Tát không làm hại người, làm lợi người dù có hại cho mình;
như thế mà mang giới luật của Nam truyền ra để chỉ trích giới luật của Bắc truyền
là nghĩa lý làm sao? 

Giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa cho hàng Bồ Tát không kém đạo đức hơn là hàng Thanh Văn thì làm thế nào hoàn toàn có thể bài bác được ; mặt khác giới luật của hàng Bồ Tát cũng như giới luật của hàng Thanh Văn, người nào thấy thích hợp hoàn toàn có thể thực hành thực tế được thì theo, chứ không có việc dụ dỗ hay ép buộc ai cả, tác giả Thông Lạc trọn vẹn hiểu nhầm nên đã nói sai về khuyến dụ mua chuộc là trọn vẹn không bình thường. Giới luật cho hàng Bồ Tát cũng chẳng có chỗ nào trái với lời Phật dạy, nên không hề nói là Giới luật của hàng Bô Tát không tương thích với lời Phật dạy được ( xin xem bài nghiên cứu và phân tích về Kinh Phạm Võng nơi mục IX ).

4. Tác giả Thông Lạc viết:

“ Cho nên, những kinh sách này được kết tập bởi những người tu hành chưa chứng đạo, thành một tạng kinh xô bồ không biết bài kinh nào tu trước, bài kinh nào tu sau. Trong khi giáo lý của Phật giáo được chia ra làm 8 lớp học và ba cấp rõ ràng, nó là một chương trình giáo dục giảng dạy con người có vừa đủ đạo đức nhân bản – nhân quả, thiết kế xây dựng lại đời sống của con người mà mọi người không còn làm khổ cho nhau nữa, biến thế gian này thành cảnh giới Thiên Đàng, Cực Lạc ”.

Giải thích phản
bi
ện: Nói
rằng
kinh sách Phật giáo Bắc truyền được kết tập bởi những người chưa chứng đạo là
thiếu hiểu biết về sự kết tập kinh điển của cả Bắc truyền và Nam truyền. Trong Phật giáo Bắc
truyền cũng có ba cấp: Giới Định Tuệ, cũng có Tứ Đế và 8 lớp học về Tám Chánh
Đạo, cũng có 37 trợ Đạo phẩm v.v… không khác Phật giáo Nam truyền. Chúng ta cùng
theo dõi diễn tiến kết tập Kinh điển, sự phân chia các bộ phái và sự truyền Phật
pháp như sau:

 Theo dõi lịch sử Phật giáo, khoảng 100 năm
sau khi Phật nhập Niết Bàn, có sự kiện một nhóm khoảng 700 Tu sĩ ở một địa phương Bạt Kỳ
(Vajji) thuộc nước Tỳ Xá Ly (Vasali) đưa ra mười điều sửa đổi Giới của Phật, vì
họ căn cứ vào lời Phật dặn dò trước khi nhập Niết Bàn rằng “Này A Nan, từ nay trở đi Ta cho phép các Tỳ
Kheo tùy nghi bỏ các giới nhỏ nhặt, hãy lễ độ, trên dưới hòa thuận với nhau, đó
là pháp kính thuận của người xuất gia
” (xin xem Trường A Hàm, quyển 1, Kinh
Du Hành, trang 205). Nên có sự bất đồng giữa Tôn Giả trưởng lão Da Xá tuổi Hạ
120 năm (mỗi năm an cư học giáo lý trong ba tháng là một tuổi hạ) và nhóm Bạt
Kỳ.

Sau đó Tôn Giả Da Xá đến gặp Tôn giả trưởng lão Ly Bà Đa tại Ấp Ba Lợi, rồi hai vị cùng đến Bạt Kỳ lập “ hội đồng ” bàn luận gồm 8 người. Nhóm Bạt Kỳ 4 người, Tôn giả Nhất Thiết Khứ tuổi Hạ 136 năm đại diên ; nhóm Ấp Ba Lợi 4 người Tôn giả Ly Bà Đa tuổi Hạ 120 năm đại diện thay mặt. Tôn Giả Ly Bà Đa hỏi, Tôn Giả Nhất Thiết Khứ vấn đáp về mười điều sửa đổi Giới đều phạm pháp hết ; do đó những vị tu hành ở Bạt Kỳ phải tôn trọng toàn bộ những Giới Luật Phật đã đặt ra, không được sửa đổi. Mặc dù phải chấp hành Giới luật không thiếu, nhóm Bạt Kỳ thuộc học phái Thượng tọa bộ ( Sthaviravada ) tách riêng và xây dựng học phái Đại chúng bộ ( Mahasanghika ) ; tuy tách ra, nhưng nhóm này vẫn hành không thiếu theo những giáo pháp Phật dạy.

 Sau một thời gian trên mười năm, sự chia
rẽ càng trầm trọng hơn, nên Thượng Tọa Bộ
đã rời khỏi nước Ma-kiệt-đà sang nước Ca-thấp-di-la lập căn cứ hành đạo, rồi
phát triển rộng ra khắp vùng Tây-Bắc Ấnđộ. Thượng Tọa Bộ cho rằng A-la-hán tức là Phật, A-la-hán là mục tiêu cuối cùng;
trong Ba Tạng thì họ coi Kinh là chủ yếu, nhưng lại lấy Giới Luật làm nơi y chỉ.
Phe Đại Chúng Bộ thì cho rằng A-la-hán vốn bất toàn, vẫn còn nhân gian tính, chỉ
đoạn trừ kiến tư hoặc mà vẫn còn trần sa hoặc và vô minh hoặc, chưa phải là quả
vị Phật. Tình trạng xung đột ý kiến cả về giới luật lẫn giáo nghĩa
giữa hai bộ phái Thượng Tọa và Đại Chúng đã kéo dài hàng thế kỉ.

– Đến thế kỷ thứ Tư trước Dương lịch nhiều cuộc tranh biện về giáo lý Phật vẫn liên tục xảy ra giữa những học phái ; Phật giáo dưới triều đại vua A Dục vào năm 307 trước Dương lịch có kết tập Tam Tạng lần thứ hai quan trọng ( lần đầu sau khi Phật nhập diệt 3 tháng ) do 1000 Thánh Tăng đứng đầu bởi Trưởng Lão Mục Kiền Liên Tu Đế ( Moggaputta Tissa ) tại Lâm Viên thành Hoa thị, nước Ma Kiệt bằng thổ ngữ Bắc Phạn ( Sanskrit ).


Đến
thế kỷ thứ Ba trước
Dương Lịch đã có 18 học phái Phật
giáo
khác nhau được thành lập và rất
thịnh hành trên đất Ấn. Riêng Thượng Tọa Bộ phân chia thành 11 bộ phái là: Nhất Thiết Hữu Bộ, Tuyết Sơn Bộ, Độc Tử, Pháp Thượng, Hiền Trụ, Chánh Lượng, Mật Lâm Sơn, Hóa Địa, Pháp Tạng, Ẩm Quang, và Kinh Lượng Bộ. Như vậy Đại Chúng Bộ chia thành 7 bộ
phái, và tất cả đều
tự cho mình là xuất phát từ giáo lý chính thống của Đức Phật!

– Năm 240 trước Dương Lich, Tôn giả Ma Thẩn Đà đã đem giáo lý Thượng Tọa Bộ truyền sang nước Tích-lan. – Tới năm 83 cuối thể kỷ thứ Nhất trước Dương Lich, Vua Ca Ni Sắc Ca ( Kanishca ) thỉnh Hiếp Tôn giả ( Parsva ) và chọn được 500 vị Thánh Tăng là những người có đủ Tam Minh Lục Thông, tinh thông nội giáo Tam Tạng, ngoại điển không cho Ngũ Minh. Lần tập trung thứ ba này do Ngài Thế Hữu làm đệ nhất và Hiếp Tôn giả làm đệ nhị. Kết tập tại thành Ca Thấp Di La ( Kasmira ) nước Kiền Đà La, lần này bằng chữ Nam Phạn ( Pali ) ; cũng trong thế kỷ này, những kinh sách Phật được viết thành chữ Sanskrit và Pali. – Sau đó vào đầu thế kỷ thứ Nhất, Kinh sách Phật được truyền ngả Đông Bắc qua Trung Quốc, và ngả Đông Nam qua những nước Khu vực Đông Nam Á. – Phật giáo được chính thức truyền vào Nước Ta từ thế kỷ thứ Nhất và thứ Hai, nhưng có một giả thuyết cho rằng Phật giáo đã được truyền bá vào Nước Ta từ năm 111 trước Dương lịch.


Từ năm 386 Dương Lịch nhà Bắc Nguy Trung Hoaoahoa tôn Phật giáo là Quốc giáo và đồng thời Phật giáo
được lan truyền qua Triều Tiên.

– Thế kỷ thứ Năm Phật giáo Nguyên thủy ( Theravada ) được truyền bá vào Miến Điện, trong khi đó tại Trung quốc thì Phật giáo Tịnh độ thờ Đức Phật A-Di-Đà tăng trưởng mạnh. Năm 538 những nhà Sư Triều Tiên sang Nhật truyền Phật đạo. – Năm 520 Bồ-đề Đạt-ma ( Bodhidharma ) rời Ấn độ đến Trung quốc bằng đường thủy và là Tổ Thiền Tông Đông Độ. – Năm 580 : Nhà sư người Ấn Tì-ni Đa-lưu-chi ( Vinitaruci ) từ Trung quốc sang Nước Ta tu tại chùa Pháp Vân ( TP Bắc Ninh ) ; vị sư này là người tiên phong đưa Thiền học vào Nước Ta. – Thế kỷ thứ Bảy Phật giáo thuộc Đại chúng bộ được truyền đến Miến điện và Tây tạng.

– Tới thế kỷ thứ Tám người
Hồi giáo bắt đầu xâm lược và bắt đầu tiêu diệt Phật giáo Ấn độ, năm 1193: Quân Hồi giáo tràn vào Ấn, đốt phá san bằng
tất cả chùa chiền và tu viện Phật giáo và giết tăng sĩ.

Đó là nguồn gốc và diễn tiến của cả Phật giáo Bắc truyên và Nam truyền và ngoại đạo sâm hại hủy hoại Phật giáo ; xem như thế suốt mấy trăm năm Phật giáo phân hóa mới đầu có 2 phái, từ từ phân hóa tới 18 phái mà phái nào cũng cho mình là chánh. Nếu nói rằng : “ những kinh sách này được kết tập bởi những người tu hành chưa chứng đạo … ” là không có cơ sở, và nói rằng Phật giáo Bắc truyền là của Ngoại đạo là không hiểu về lịch sử dân tộc Phật giáo. Phật giáo Bắc truyền là Phật giáo tăng trưởng văn minh theo hạnh Bồ Tát, thế mà tác giả Thông Lạc nói ngược đời rằng chỉ có Phật giáo Nam truyền : “ giáo dục giảng dạy con người có vừa đủ đạo đức nhân bản – nhân quả, thiết kế xây dựng lại đời sống của con người mà mọi người không còn làm khổ cho nhau nữa, biến thế gian này thành cảnh giới Thiên Đàng, Cực Lạc ”. Xin hỏi rằng ở những nước tu theo Nam truyền từ mấy ngàn năm nay đã có nơi nào thành Thiên Đàng Cực Lạc chưa ( ? ), hay mọi người chỉ nghe đường về xứ tuyết Tây Tạng huyền bí, và mọi người chỉ nghe Thiền tông đã có vô số vị Thiền sư kiến tánh đốn ngộ mà thôi.

5. Tác giả Thông Lạc viết:

Các Thầy xa xưa người trước tu sai, người sau sai và người ngày nay cũng đều tu tập
sai hết. Tu sai mà không ai biết để chỉ chỗ mình đã sai, nên kéo dài sai nhiều
thế hệ.

Phản biện:

Đây là lời nói của Phật hoặc của bậc Đẳng giác Bồ Tát, bậc Tổ sư hay A La Hán đích thực, chứ chẳng phải của người đọc kinh Bắc truyền không hiểu nghĩa lý của kinh mà dám phán đoán chỉ trích những bậc tiền nhân tôn kính là người tu sai ; lý giải sai ý nghĩa của Kinh thì có ai tin rằng người ấy đã chứng đạt không ? Vì một bậc gọi là giác ngộ đạt đạo rồi thì đọc kinh sách đều hiểu suốt thông, ví như Lục Tổ Huệ Năng dù không biết một chữ, nhưng khi có người đọc một đoạn của cuốn Kinh xong thì Ngài giảng nghĩa lý suốt thông rõ ràng làm người nghe như uống nước cam lộ ; tại sao ? Vì lời Ngài giảng mới lạ chưa từng được nghe, người nghe Ngài nói xong trí tuệ mở mang nên vô cùng hân hoan như người khát được uống nước, như người bị bệnh được khỏi ; thế cho nên, lời chỉ trích những bậc Thánh của tác giả Thông Lạc không ai tin nổi. Chúng ta cùng đọc một đoạn trích lược trong Từ Ngữ Phật Học của Cư sĩ Hạnh Cơ về sự đả phá Phật giáo Đại Chúng Bộ ( Bắc truyền sau này ) của ngài Thế Thân ( Vasubandhu ) như sau : Trong ba đồng đội con một vị quốc sư họ Kiều-thi-ca ( Kausika ) thuộc dòng Bà-la-môn nước Kiền-đà-la ( Gandhara ), miền Tây-Bắc Ấn-độ, sống vào tầm cuối thế kỉ thứ 4 đầu thế kỉ thứ 5 DL, cùng có tên Bà Tẩu Bàn Đậu, thì người anh cả lấy biệt danh là A Tăng Già, tức Vô Trước ; người em út lấy biệt danh là Tỉ Lân Trì Bạt Bà ; chỉ có người ở giữa là không có biệt danh, mà vẫn dùng tên Bà Tẩu Bàn Đậu, tức là Thế Thân. Lúc đầu cả ba bạn bè Bà Tẩu Bàn Đậu đều xuất gia tu theo Hữu Bộ ( Nam truyền ) : Ngài Tỉ Lân Trì Bạt Bà thì ở hẳn bên Hữu Bộ, chứng quả A-lahán, không có hạnh gì đặc biệt quan trọng. Ngài Vô Trước tu một thời hạn thì chuyển hướng sang Đại chúng Bộ, sau Ngài trở thành sáng tổ của phái Du Già Hành của Phật giáo Ấn-độ. Trong khi đó, ngài Thế Thân lại đi thẳng vào Kinh Lượng Bộ ( tách ra từ Hữu Bộ ), lập chí cải tổ giáo nghĩa của Hữu Bộ, bèn sang nước Ca-thấp-di-la ( Kasmira ) để nghiên cứu và điều tra Tì Bà Sa Luận. Sau bốn năm, ngài quay trở lại bản xứ ( tức kinh thành Bố-lộ-sa-bố-la, nước Kiền-đà-la ), giảng thuyết Luận Tì Bà Sa, và sáng tác A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận ; sau đó, khi ngài Vô Trước trở về quê nhà tĩnh cư, thì ngài Thế Thân chuyển sang nước A-du-xà để hành đạo. Tại đây, không những ngài đã hăng say xiển dương giáo lí Hữu Bộ, mà còn cực lực đả kích Đại Chúng Bộ, cho rằng tầm cỡ của Đại Chúng Bộ không phải do Phật nói. Về sau, phải nhờ người anh Vô Trước dùng phương tiện đi lại khai thị, ngài mới tỉnh ngộ, chuyển sang tín phụng và hoằng dương giáo pháp Đại Chúng Bộ. Theo Bà Tẩu Bàn Đậu Pháp Sư Truyện ghi chép : Lúc bấy giờ ngài Thế Thân đang hành đạo tại nước A-du-xà, cực lực xiển dương giáo pháp Hữu Bộ và hủy báng tầm cỡ Đại Chúng Bộ ; anh của ngài là Vô Trước ( lúc đó vẫn cư trú ở quê nhà ), biết em mình là bậc trí tuệ hơn người, thông hiểu sâu rộng cả giáo nghĩa nội ngoại. Ngài sợ rằng Thế Thân sẽ phải chịu ác báo do tội hủy báng, phá hoại giáo pháp Đại chúng Bộ, nên đã cho sứ giả sang nước A-du-xà báo tin khẩn cấp cho Thế Thân, rằng ngài đang bị bệnh trầm trọng, Thế Thân hãy về gấp cho ngài được gặp mặt. Được tin báo, Thế Thân liền theo sứ giả trở về nước. Ngài vào phòng thăm anh và hỏi thăm bệnh tình, ngài Vô Trước nói : “ Anh đang bị tâm bệnh rất nặng, là do em gây ra đó ! ” Ngài sửng sốt hỏi lại : “ Vì sao tâm bệnh của anh lại do em gây ra ? ” Vô Trước nói : “ Em không tin giáo pháp Đại chúng Bộ, ngày đêm hủy báng. Do ác nghiệp này mà em sẽ vĩnh viễn trầm luân trong ác đạo, anh vì em quá lo ngại, sầu khổ ! ” Thế Thân nghe thế thì lo ngại, liền xin anh giảng cho nghe về giáo nghĩa Đại Chúng Bộ ; ngài Vô Trước liền vì em mà thuyết giảng tóm tắt những yếu nghĩa của giáo pháp Đại Chúng Bộ, ngài Thế Thân vốn là bậc trí tuệ siêu quần, nên nghe đến đâu là xâm nhập đến đấy, trọn vẹn rỗng suốt, và nhận ra rằng, giáo pháp Đại Chúng Bộ thật sự cao sâu vượt quá giáo pháp Thượng Tọa Bộ. Từ đó, ngài tôn anh làm thầy để học hỏi, ngài Vô Trước bèn đem tổng thể sở học và sở đắc của mình về giáo pháp Đại Chúng Bộ truyền dạy hết cho em. Càng xâm nhập yếu nghĩa, ngài Thế Thân càng ân hận về việc ngày trước vì quá si mê mà đã kịch liệt hủy báng Đại Chúng Bộ. Khi lòng ăn năn đã lên đến cao độ, ngài liền đến trước người anh Vô Trước để bày tỏ lòng sám hối. Để đền tội cũ, ngài nói : “ Trước kia em đã dùng cái lưỡi của mình để hủy báng giáo pháp Đại Chúng Bộ, thì ngày hôm nay em phải cắt bỏ cái lưỡi này để tạ tội ” ( ý nói muốn chết đi ). Ngài Vô Trước hấp tấp vội vàng khuyên bảo rằng : “ Dù em có cắt cả ngàn cái lưỡi cũng không thể nào diệt được tội cũ ; chi bằng, nếu ngày trước em đã dùng cái lưỡi của mình một cách khôn khéo trong việc hủy báng, thì ngày này em cũng cứ dùng chính cái lưỡi ấy của mình một cách khôn khéo để tuyên dương giáo pháp Đại Chúng Bộ ; được như thế thì tội lỗi rất lâu rồi chắc như đinh sẽ tiêu trừ hết. ” Sau đó thì ngài Vô Trước viên tịch ; và ngài Thế Thân trở lại A-du-xà để khởi đầu một chương trình mới, thật vĩ đại, chuyên việc xiển dương giáo nghĩa Đại Chúng Bộ. Ngài đã trước tác những bộ luận, đặc biệt quan trọng là về hai môn học Du Già và Duy Thức, ngài chú giải những bộ luận đã lưu hành từ trước và luận giải những tầm cỡ Đại Chúng Bộ. Tương truyền, khi còn ở Hữu Bộ Nguyên thủy, ngài đã soạn đến 500 bộ luận để tuyên dương giáo nghĩa Hữu Bộ và bài bác Đại Chúng Bộ ; và sau khi đã qui hướng rồi, ngài cũng lại soạn đến 500 bộ luận để tuyên dương giáo pháp Đại Chúng Bộ. Vì vậy, người đời đã tôn gọi ngài là vị Thiên Bộ Luận Sư. Tất cả những tác phẩm của ngài, dù thuộc khoanh vùng phạm vi Nguyên thủy ngày trước, hay thuộc khoanh vùng phạm vi Đại Chúng Bộ lúc về sau, văn nghĩa đều tinh diệu. Bất cứ ai được thấy được nghe cũng đều tin yêu và cầu học, đều lấy đó làm điển tích cơ bản cho sự học tập ; chúng nhân thuộc những bộ phái Phật giáo khác và ngay cả ngoại đạo cũng vậy, không ai nghe danh ngài mà không kính trọng. Để kết thúc cho phần này, chúng tôi trích một đoạn trong Tăng Nhất A Hàm, quyển 2, Kinh Thanh Tịnh, trang 578, Phật dạy hàng Tỳ Kheo về không tranh cãi hơn thua như sau :

“Ta đối với những pháp đó đã tự chứng ngộ, đó
là: Bốn Niệm xứ, Bôn Thần túc, Bốn Ý đoạn, Bốn Thiền, Năm Căn, Năm Lực, Bảy
Giác chi, và Tám Thánh Đạo. Vậy các Thầy phải hòa hợp với nhau một cách triệt
để, chớ có sự chê bai chỉ trích lẫn nhau, đã đồng học một thầy thì phải hòa hợp
như nước với sữa; đối với Chánh pháp của Như Lai, cần phải tự làm sáng tỏ lên,
mong được an vui. Khi đã được an vui rồi, nếu có Tỳ Kheo trong khi thuyết pháp
bị người nói rằng: “Câu nói của Ông không đúng, nghĩa lý sai lầm”.

Vị Tỳ Kheo đó nghe xong, không thể cho lời
nói đó là đúng hay không đúng, nên nói với vị kia rằng: “Thưa Thầy, điều đó thế
nào? Văn cú của tôi như vậy, văn cú của Thầy như vậy; nghĩa lý của tôi như vậy,
nghĩa lý của Thầy như vậy, bên nào tối thắng, bên nào hạ liệt?” Nếu Tỳ Kheo kia
đáp rằng: “Văn cú của tôi như vậy, nghĩa lý của tôi như vậy; văn cú của Thầy
như vậy, nghĩa lý của Thầy như vậy, văn cú của Thầy cũng tối thắng”. Người kia
nói như thế thì không nên cho là sai hay là đúng, nên can gián người kia: “Thôi
đi, đừng nên chỉ trích mà hãy cùng nhau tham khảo ý kiến, hòa hợp cùng nhau một
cách triệt để; chớ có tranh tụng vì học cùng một thầy, phải nên hòa hợp như
nước với sữa”.

 Chúng ta
thấy rằng đức Phật đã biết trước sau khi Ngài nhập Niết Bàn sẽ có đệ tử của
Phật tranh cãi đả phá nhau, chỉ trích nhau, chia bè phái, mà không chịu ngồi
lại với nhau để cùng hòa hợp tham khảo ý kiến của nhau. Do đó từ sau khi Ngài
nhập Niết Bàn đến nay, Phật giáo luôn luôn bị cái nạn giặc trong là những người
cùng Phật giáo đả phá giáo pháp của nhau vì cho giáo pháp của phe mình là đúng
của Phật, còn giáo pháp của phe khác là sai không phải của Phật, muốn phe mình
là độc quyền duy nhất. Ngày nay thì tác giả Thông Lạc đã chỉ trích đả phá Phật
giáo Bắc truyền không phải của Phật ròng rã suốt trên 10 năm nay, thế mà lại có
người phụ họa nữa cho việc tiêu diệt Phật giáo Bắc truyền thì thật là hết chỗ
nói rồi.

Còn cái nạn giặc ngoài là ngoại đạo luôn luôn sâm lấn tàn phá Phật giáo bằng đủ mọi cách mà tất cả chúng ta đã thấy, cái gần đây là có hai người mạo danh là Thiền sư, Cư sĩ ; họ đánh cắp bài viết của một vị Tu sĩ để vào sách mang nhan đề Phật giáo, rồi lồng vào trong bằng bài viết lời của Phật theo lối lý luận của tà giáo để lừa gạt Phật tử tất cả chúng ta. Đây là hành vi vô cùng xảo trá độc ác tệ hại, hoàn toàn có thể nói hành vi này của ngoại đạo giống như những con vật cắn trộm vậy đó, vì cắn trộm thì không ai biết nó căn khi nào, nó lẳng lặng đớp một cái, làm cho người bị cắn đau thấu xương tủy. Những kẻ ấy dù che dấu được với mọi người, nhưng chẳng thể giấu được tâm thức của chính họ, nên chẳng thể tránh được tội vào súc sanh, ác qủy, âm ti sau khi chết, mà chẳng có quyền lực tối cao nào cứu nổi tội của họ.

 

XIX). Tổng Kết:

Nếu nói rằng chỉ có Phật giáo Nam truyền mới là Phật giáo, còn đều là những thứ Phật giáo cải cách của ngoại đạo thì đó là phủ nhận một giá trị thực tiễn ; vì thực ra ta phải hiểu thế nào là Phật giáo. Trước hết ta phải hiểu : Phật giáo là toàn bộ những hoạt động và sinh hoạt nào nhằm mục đích bộc lộ những nguyên tắc mà đức Phật và những thế hệ Phật tử sau đó đã chứng nghiệm. Nhưng những cơ cấu tổ chức xã hội luôn luôn đổi khác theo luật vô thường nên những hình thức hoạt động và sinh hoạt gọi là Phật giáo ban đầu không còn thích hợp một cách trọn vẹn nữa ; do đó sự tạo dựng những hình thức sinh hoạt Phật giáo mới là một sự thiết yếu phải có, nếu người Phật tử không muốn cho Phật giáo bị diệt mất mà không ngoài mục tiêu là nuôi sống những nguyên tắc của Phật giáo. Do đó tất cả chúng ta thấy có Phật giáo Bắc truyền, Phật giáo Nam truyền ; mặc dầu vậy, tất cả chúng ta vẫn thấy trong Phật giáo Bắc truyền có tông phái Nam truyền, cũng như trong Phật giáo Nam truyền vẫn có tư tưởng và lối hành trì Bắc truyền. Chúng ta phải thấy rõ rằng cả bộ Nikaya tạng kinh Pali của Phật giáo Nam truyền cũng như bốn bộ A Hàm của tạng kinh Bắc truyền đều là những tầm cỡ cơ bản của Phật giáo và về nội dung có rất nhiều điểm giống như nhau. Như thế Phật giáo là tích hợp của giáo lý Nam truyền và Bắc truyền, không phân biệt thời hạn, địa phương, xóa bỏ những ý niệm hẹp hòi hình thức chủ quan thiên lệch, bằng cách hướng dẫn người Phật tử sống đúng theo những nguyên tắc cơ bản của Phật giáo, có như vậy Phật giáo mới hoàn toàn có thể sống sót nẩy nở lâu dài hơn được.

 Chúng ta cùng đọc bài nhận xét của Hòa Thượng
Thích Quảng Độ khi dịch cuốn “Nguyên Thủy Phật giáo Tư Tưởng Luận” của
Kimura Taiken
người Nhật, do Âu
Dương Hãn Tồn dịch từ Nhật ngữ sang Hán ngữ, bài nhận xét viết:

“ ( … ) Phật giáo cũng như cái cây có ba phần : phần gốc, phần thân cây và phần ngọn gồm có nhiều cành lá. Phần gốc là cơ bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo, phần cành lá là Đại Thừa Phật Giáo. Người ta không thể nào tưởng tượng được sự sống sót của một cái cây mà không có gốc nhưng nếu chỉ có gốc không thôi thì cây ấy không còn sức sống ; hoặc giả có gốc, có thân cây mà không có cành lá thì cây ấy cũng như cây trong mùa đông không khỏi gây cho người ta cái ấn tượng trơ trụi tiêu điều. Nếu phần gốc và thân cây giữ cho cái cây đứng vững, thì phần cành lá sum suê, xanh tốt là sự biểu dương cho cái sức sống mãnh liệt của hàng loạt cái cây ; hơn nữa tàn cây tươi thắm tỏa ra che rợp khoảng chừng khoảng trống có đủ sức mang lại cho người lữ hành trên con đường dài căng thẳng mệt mỏi những phút giây êm mát, tự do giữa buổi trưa hè nóng giãy. Cái cây Phật Giáo cũng thế : cả ba phần Căn Bản, Tiểu Thừa, Đại Thừa có hợp lại, bổ trợ cho nhau thì mới là cái cây Phật giáo trọn vẹn. ( … .. )

 Do
đó theo thiển kiến, quan điểm của các nhà Đại Thừa (Bồ Tát) xưa đối với các nhà
Tiểu Thừa (La Hán) cũng như những thành kiến của các nhà Tiểu Thừa đối với các
nhà Đại Thừa đều là sai lầm. Chẳng hạn quan niệm của các nhà Đại Thừa thường
cho các nhà Tiểu Thừa là hạng “tiêu
nha bại chủng
” (dứt hạt giống Phật), nghĩa là hạng người ích kỷ,
chỉ biết tìm cầu giải thoát cho riêng mình, không lo “hoằng pháp lợi sinh” để
tiếp nối cái tinh thần truyền đạo của Phật v.v… là quan niệm rất sai lầm,
hoàn toàn không đúng với sự thật lịch sử.

Khi đọc lịch sử vẻ vang truyền bá Phật pháp, không ai biết đến trường hợp Phú-lâu-na ( Punna ) : Ở mạn tây Ấn Độ thuở xưa có một địa khu gọi là Du-lâu – na ( Sunaparanta ), Phật giáo chưa được truyền đến đây và dân bản xứ thì rất hung tàn. Phú-lâu-na có dự tính qua đó truyền giáo, bèn đến xin phép Phật để đi ; Phật bảo : – “ Dân xứ Du-lâu-na dữ tợn, khó thuyết phục lắm, nếu ông đến đấy mà họ sỉ vả ông thì sao ? ” Phú-lâu-na vấn đáp : – “ Con nghĩ rằng họ vẫn là những người hiền lành, vì họ đã không dùng gậy gộc đánh đập con ”. – “ Vậy nếu họ dùng gậy gộc đánh đập ông thì ông nghĩ sao ? ” – “ Con nghĩ họ vẫn là người lương thiện vì họ đã chẳng dùng dao búa chém giết con ”. – “ Thế lỡ họ dùng dao búa chém giết ông thì ông nghĩ sao ? ” – “ Con nghĩ là họ vẫn tốt và con phải cám ơn họ vì nhờ họ mà con xả bỏ được cái thân nhơ nhớp khổ đau này ”.

 Biết
được ý chí kiên quyết và dũng cảm ấy, Phật liền tán đồng và cho phép Phú-lâu-na
đến truyền đạo tại xứ đó; ai dám bảo thái độ ấy là thái độ “độc thiện kỳ thân”, là “tiêu nha bại chủng”?

 
Đây chỉ là một trường hợp điển hình trong
vô số trường hợp khác mà ở đây chúng tôi không thể kể hết được; hơn nữa, cứ
nhìn vào tình hình Phật giáo Tiểu Thừa tại các nước như: Tích Lan, Miến Điện,
Thái Lan, v.v… Hiện nay ta cũng thấy rõ công đức truyền bá và duy trì Phật pháp
của các nhà Tiểu Thừa như thế nào rồi, đặc biệt tấm gương sáng chói của
Anagarika Dhammapala (người Tích Lan) gần đây cũng chính là tiếp nối cái tinh
thần truyền thống của những Phú-lâu-na và Mahinda (đem Phật pháp vào Tích Lan)
từ nghìn xưa vậy.
Trái lại, quan niệm của các nhà
Tiểu Thừa thường cho rằng Đại Thừa là “phi
Phật thuyết
” (Đại Thừa không phải Phật nói ra, ngụ ý là ngoại đạo),
rồi tự mãn với lối sống truyền thống của mình, tự đóng kín, không chịu tìm hiểu
các kinh điển của Đại Thừa thì quan niệm ấy nếu không là cố chấp thái quá thì
cũng là hơi hẹp hòi. Nếu bảo Đại Thừa “phi
Phật thuyết
” thì ngoài một bậc Đại giác “cùng tận chúng sinh nghiệp tính
ra, ai có được những tư tưởng siêu việt như tư tưởng trong các kinh Đại Thừa?
Rồi độc giả (nếu tôi hân hạnh có được) sẽ thấy, thế giới quan “trùng trùng duyên khởi
một kiến trúc vĩ đại, trong Hoa Nghiêm, thế giới quan “không” của Bát Nhã, tư
tưởng “chư pháp thực tướng
trong Pháp Hoa, tư tưởng “ưng
vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm
” trong kinh Kim Cương, cho đến tư tưởng
“vô trụ niết bàn”,
phiền não tức bồ-đề”,
v.v…; tất cả những tư tưởng mông mênh, bao la và thăm thẳm ấy đều đã bắt nguồn
từ tư tưởng của Phật Giáo Nguyên Thủy.
Phật pháp chỉ có một vị, đó là vị
giải thoát, nhưng phương pháp để đạt đến giải thoát thì có rất nhiều và phương
pháp nào — dù là Đại Thừa hay Tiểu Thừa cũng đều nhằm đạt đến mục đích nhất vị
kể trên. (…)”

Chúng ta cũng nên đọc qua ít hàng viết “ Nhận định về Đại Thừa Tiểu Thừa ” của Hòa Thượng Thích Minh Châu Tiến sĩ Phật học tại Ấn Độ, Viện Trưởng Đại Học Vạn Hạnh trong nhiều năm, Chủ Tịch hội đồng phiên dịch Kinh Tạng cả Nam Truyền và Bắc truyền của Nước Ta, Ngài viết : “ Đọc kỹ tiến trình tư tưởng Phật giáo, tất cả chúng ta sẽ thấy những luận sư không vị nào là không muốn diễn đạt cho thật sự trung thành với chủ giáo nghĩa nguyên thủy của đức Từ Phụ. Dầu cho sự diễn đạt đặt dưới nhiều quan điểm và góc nhìn sai khác, lồng vào những toàn cảnh hoàn toàn có thể nói là xích míc, nhưng tất cả chúng ta vẫn nhận thấy những sóng ngầm như nhau, thật sự nguyên thủy trong sự cố gắng trung thành với chủ của những nhà luận sư. Cho nên quan điểm của 1 số ít học giả Pàli cho rằng những gì ngoài ba Tạng Pàli là ngụy tạo, vừa nguy hại, vừa nông nổi nếu không phải là lỗi thời. Nguy hiểm vì tự mình phủ nhận những nỗ lực trung thành với chủ với đạo Phật nguyên thủy của những nhà luận sư, như tất cả chúng ta đã thấy quá rõ ràng trong tập sách này. Nguy hiểm hơn nữa là tất cả chúng ta phủ nhận luôn những tinh hoa đạo Phật nguyên thủy do chính những nhà luận sư khai thác và diễn đạt. Nông nổi và lỗi thời, vì ngày này những nhà học giả Phật giáo phần nhiều đều đồng ý 1 số ít tư tưởng Đại thừa là những tư tưởng của đạo Phật nguyên thủy và xác nhận chính trong tam tạng Pàli, được kiết tập trong một thời hạn một vài thế kỷ, lẽ dĩ nhiên phải có những đoạn phi nguyên thủy xen kẽ vào. Nếu có nhà học giả nào chịu khó so sánh bốn tập A Hàm với những tập Pàli Nikàya tương tự, những vị ấy sẽ thấy có nhiều đoạn văn A Hàm Trung Quốc lại nguyên thủy hơn những đoạn văn Pàli. Thái độ của 1 số ít Phật tử Đại thừa ngược lại xem những gì Tiểu thừa là thiển cận, nhỏ hẹp, không đáng học hỏi cũng là một thái độ nguy hại, nông nổi, nếu không phải là ngây thơ, phản tri thức. Nguy hiểm vì tự nhiên phủ nhận ba tạng Pàli, bốn bộ A Hàm và những luật tạng, những tinh hoa tốt đẹp nhất và nguyên thủy nhất của lời Phật dạy. Và làm vậy tất cả chúng ta mắc mưu những nhà Bà-la-môn giáo đã khôn khéo vô hiệu ra ngoài Phật giáo những tinh ba của lời Phật dạy, bằng cách gán cho danh từ ” Tiểu thừa ” ; nông nổi và ngây thơ, vì thật sự danh từ Tiểu thừa và Đại thừa không tìm được trong ba tạng Pàli và bốn bộ A Hàm và chỉ là những danh từ được tạo ra về sau. Hơn nữa, khám phá quy trình lịch sử dân tộc tư tưởng Phật giáo, tất cả chúng ta chỉ hoàn toàn có thể hiểu được tư tưởng Đại thừa sau khi tất cả chúng ta tìm hiểu và khám phá được tư tưởng nguyên thủy ; vô hiệu tư tưởng nguyên thủy để khám phá tư tưởng Đại thừa cũng như thả mồi bắt bóng, và bắt bóng ở đây là bắt bóng tà ma ngoại đạo, mới thật sự nguy hại hơn. Các nhà gọi là Đại thừa cần phải xác nhận một thực sự lịch sử dân tộc, là những nước Tiểu thừa chống giữ sự xâm nhập của ngoại đạo tà giáo kiên trì và hữu hiệu hơn những nước Đại thừa ; nguyên do chính là tư tưởng Đại thừa và tà giáo ngoại đạo nhiều khi cách xa chỉ có gang tấc, và nhiều nhà tự cho là Đại thừa lại sẵn sàng chuẩn bị bước qua biên giới ấy ”. Tiếp lời Hòa Thượng Thích Minh Châu, đây là những điều hiểu sai nghĩa Kinh như Kinh Địa Tạng, phẩm Phổ Môn Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nên một số ít người đã hành giống như ngoại đạo là bước qua biên giới rồi. Nhưng như lời Phật giảng thì chúng sinh tiến từ thấp từ từ lên cao, Đức Phật nói tùy duyên tương hỗ toàn bộ chúng sanh mọi loài từ Trời, Người, Ngạ qủy, Súc sinh cho tới Địa ngục để biểu lộ được Từ Bi Hỉ Xả. Nếu tất cả chúng ta cho rằng những việc sai lầm không hề đồng ý được, tức là tất cả chúng ta có bệnh CHẤP qúa nặng ; nếu có bệnh chấp thì tất cả chúng ta đi ngược lại lời dạy của Phật, nên tất cả chúng ta phải tùy duyên mà hành vi cho thích hợp với từng thực trạng độc lạ trong việc giáo hóa chúng sanh. Cái phải nói đến là điều tác giả Thích Thông Lạc chê bai kinh nọ kinh kia là hý luận, là luận để đi dạo thôi, không phải là của Phật giáo mà là của ngoại đạo, là lường gạt thâm độc, v.v … ; bác bỏ chê bai những Tổ sư của Bắc truyền suốt chiều dài trên 2000 năm lịch sử dân tộc Phật giáo Bắc truyền là qúa sức tưởng tượng của mọi người. Đây là không hiểu nghĩa kinh luận do thiếu tâm lý quán tưởng tư duy, không có chính kiến đưa đến tà kiến phá hoại nhục mạ Phật giáo Bắc truyền. Cũng vì lý do đó mà chúng tôi chẳng đặng đừng khi nhìn thấy sự chỉ trích sai lầm đáng tiếc, bất đắc dĩ phải lên tiếng và lý giải dài dòng cho được khá đầy đủ để bảo vệ chánh pháp của Phật, chứ chúng tôi không hề khi không có nguyên do mà tự nhiên bỏ thời giờ sức lực lao động viết ra một cách vô cớ. Nếu như tác giả Thông Lạc tìm ngay mấy người hay mấy chùa hành sai về một yếu tố nào đó để chỉ trích mà không đả phá cả mạng lưới hệ thống Kinh Tạng của Bắc truyền thì vấn đề là có quyền lợi và mọi người đều tôn trọng ; do tại dù trong giáo phái nào cũng hoàn toàn có thể có những người hiểu sai lời Phật dạy rồi làm sai, nhưng tiếc thay tác giả đã không làm như thế vì chỉ muốn dẹp bỏ mạng lưới hệ thống Phật giáo Bắc truyền, nên đã không tiếc lời chỉ trích đả phá, mà trong Phật giáo Bắc truyền có cả vị Tôn sư cũ của mình và biết bao nhiêu bạn đang tu hành nữa ! Để kết thúc, tất cả chúng ta thấy Phật giáo Bắc truyền đúng lá cành lá hoa trái sum suê của Phật giáo, Phật giáo Nam truyền là nền tảng thân cây, tuy hai mà một. Chúng ta gạt ra không khi nào dùng tới nữa những danh từ ác trong lời nói và chữ viết như “ tiểu thừa, đại thừa ” mà thay vào bằng chữ “ Nguyên thủy, Nam truyền, Nam tông, Bắc truyền, Bắc tông, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát v.v … ” cho được bình đẳng công minh. Chúng ta từ bỏ ý niệm “ Tiểu thừa tiêu nha bại chủng ”, tất cả chúng ta chấm hết thái độ cho rằng “ Đại thừa là của ngoại đạo để lường gạt dụ dỗ hăm dọa v.v … ” Chúng ta không khi nào vỗ ngực cho rằng pháp môn tu của mình là nhất, còn pháp môn tu của người khác là sai v.v … Có như vậy mới xứng danh là người con của Phật. Đến đây, người Phật tử yên tâm để liên tục những gì mình đang theo đuổi, không còn bị những nhận xét sai lầm đáng tiếc về Kinh điển Bắc truyền làm tâm tất cả chúng ta giao động nữa, không còn gì phải hoài nghi hoang mang lo lắng nữa mà vững tin vào Tam Bảo Phật Pháp Tăng, vì toàn bộ đều đã được nghiên cứu và phân tích tỉ mỉ từng điểm trắng đen. Đối với người Phật tử tất cả chúng ta dù tu hành pháp môn nào của Nam truyền hay Bắc truyền cũng đều được cả, miễn là phải nghiên cứu và điều tra khám phá kỹ càng và phải thích hợp với mình trước khi mở màn hành trì thì sẽ dễ đem lại kết qủa thoát khỏi luân hồi sinh tử đạt giải thoát. ,.

Toàn
Không

 

 

TRÍCH
DẪN THAM KHẢO
  – Kinh sách Đại thừa
không phải Phật thuyết của Trư
ởng lão THÍCH THÔNG LẠC, đăng trên mạng ngày 21-12-2012; trích NLGPD.4,
TG.2010, tr.125-132
– Kinh số 5 và Kinh Thanh Tịnh, quyển 2, thuộc bộ Tăng Nhất A Hàm. Kinh Du Hành, quyển
1, thuộc Trường A Hàm.
– Niên Biểu Phật Giáo
của Hoàng Phong.
– Từ ngữ Phật Học của
Cư Sĩ Hạnh Cơ
– Xét về Tư Tưởng Phật Giáo Nguyên Thủy Luận của HT Thích Quảng Độ. – Nhận định về “Đại
thừa, Tiểu thừa” của HT Thích Minh Châu.

 

 

LỜI
CUỐI:

 

Chúng tôi xin chân thành cảm tạ chư Tôn đức, Thiện tri thức đã viết dịch, giảng giải những Kinh Luận, tác phẩm nêu trong Trich Dẫn Tham Khảo, nhờ đó chúng tôi mới hoàn toàn có thể triển khai xong viết những lời phản biện được vừa đủ trong việc giữ gìn Pháp Bảo của TAM BẢO, và tập biên soạn này xin được góp sức toàn vẹn đến toàn bộ Phật tử trân qúy Phật pháp.

California,
USA, Phật Lịch năm 2556, ngày 28 – 12 – 2012

NAM MÔ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Toàn
Không Đỗ Đăng Tiến

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp