Sự thâm nhập và phát triển của Đạo giáo ở Việt Nam
Mục lục
1. Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỉ II.
Sách Đạo giáo Tạng kinh ghi: “Sau khi vua Hán Linh đế băng hà, xã hội (Trung Hoa) rối loạn, chỉ có đất Giao Châu là yên ổn. Người phương Bắc chạy sang lánh nạn rất đông, phần nhiều là các đạo sĩ luyện phép trường sinh theo cách nhịn ăn”. Nhiều quan lại Trung Hoa sang ta cai trị đều sính phương thuật (như Cao Biền đời Đường từng lùng tìm yểm huyệt, hi vọng cắt đứt các long mạch để triệt nguồn nhân tài Việt Nam).
Trong khi Nho giáo chưa tìm được chỗ đứng ở Việt Nam thì Đạo giáo đã tìm thấy ngay những tín ngưỡng tương đương có sẵn từ lâu .
Tương truyền Hùng Vương là người giỏi pháp thuật nên có uy tín thu phục 15 bộ lập nên nước Văn Lang. Ngay các nhà sư cũng phải học các phép trị bệnh, trừ tà thì mới đưa Phật giáo thâm nhập sâu vào dân chúng vốn có tín ngưỡng ma thuật được. Do vậy mà tình hình Đạo giáo ở Việt Nam rất phức tạp, khiến cho không ít nhà nghiên cứu đã quy hết mọi tín ngưỡng cổ truyền Việt Nam cho Đạo giáo và, ngược lại, người Việt Nam sính đồng bóng, bùa chú thì lại chẳng hề biết Đạo giáo là gì.
Bạn đang đọc: Sự thâm nhập và phát triển của Đạo giáo ở Việt Nam
Đạo giáo xâm nhập vào Việt Nam cuối thế kỷ II
2. Đạo giáo là vũ khí để người dân chống lại kẻ thống trị
Vào thời kì phong kiến dân tộc bản địa ở Việt Nam, Đạo giáo thường được dùng để lôi cuốn nông dân tham gia vào những cuộc bạo động chống lại cường hào ác bá địa phương và quan lại TW : Thời Lí Nhân Tông có Lí Giác đứng đầu cuộc bạo động ở Diễn Châu ( Nghệ An ), là kẻ học được phép lạ hoàn toàn có thể “ biến cỏ cây thành nguồn ” .
Năm 1379 ( đời Trần Phế Đế ), ở Bắc Giang có Nguyên Bổ xưng vương, hiệu là Đường Lang Tử Y. Đời Hồ có Trần Đức Huy dùng phương thuật lôi cuốn phần đông người theo, bị Hồ Quý Li dẹp năm 1403 .
Thời chống Pháp, để đối phó với kẻ địch có lợi thế về súng đạn, nhiều cuộc khởi nghĩa đã tích cực sử dụng ma thuật phù thủy làm vũ khí niềm tin : Mạc Đĩnh Phúc ( cháu 18 đời nhà Mạc ) khởi nghĩa năm 1895 ở những tỉnh miền biển Bắc Bộ, tuyên truyền là mình có phép làm cho súng Pháp quay trở lại bắn Pháp .
Đạo giao là vũ khí nhân dân chống lại kẻ thống trị
Võ Trứ ( quê ở Tỉnh Bình Định ) và Trần Cao Vân ( quê ở Quảng Nam ) lãnh đạo nghĩa quân người Kinh và người Thượng đeo bùa mang cung tên, dao rựa đánh giặc. Nguyễn Hữu Trí đóng trụ sở ở núi Tà Lơn ( Nam Bộ ), tôn Phan Xích Long làm Hoàng đế, đồn rằng ông là con vua Hàm Nghi và có nhiều phép màu, nhất là phép làm cho súng địch không nổ. Rồi trào lưu lập “ hội kín ” ở Nam Kì hấp dẫn hàng vạn người tham gia …
3. Đạo Giáo theo lối tư duy cặp đôi của triết lý Âm – Dương
Bên cạnh việc thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, Thái Thượng Lão quân, thần Trấn Vũ (Huyền Vũ), Quan Thánh đế (Quan Công), thần điện của Đạo giáo phù thủy Việt Nam còn thờ nhiều vị thần thánh khác do Việt Nam xây dựng.
Xem thêm: skkn một số biện pháp chỉ đạo xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm – Tài liệu text
Trần Hưng Đạo được coi là có tài trừ tà ma cứu nạn cho dân nên được tôn là Đức Thánh Trần ; Liễu Hạnh được coi là nàng tiên có nhiều phép thần thông luôn phù hộ cho dân nên được tôn là Bà Chúa Liễu. Trong tâm thức dân gian, Thánh và Chúa luôn sóng đôi bên nhau ( Tháng 8 giỗ Cha, tháng 3 giỗ Mẹ ) – đó chính là loại sản phẩm của lối tư duy cặp đôi theo triết lí âm khí và dương khí .
Thờ đức Thánh Trần và Tam phủ, Tứ phủ thường gắn liền với đồng cốt ( đồng bóng ). Người thờ đức Thánh Trần gọi là Thanh đồng ( Ông đồng ) ; còn những Bà đồng thì thờ Tam phủ, Tứ phủ, gọi là thờ Chư vị. Lên đồng còn gọi là hầu bóng, mỗi lần người ngồi đồng được thần thánh nhập vào phán bảo hoặc chữa trị … gọi là một giá đồng. Những phụ nữ số phận long đong lận đận được khuyên là có số thờ phải đến đội bát hương ở đền hay phủ, xin làm con công đệ tử của thánh thần .
Đạo giáo theo lý thuyết Âm – Dương
4. Sự phát triển của Đạo Giáo ở Việt Nam
Tam Bành tương truyền vốn là ba bọc sừng-sỏ-sắt do một bà me quê ở Huyện Vụ Bản ( Tỉnh Nam Định ) sinh ra vào thời vua Lê Thánh Tông. Bà mẹ sợ quá đem chôn. Rồi Sừng-Sỏ-Sắt hóa thành tinh, rất rất linh và có công đánh giặc nên được vua phong là Tam Danh đại tướng âm binh. Các pháp sư thờ hình người có ba đầu gọi là Tam Danh, dần dấn đọc chệch thành Tam Bành .
Huyền Đàn là vị thần tương truyền xuất hiện vào thời Đinh, cưỡi cọp đen, múa gươm, đánh đâu thắng đó, được Ngọc Hoàng xếp vào sẽ 12 thiên tướng.
Ông Năm Dinh ( hay Ngũ Dinh quan lớn ) là thần Ngũ Hổ có sức mạnh trấn trì tà ma. Ông Năm Dinh được thờ trong điện dưới dạng bức tranh Ngũ Hổ .
Các đạo sĩ từng được nhà nước phong kiến rất là coi trọng chẳng ném gì tăng sư. Các vị qua thời Đinh, Lê, Lí, Trần đều chọn cả tăng sư lẫn đạo sĩ vào triều làm cố vấn ; bên cạnh tăng quan, có cả chức đạo quan .
Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp