TT. Thích Chân Quang thuyết giảng về chủ đề “Bồ Tát với hai khuynh hướng ngược nhau” – TT. Thích Chân Quang – Thiền Tôn Phật Quang
Sáng ngày 26/03/2017 (nhằm ngày 29/02/năm Đinh Dậu), TT Thích Chân Quang – Phó ban Kinh tế Tài chánh T.Ư GHPGVN đã thuyết giảng tiếp về loạt bài Bồ Tát Đại Thừa tại khóa tu thiền chùa Từ Tân (số 90/153 – Trường Chinh – P12 – Quận Tân Bình – TP Hồ Chí Minh), với sự tham dự trên 1500 phật tử gần xa.
Được biết, như thường lệ, chiều ngày 24/03/2017 ( nhằm mục đích 27/02 AL ), tại chùa Từ Tân đã diễn ra khóa tu Thiền do HT.Thích Viên Giác kếp hợp với TT.Thích Chân Quang ( BRVT ) tổ chức triển khai hàng tháng, với sự tham gia của phần đông phật tử từ khắp những tỉnh thành hội tựu về .
Hơn 10 năm nay, khóa tu Thiền chùa Từ Tân đã trở nên quen thuộc với các phật tử yêu thích Thiền tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thành khác. Phật tử các giới đến với khóa tu ngày càng đông, nhất là giới trẻ, giới trí thức. Hơn ai hết những người yêu thích Thiền đều tận dụng thời gian cho phép của mình một cách thích hợp để cùng mọi người thực tập thiền định, thúc liễm thân tâm, dưới sự hướng dẫn của những bậc Thầy có kinh nghiệm hành thiền và phương pháp định tâm.
Tuy nhiên, thiền là cái lõi của đạo Phật, là đỉnh điểm của sự tu tập trong đạo Phật nên rất là khó. Thế nhưng khóa tu thiền tại chùa Từ Tân vẫn không thay đổi tăng trưởng trong thời hạn 15 năm nay. Mỗi khóa tu số lượng người mới tham gia học thiền giao động từ 200 – 250. Và tổng số thiền sinh tham gia trong mỗi khóa có từ 800 – 900 người .
Khóa tu được mở màn từ 18 h00 ” ngày 24/03/2017 và kết thúc vào lúc 13 h00 ” ngày 26/03/2017, với một nội dung chương trình tu học bảo vệ tính thiết thực, mang đến sự chuyển hóa nội tâm và niềm hạnh phúc cho người phật tử biết thực hành thực tế Phật pháp trong khi vẫn sống cuộc sống thông thường .
Theo chương trình, vào ngày cuối của khóa tu, TT Thích Chân Quang thuyết giảng tiếp về loạt bài Bồ Tát Đại Thừa. Đây là một chủ đề rất rộng, bàn đến quá trình tu tập, đạo hạnh và con đường giáo hóa độ sinh của các vị Bồ tát. Chủ đề được Thượng tọa phân tích hôm nay là BỒ TÁT VỚI HAI KHUYNH HƯỚNG NGƯỢC NHAU. Những khuynh hướng ngược nhau của Bồ tát chỉ là một góc rất nhỏ trong chủ đề rộng lớn này. Thực sự, cái cảnh giới, trí tuệ, sự tu chứng của Bồ tát là điều ta không hiểu nổi, bởi không thể nào lấy tâm phàm phu mà đo lòng của bậc Thánh. Và dù ta có cố gắng bắt chước thì cũng không bao giờ ta làm đúng như các vị Bồ tát hoàn toàn được, vì cảnh giới của các Ngài là cảnh giới của sự tu chứng cao siêu.
Tuy nhiên, bài Pháp thoại này đã cho tất cả chúng ta thấy được sự quyết tử vĩ đại, vì sự nghiệp giáo hóa độ sinh của những vị Bồ tát. Từ đó, mọi người hiểu được tấm lòng của những Ngài, để mở lòng mình ra biết yêu kính, ngưỡng mộ, noi gương, và bắt chước. Nhờ vậy, sau này tất cả chúng ta có cái nhân để đắc đạo, và cũng tiếp nối đuôi nhau những Ngài đi trên lộ trình hóa độ chúng sinh. Vì suy cho cùng, sau cuối tất cả chúng ta chẳng cầu gì cả, chỉ cầu một điều là tổng thể chúng sinh đều được giác ngộ giải thoát, còn mọi tiềm năng khác đều là không có ý nghĩa .
Đi vào nội dung chính, tìm hiểu và khám phá về Bồ tát, Thượng tọa sẽ lần lượt nghiên cứu và phân tích về Bồ tát với hai khuynh hướng ngược nhau là thế nào .
– Đầu tiên, Bồ tát không mong cầu điều gì, không mong đẹp, không mong giàu, không mong vẻ vang phong phú. Các Ngài sống đơn thuần, lòng thênh thang như hư vô. Tuy nhiên, trong thẳm sâu những Ngài luôn bị thôi thúc phải đi tìm sự giác ngộ tuyệt đối vô biên. Đó là hai khuynh hướng ngược nhau nhất, nhưng cùng sống sót một cách dung hòa trong một vị Bồ tát, tức KHÔNG MONG CẦU ĐIỀU GÌ, NHƯNG QUYẾT TÌM SỰ GIÁC NGỘ TUYỆT ĐỐI .
Với người phàm phu, tất cả chúng ta chỉ thú vị, chỉ đi tìm cái mà mình tưởng tượng ra được, hiểu được, ví dụ điển hình tiền tài, vật chất của trần gian. Còn với sự giác ngộ vô thượng, ta không khi nào đủ trí tuệ, đủ thôi thúc để đi tìm. Còn những vị Bồ tát khi chứng được trong bước đầu rồi thì cái lộ trình giác ngộ mở ra ngay, những Ngài biết đó là con đường mình phải đi, nhiều khi lê dài cả triệu kiếp luân hồi từ hành tinh này qua đến hành tinh kia .
Và trong hành trình dài vô lượng kiếp đó, những Ngài cứ ĐI MÃI ĐỂ TÌM SỰ TUYỆT ĐỐI, TUY NHIÊN KHÔNG HỀ HẤP TẤP. Đây cũng là hai khuynh hướng ngược nhau. Tại sao không hấp tấp vội vàng ? Bởi vì tâm không mong cầu. Với tất cả chúng ta, khi muốn tìm điều gì ta thường quyết tâm, kiên trì, phấn đấu, hấp tấp vội vàng, thậm chí còn chạy vạy để mau đạt được tiềm năng. Còn bậc Bồ tát dù xác quyết một tiềm năng rồi nhưng không hấp tấp vội vàng, mà đi trong sự thanh thản hư vô, vừa đi vừa cứu độ chúng sinh. Đây là sư khác nhau giữa Thánh và phàm phu .
Một khuynh hướng khác, Bồ tát THƯƠNG CHÚNG SINH NHƯNG TÙY THUẬN NHÂN QUẢ. Vì thương chúng sinh nên Bồ tát luôn muốn cho chúng sinh được niềm hạnh phúc, trí tuệ, bình an, được giác ngộ. Tuy nhiên những Ngài phải “ tùy thuận nhân quả ”, tức là không can thiệp vào cái giàu nghèo, vui khổ của chúng sinh, do tại chúng sinh đã gieo nhân nên họ phải trả quả giàu hay nghèo như vậy, phải khổ, phải vui … như thế. Nghe thì giống như thương mà bỏ mặc chúng sinh, tuy nhiên phải hiểu rằng đây là cái khó của Bồ tát, tức dù thương nhưng không can thiệp vào nhiều. Các Ngài chỉ biết cố gắng nỗ lực tìm nhân quả để khuyên răn, dạy bảo cho chúng sinh chứ không còn cách nào khác .
Ví dụ khi có người mắc bệnh nan y đến tìm Thầy, Thầy cũng không thể nào bán chùa đi để lấy tiền cho họ chữa bệnh, vì chùa là nơi tu hành của bao nhiêu người. Và người kia đã mang nghiệp nặng rồi, nếu còn liên tục tiêu thụ phước thì sẽ âm phước, kiếp sau đọa không lên nổi, đó là nhân quả. Vì thế, Thầy chỉ có những lời khuyên thôi, mà nếu họ thực hành thực tế thì hoàn toàn có thể chuyển nghiệp được. Chẳng hạn, với người ung thư thì nên phóng sinh, trồng rừng rất nhiều bằng chính đồng tiền của mình để kéo thọ mạng lại chút ( tức mình đang gieo sự sống thì tự nhiên sự sống của mình cứng lại không bị gãy ) ; hoặc người bị mắc những bệnh ở chân, đi lại khó khăn vất vả thì phải đắp đường cho mọi người qua lại ; người học kém thì mang khuyến mãi ngay sách vở bút viết cho học viên … Tức là khuyên dạy để họ tự kiểm soát và điều chỉnh cái nghiệp của mình, chứ không dùng thần thông phép lạ nào được. Và một trong những điều khuyên dạy quý giá nhất là đạo lý Nhân quả. Đây cũng chính là sự cứu độ chúng sinh rất lớn .
Còn thần thông phép lạ dù cao siêu cách mấy cũng không hề cứu độ chúng sinh một cách hiệu suất cao bằng sự giáo hóa. Đó là nguyên do mà khi đắc đạo rồi thì sự nghiệp chính của Phật vẫn là thuyết pháp, giáo hóa để biến hóa tâm hồn của chúng sinh .
Giống như Nhà nước. Để duy trì kỉ cương, trật tự, nhà nước có quyền triển khai giải pháp cưỡng chế, trấn áp. Tuy nhiên, thuyết phục vẫn là đối sách được ưu tiên và vận dụng trước nhất. Nếu không cảm hóa được mới dùng giải pháp cưỡng chế. Mà nhà nước nào văn minh văn minh đều có những người chuyên đi thuyết phục để đi tìm sự đồng thuận của xã hội trước ( tức là người dân thấy điều đó là hài hòa và hợp lý thì họ tự nguyện làm ) .
Thiết nghĩ, một quốc gia được sự đồng thuận như vậy là một quốc gia ấm êm niềm hạnh phúc, chứ không phải ra lệnh cấm này bắt kia. Nên vai trò của MTTQ là thuyết phục cho người dân tự nguyện làm những điều đúng pháp lý, mà vui trong việc mình làm theo chủ trương chung của nhà nước để cả quốc gia được hòa giải là vậy .
Và Bồ tát cũng là người giỏi thuyết phục, giỏi giáo hóa. Đây chính là cách để những Ngài biểu lộ tình yêu thương và giúp chúng sinh chuyển nghiệp của mình. Rất ít khi những Ngài dùng thần thông để can thiệp vào nghiệp của chúng sinh trừ trường hợp cấp bách. Và trong sự giáo hóa đó, những Ngài khôn khéo khuyên bảo, hướng dẫn, tạo thời cơ cho chúng sinh tác phước, bởi phước là yếu tố cực kỳ quan trọng trong cuộc sống, trong sự tu hành của mỗi người .
Nhớ lại câu truyện Đức Phật ngồi thiền dưới cội cây bồ đề và khi ma vương hiện ra hăm dọa quấy phá, Đức Phật đã làm gì để chống lại ? Ngài không làm gì cả, Ngài ngồi bất động. Lúc ma vương không làm gì được Phật nữa, chỉ còn biết dùng lời chửi mắng, khi ấy Phật mới nói : “ Ta có phước bảo vệ, ngươi không làm gì được ta ”. Qua câu nói này tất cả chúng ta thấy Ngài không khi nào tự nhận mình là một người tài năng hay có thần thông, Ngài chỉ tự nhận mình có phước thôi. Một câu nói đơn thuần nhưng là bài học kinh nghiệm rất lớn cho tất cả chúng ta .
Thật vậy, cũng bởi phước lớn nên ma vương không hại được Ngài và cũng bởi phước lớn nên Ngài mới đắc đạo thành Đức Phật. Và cái phước lớn đó được Phật kiến thiết xây dựng từ rất lâu bằng việc tương hỗ, giúp sức và làm quyền lợi chúng sinh chứ không phải tự có. Cũng vậy, trong việc làm, dù tất cả chúng ta có thành công xuất sắc liên tục thì khi có người đến khen, ta cũng chỉ nhã nhặn nhận rằng chắc mình nhờ phước, chắc đời trước mình đã từng làm những việc công đức nào đó, chứ không khi nào dám nhận là mình có tài .
Nên biết, bậc Bồ tát khi nhìn vào chúng sinh là nhìn nhận được cái phước ít hay nhiều nơi mỗi chúng sinh. Bồ Tát thương chúng sinh là thương cái người ít phước quá. Và những Ngài chỉ mong sao cho chúng sinh biết tạo phước rất nhiều để tự nâng cái giá trị, nâng thân phận, nâng cái tầm mức họ lên một quý phái khác. Dịp này, Thượng tọa nhắc nhở : nên nhớ, chỉ nhờ có phước cực lớn ta mới nâng quý phái mình lên thành một đẳng cấp và sang trọng khác, một loài giống mới, chứ không phải bằng cách cấy não, bỏ chíp hay học cho nhiều .
Tiếp đến, hai khuynh hướng ngược nhau của Bồ tát nữa là THA THỨ NHƯNG NGHIÊM KHẮC DẠY DỖ, chứ không phải tha thứ rồi bỏ lỡ luôn khiến họ liên tục phạm lỗi … Cái khó của Bồ tát là làm ra vẻ dữ tợn để trách phạt cho chúng sinh sợ mà dừng tay tạo tội, tuy nhiên lòng Bồ tát vẫn buông xả, bình an, yêu thương. Đây là điều rất khó làm. Ngay cả với cha mẹ dù thương con lai láng mà lúc phạt đòn con, lòng vẫn phải giận, không giận không đánh được, mà muốn đánh là phải giận. Còn Bồ tát thì tách ra hẳn, lòng không mảy may giận nhưng tay vẫn cầm roi đánh. Tức là yêu thương thì giấu kín trong lòng, còn cái thị hiện ra bên ngoài là sự nghiêm khắc. Nên biết, dạy dỗ nghiêm khắc rất giống với giận nhưng lại không phải giận. Đây là bản lĩnh của một vị Bồ tát, tất cả chúng ta cần hiểu điều này để giữ tâm mình trong đời sống. Tuy không giận, không ghét, không phẫn nộ người xấu, nhưng phải làm thế nào cho người ta đừng xấu nữa .
Thực tế trong cộng đồng nào cũng có kỷ luật, có sự thưởng phạt. Và chính hình phạt, sự căm phẫn với kẻ xấu đã góp phần ngăn chặn cái xấu lại, khiến người ta dè dặt không dám làm sai. Còn khi chúng ta tha thứ, tức là thấy người khác làm điều sai, điều xấu mà không phạt thì ta vô tình đi ngược lại sự công bằng của xã hội. Vì vậy đừng tưởng sự tha thứ trong hoàn cảnh nào cũng luôn hay, luôn đúng. Cái tha thứ cho người khác xét với bản thân mình là một đạo đức, nhưng đối với cộng đồng xã hội đó là điều mất công bằng.
Tuy nhiên, nếu ta giận, ghét người phạm lỗi thì kéo theo phiền não cho chính mình, làm mình không tu được. Hơn nữa còn kéo theo cái ác nghiệp cho chính mình. Chẳng hạn, khi nghe chuyện ông già 60 tuổi xâm hại đứa bé 6 tuổi, nhiều người đã không kiềm được sự phẫn nộ và mắng những lời thậm tệ. Nhưng trong nhân quả, khi ta ghét người có lỗi thì lập tức cái lỗi lây qua chính mình ngay. Lầm lỗi là một loại ‘ virus ’ cực kỳ dễ lây, mà thiên nhiên và môi trường để nó lây lan từ người này qua người kia chính là sự ghét bỏ. Do đó, khi nghe lỗi của ai, ta hãy nghe trong sự bình thản, không phẫn nộ, tức giận .
Và hãy nhớ rằng cái lỗi nào cũng có nguyên do của nó. Chẳng hạn với câu truyện trên, ta đặt tâm mình vào tâm người kia để hiểu tại sao ông lại phạm cái lỗi nặng nề như vậy ?
Ta thấy rằng trong quá khứ ở kiếp này và những kiếp khác tất cả chúng ta đã vô tình hay cố ý một lúc nào đó từng nói những lời bậy bạ xúc phạm thần thánh, những bậc hiền triết, những bậc đáng kính, hoặc dù không nói ra nhưng xúc phạm bằng ý nghĩ bí hiểm thì chắc như đinh người đó sẽ có ngày làm những chuyện tồi tệ nhất để cho người đời phỉ nhổ. Nhân quả là như vậy .
Và trong tất cả chúng ta ai là người chưa từng khi nào khởi ý nghĩ xúc phạm những bậc đáng kính ? Rất ít. Cho nên tổng thể tất cả chúng ta đều là những tội nhân tiềm tàng cả, bởi trong quá khứ, ở kiếp này hay những kiếp khác ta đã vô tình hay cố ý xúc phạm bậc thần thánh, bậc hiền triết nào đó rồi. Và sẽ có lúc ta làm chuyện bậy bạ để mọi người khinh thường, phỉ nhổ. Còn người nào tâm hồn thanh tịnh, không khi nào làm điều bậy, nói bậy, thậm chí còn nghĩ bậy thì chắc như đinh trong quá khứ họ đã luôn cung kính những bậc Thánh đúng mực. Vì thế, ta nghiêm khắc răn dạy để giữ sự công minh, nhưng ta tha thứ để làm gì ? Tha thứ vừa là đạo đức, vừa để ngăn ngừa cái lỗi của người khác đừng lây vào cuộc sống mình .
trái lại, ai mà biết cung kính những bậc Thánh thì tâm khi nào cũng thanh tịnh, không khi nào nghĩ hay làm những điều bậy bạ. Nhờ đó, họ cũng tránh được rất nhiều lầm lỗi trong cuộc sống .
Hai khuynh hướng ngược nhau nữa của Bồ tát là rất THƯỜNG XUYÊN TẠO PHƯỚC NHƯNG CHỈ MONG CẦU SỰ GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT, tuyệt đối không khi nào lẫn với một chút ít quả báo trần gian. Còn chúng sinh thì ngay khi làm phước, ngay khi đắp đường, bắc cầu hay công quả lao tác …, trong đầu đã phảng phất, phảng phất ý niệm mong cầu quả báo của hữu lậu trần gian như : mong mình được giàu, được đẹp, được vị thế cao sang trong vị lai. Mặc dù quả báo là sự công minh, tuy nhiên khi cầu quả báo thì tâm hồn, đạo đức của tất cả chúng ta cũng đã tan vỡ rồi .
Lại nữa, Bồ tát rất SIÊNG CỨU GIÚP CHÚNG SINH NHƯNG ÂM THẦM KHÔNG RA MẶT, ít để ai biết đến mình, miễn sao điều tốt đẹp được Viral. Các Ngài chỉ cần chúng sinh thoát được kiếp nạn, có được quyền lợi, chứ không cần mọi người biết đến sự sống sót của mình ,. Có thể, những Ngài trực tiếp ra tay hoặc xúi người khác đến giúp ta. Và hầu hết, những Ngài xúi người khác nhiều hơn để cho chúng sinh có thời cơ làm phước. Vậy nên, khi gặp việc không hay, ta thường niệm tên Bồ tát thì được trợ giúp liền. Riêng Bồ tát trên cao thì tuyệt đối giấu mặt luôn, không khi nào tất cả chúng ta biết là ta đã được cái Ngài giúp Học theo hạnh Bồ tát, tất cả chúng ta phải tích cực làm nhiều việc tốt, nhưng cố gắng nỗ lực không cần người khác biết mình nhiều là tốt. Có những trường hợp ví dụ làm để cho người khác biết thì cũng là vì nguyên do chính đáng nào đó, chứ không phải giấu trọn vẹn là hay .
Có một khuynh hướng rất lạ của Bồ tát là luôn luôn YÊU THÍCH SỰ THANH TỊNH TRONG NỘI TÂM, chính bới những vị rất thích thiền định. Khi chưa chứng thiền, ta sẽ không hiểu điều này, do đó mình ngồi thiền cũng được, không ngồi thiền cũng được. Nhưng khi chứng thiền rồi, ta sẽ thấy rất yêu quý thiền. Lúc đó tình yêu thương thiền định trở nên tự nhiên, can đảm và mạnh mẽ, không cần ai hối thúc mà cứ rảnh là ngồi thiền .
Tuy nhiên, khi tu thiền, mọi người có rất nhiều vướng mắc không ai giống ai cả. Muốn hướng dẫn thiền thì phải giải đáp được hết và đúng chuẩn từng vướng mắc của người tu thiền. Đây là điều rất khó. Vậy nên, ta cần phải cố gắng nỗ lực tham gia những khóa thiền để được ngồi thiền, được nghe quý Thầy giảng, được sống trong tình yêu thương của huynh đệ và cũng để tập trải lòng yêu thương chúng sinh. Từ đó, đạo đức của ta cũng ngày một tăng trưởng .
– Hai khuynh hướng ngược nhau nữa là Bồ tát yêu quý sự thanh tịnh trong nội tâm nhưng lại bận tâm để giáo hóa chúng sinh. Đạo đức của những Ngài là sự bận tâm làm phước dù thương mến cái thanh tịnh. Bận tâm và tĩnh tâm là hai điều ngược nhau, nhưng Bồ tát phải làm cả hai, tức vừa bận tâm mà vừa tĩnh tâm, không có một cái .
Người nào không thương mến sự tĩnh tâm, cứ thích bận tâm làm chuyện này chuyện kia dù là làm chuyện tốt thì người đó vẫn đi lệch con đường Phật đạo. Hoặc người nào yêu dấu sự tịnh tâm mà không chịu bận tâm làm những điều công đức – người này cũng không đúng với con đường của Phật đạo. Cái mà tĩnh tâm tu tập thiền định và cái bận tâm để làm công đức giúp đời, hai cái đó tưởng chừng ngược nhau, cản trở nhau nhưng thực ra, chúng lại bổ trợ, tương hỗ cho nhau .
Thật vậy, càng tĩnh tâm thì ta càng mưu trí, sáng suốt để làm công đức. Mà càng làm được nhiều công đức thì càng dễ tĩnh tâm hơn. Nếu ngày mà không làm được điều gì tốt thì đêm sẽ không thiền nổi vì tâm loạn. Đó là quy luật tự nhiên. Cho nên, ta càng yêu dấu sự tĩnh tâm trong thiền định chừng nào thì càng phải biết bận tâm mà tạo công đức chừng nấy, nhất là hóa độ chúng sinh. Hai điều này phải đi song song và làm hết kiếp này đến kiếp khác. Đó cũng là khuynh hướng của Bồ tát, cũng chính là trung đạo. Tu tập theo con đường này là ta đang làm đúng theo lời Phật dạy .
– Một khuynh hướng khác là những vị Bồ tát LUÔN GIẤU THÂN PHẬN PHI THƯỜNG. Chúng ta biết Bồ tát rất hiếm khi sử dụng thần thông để can thiệp vào nghiệp duyên của chúng sinh, trừ trường hợp cấp bách. Khi đã sử dụng để giúp đời, những Ngài rất kín kẽ chứ không lộ liễu nên không ai hay. Bồ tát cũng không nặng phần trình diễn, khi nào cũng giấu mình nên ta không biết những Ngài là ai ở giữa cuộc sống này. Thế nên, khi nào cũng phải dặn lòng mình phải cẩn trọng, phải yêu thương, tử tế với toàn bộ mọi người xung quanh. Biết đâu trong dòng người đông đúc này, bất chợt ta gặp và tiếp xúc với một vị Bồ tát mà không biết. Nếu biết cúng dường cho bậc Thánh thì ta được phước vô lượng .
Việc sử dụng thần thông của Bồ tát cũng phải tùy thuộc rất nhiều vào nhân quả. Các Ngài không khi nào sử dụng thần thông của mình để cưỡng lại nhân quả, gây hại cho chúng sinh. Khi muốn giúp sức ai đó, Bồ tát thường đem nhân quả ra để trò chuyện, giảng dạy cho họ hiểu cái nghiệp hiện tại của mình do đâu mà có, rồi rủ họ làm những công đức ( đi chùa, cúng dường, làm công quả … ). Dần dần, chính cái phước từ những việc làm đó giúp họ biến hóa cái nghiệp của mình. Cho nên Bồ tát không dùng phép lạ để đổi khác số phận chúng sinh, mà luôn luôn theo luật Nhân quả để cứu chúng sinh. Con đường đó khó khăn vất vả hơn, cực hơn, nhưng vững chắc hơn .
Một nguyên do khác khiến Bồ tát luôn giấu thân phận vì khi những Ngài hiện ra thân phận khác thường thì chúng sinh lập tức tách biệt thành hai loại ngay. Bình thường giữa trần gian con người tốt xấu lẫn lộn, người tốt không tốt lắm, người ác cũng không ác lắm. Nhưng khi một bậc Bồ tát đến với cuộc sống với uy đức vời vợi sáng ngời thì chúng sinh lập tức tách biệt thành hai hạng rõ ràng. Những người tốt, biết khởi tâm cung kính sẽ lập tức vượt lên trên ngay. Còn những chúng sinh khởi ác tâm, lỡ buông lời chê bai xúc phạm, nói xấu, lỡ đố kị, mưu hại những Ngài thì sau khi chết sẽ đọa ngay. Mà số người tốt lại quá ít nên hơn 50% chúng sinh sẽ phải chịu cái nghiệp báo xấu đó .
Nên sau khi một bậc Thánh khác thường đến với trần gian, sẽ có rất đông người lên thiên đường và rất đông người xuống âm ti. Cũng vì thương xót cho những chúng sinh hoàn toàn có thể bị đọa này mà Bồ tát không hiện ra thân phận khác thường. Tuy nhiên, có một điểm yếu kém là nếu giấu thân phận mình quá kĩ thì sẽ khó thao tác lớn. Đó là nỗi khổ tâm của Bồ tát. Cuộc đời thật bất toàn, ngay cả bậc Bồ tát siêu phàm cũng không làm hết mọi điều mình muốn được, hễ làm điều này thì phải cân đối với điều kia ; thương chúng sinh nhưng không giúp được hết vì còn có Luật Nhân Quả ; hoặc khi hiện thân phận ra thì sợ bao người khác động tâm … Do đó, làm vị Bồ tát giáo hóa chúng sinh là đang giải một bài toán vô cùng khó khăn vất vả, nên những vị Bồ tát phải rất là kiên trì, rất là mưu trí mới hoàn toàn có thể long dong trong luân hồi lục đạo để giáo hóa chúng sinh .
Cuối cùng, Thượng tọa kỳ vọng dù có khó thì những phật tử cũng cố gắng nỗ lực tu tập để chứng quả Thánh này, bởi đây là phần thưởng cho quy trình tu tập miệt mài của mọi người, có phủ nhận cũng không được. Hơn nữa, nếu chứng được quả Thánh ta mới hoàn toàn có thể trợ giúp được nhiều chúng sinh hơn, liên tục sự nghiệp giáo hóa độ sinh, và sớm giải thoát trọn vẹn .
Tóm lại, bài Pháp thoại đã giúp những phật tử thấy hết được những cái khó của một vị Bồ tát khi làm việc làm giáo hóa độ sinh. Các Ngài luôn gặp sự đối ngược trong những khuynh hướng, nhưng những Ngài phải tìm cách để dung hòa. Từ đó, Bồ tát vừa hoàn toàn có thể liên tục tu hành, vừa hoàn toàn có thể làm tốt việc làm giáo hóa độ sinh .
Hiểu được đạo hạnh của Bồ tát, chúng ta càng thêm yêu kính, quyết tâm học theo những phẩm tính của Bồ tát. Đây sẽ là ánh sáng, dẫn đắt chúng sinh tu tập cho đúng đắn, sớm chứng được quả vị Thánh, tiếp tục sự nghiệp giáo hóa độ sinh của các vị Bồ tát trên cao. Chúng ta làm được việc này chính là sự tri ân Tam bảo đúng nghĩa và thiết thực nhất, mà cũng là mục đích mà Thượng tọa Giảng sư muốn trao truyền cho mọi người qua bài giảng này./.
Tuệ Đăng
Hình ảnh buổi giáng của TT. Thích Chân Quang tại khóa thiền Từ Tân tháng 3 / 2017 :
Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp