Những phẩm chất cơ bản của con người việt nam trong thời đại đổi mới theo tư – Tài liệu text

Những phẩm chất cơ bản của con người việt nam trong thời đại đổi mới theo tư tưởng hồ chí minh và liên hệ xây dựng đạo đức sinh viên trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.7 KB, 14 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Năm 1986, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới, xóa bỏ chế độ
bao cấp và chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Một nền kinh
tế mở đang ngày càng tiến nhanh trong quá trình hội nhập quốc tế. Không chỉ là
một nền kinh tế mở, một xã hội mở và một nền văn hóa mở khi giao lưu với các
nền kinh tế khác, các nền văn hóa khác tự nó đã tiếp biến nhiều những hiện
tượng, những đặc điểm “ngoại lai” vào trong xã hội Việt Nam. Quá trình giao
lưu và tiếp biến ấy luôn tồn tại hai mặt, trong khi những giá trị văn minh nhân
loại được tiếp thu vào ở nước ta đã phát huy được ưu điểm của nó thì những
hiện tượng, đặc điểm không phù hợp với giá trị Việt, thậm chí là “phản giá trị”
cũng theo đó mà du nhập vào đã tác động mạnh mẽ đền giá trị đạo đức của con
người, đặc biệt là giới trẻ.
Một bộ phận của giới trẻ ấy chính là sinh viên, là những con người nhạy
cảm với những biến chuyển của thời cuộc, những biểu hiện tiêu cực của cuộc
sống, những “vi-rút văn hóa” từ bên ngoài xâm nhập vào đã tác động trực tiếp
đến nhãn quan và suy tư của họ, để rồi có những người đã lựa chọn lối sống thực
dụng, ích kỷ quên đi những giá trị đạo đức truyền thống của người Việt. Nhưng
cũng rất rất nhiều những sinh viên có lối sống lành mạnh, tương lai của họ gắn
với lợi ích của cộng đồng, trong họ vẫn nguyên những giá trị đạo đức tốt đẹp
của dân tộc. Một trong những động lực giúp họ vững vàng sống tốt và sống đẹp
đó chính là khi họ hướng mình theo lý tưởng Hồ Chí Mình, rèn mình theo tư
tưởng của Người mà đặc biệt là rèn luyện về đạo đức. Bản thân Người là hình
mẫu cho biết bao thế hệ trẻ, lý tưởng của Người là kim chỉ nam cho hành động,
cho sự rèn mình của bao người Việt, mà trong đó, sinh viên – những con người
là hiện tại, là tương lai của đất nước – cần phải ý thức sâu sắc về điều đó.
Là một sinh viên, tôi thấy được tính cấp thiết của việc học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng về đạo đức của Người, để
hoàn thiện bản thân và cùng với giới trẻ góp phần củng cố bản lĩnh văn hóa của
dân tộc. Từ nhận thức ấy, tôi quyết định chọn đề tài: “ Những phẩm chất cơ bản
của con người Việt Nam trong thời đại đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh và
liên hệ xây dựng đạo đức sinh viên trong giai đoạn hiện nay”.

Bài viết của tôi chắc chắn còn nhiều thiếu sót, vì vậy tôi rất mong có sự
đóng góp ý kiến của thầy cô và bạn bè để bổ sung nhận thức còn hạn chế và
hoàn thiện bài viết của mình hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

1

A. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của người Việt Nam trong thời
đại đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.
Trung với nước – Hiếu với dân
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi con người với đất
nước, với nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ có nội hàm lớn nhất. Trong mối
quan hệ ấy, trung, hiếu là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất. Trung, hiếu
là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và
phường Đông, song có nội dung hạn hẹp, “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”,
phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con đối với cha mẹ. Hồ Chí Minh đã
vận dụng, Hồ Chí Minh đã kế thừa những giá trị của trung và hiếu, tuy nhiên,
Người đã mở rộng nội dung của những khái niệm này. Theo đó, trung với nước
là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nước là của dân, nhân dân
làm chủ đất nước. “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân bao nhiêu lợi ích đều vì
dân”. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Trung với
nước, hiều với dân là suốt đời chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ Quốc,
vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù
nào cũng đánh thắng, Bác vừa kêu gọi hành động vừa định hường chính trị-đạo
đức cho mỗi người Việt Nam. Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh
cho Đảng, cho Cách mạng, đó là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải
tuyệt đối chung thành với Đảng, với dân, phải tận trung, tận hiếu, thì mới xừng

đáng vừa là đầy tớ chung thành, vừa là người lãnh đạo của dân; dân là đối tượng
để phục vụ hết lòng. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dâm tâm, cải thiện dân
sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất
nước.
Nội dung chủ yếu của trung với nước là:
Đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết.
Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng.
Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nội dung của hiếu với dân là:
– Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân
– Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng
thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
– Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
2.
Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư
Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng
suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỉ lại,
2

không dựa dẫm. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh
phúc của con người.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của nhân
dân, của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; “Không
xa sỉ, không hoang phí, không bừa bãi,”
Liêm là “ luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công, của dân; không xâm phạm
một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”. Phải trong sạch, không
tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ có
một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm là:
cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc ăn trộm của công làm của riêng.

Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải,
mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham úy lạo. Khổng Từ từng nói
đại ý rằng: người mà không liêm, không bằng súc vật. Mạnh Từ lại nói: ai cũng
tham lợi thì nước sẽ nguy.
Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ,
luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở. Đối với người,
không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành,
khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc, để việc công lên trên
việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại khó, nguy hiểm, cố gắng
làm việc tốt cho dân cho nước. Cần, kiệm, liêm, chính cần thiết đối với tất cả
mọi người. Hồ Chí Minh từng viết: “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc; Người có bốn đức: Cần, Kiệm,
Liêm, Chính; Thiếu một mùa thì không thành trời; Thiếu một phương thì không
thành đất; Thiếu một đức thì không thành người”.
Cần, kiệm, liêm, chính rất cần thiết đối với người cán bộ, đảng viên. Nếu
đảng viên mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng lớn đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của
cách mạng. Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững
mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc. “Nó” là cái cần để “làm việc, làm
người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng
sự Tổ quốc và nhân loại”. Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau
và với chí công, vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược
lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực
hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
3.
Yêu thương con người
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân
nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại
3

qua nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu
thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Tình yêu rộng lớn dành
cho người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Hồ Chí Minh chỉ
ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân tự do, mỗi người ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có tình yêu thương con người
bao la đến như vậy mới có cách mang, mới nói đến CNXH và CNCS. Nghiêm
khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả những ai có
sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi
con người. Bác căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, trên
nguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành. Tình yêu thương con người còn
là tình yêu bạn bè, đồng chí, có thái độ tôn trọng con người, điều này có ý nghĩa
đối với người lãnh đạo.
4.
Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung.
Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là
tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước.
Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ
trên thế giới vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết là nhằm vào mục
tiêu lớn của thời đại hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Quan điểm đạo đức về tình đoàn kết trong sáng của Hồ Chí Minh thể hiện
trong các quan điểm sau: Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu
chung đấu tranh giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột. Đoàn kết quốc tế
giữa những người vô sản toàn thế giới vì mục tiêu chung, “ Bốn phương vô sản
đều là anh em”. Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã
hội. Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước
chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của
chủ nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thì dân tộc.

B. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc rèn luyện đạo đức cho
sinh viên hiện nay.

1. Thực trạng đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay.
1.1 Những nét đẹp trong đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay.
Chúng ta có thể khẳng định một nét đẹp rất riêng trong phẩm chất đạo đức
sinh viên Việt Nam đó là nét đẹp đạo đức truyền thống: cần cù lao động, ham
học hỏi và có tinh thần đoàn kết tương thân tương ái. Được lớn lên trong cái nôi
4

văn hóa Việt, những người mẹ người bà người chị bằng những lời hát ru ngọt
ngào dăn dạy nên người, dạy con biết yêu làng, yêu xóm, yêu quê hương, yêu
Tổ quốc, lòng hiếu thảo, thờ mẹ kính cha, kính trên nhường dưới…“ Công cha
như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, Một lòng thờ mẹ,
kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Những lời hát ru ấy có chức năng
giáo dục thẩm mỹ to lớn, góp phần hình thành, nuôi dưỡng và phát huy nhân
cách, năng khiếu tâm hồn, kể cả thái độ ứng xử của con người từ khi còn bé.
Những mảnh đất tinh thần đã hình thành nên những những bạn trẻ Việt Nam
(sinh viên) biết yêu thương, cảm thông chia sẻ với cộng đồng, với những người
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn thông qua các phong trào tình nguyện, các cuộc
vận động quyên góp, hiến máu nhân đạo…
Tinh thần ham học hỏi, vượt khó học tốt đã giúp nhiều bạn sinh viên đạt
được thành tích cao trong học tập. Có rất nhiều sinh viên Việt Nam đạt giải
thưởng cao trong các kỳ thi Olympic quốc tế, không những khẳng định năng lực
của chính các bạn mà còn góp phần củng cố vị thế của nước nhà với bạn bè quốc
tế. Đặc biệt trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập, sinh viên Việt Nam ngày càng
tỏ ra năng động và hòa nhập với xu thế chung của thế giới. Với khả năng thích
ứng và nhanh nhạy, các bạn sinh viên nhanh chóng trang bị cho mình những
kiến thức, kỹ năng phù hợp với thời đại công nghệ thông tin hiện nay. Ngoài ra
xu thế toàn cầu hóa cũng tạo ra sự đồng nhất tương đối giữa quan niệm đạo đức
và quy tắc ứng xử của một cộng đồng (sinh viên Việt Nam) với các quan niệm
đạo đức và quy tắc ứng xử chung mang tính quốc tế. Với đặc điểm là trẻ, có tri

thức, dễ tiếp thu cái mới, lại được trang bị ngoại ngữ tin học với sự hỗ trợ của
các phương tiện thông tin hiện đại và việc mở rộng,đa dạng hóa tiến trình giao
lưu quốc tế, sinh viên ngày nay đã hòa kịp với dòng chảy của quá trình hội nhập.
Điều đó tạo ra sự xích lại gần nhau các giá trị đạo đức trong một tinh thần cảm
thông cởi mở. Các quan niệm đạo đức sinh viên Việt Nam bên cạnh những cái
triêng của mình còn xuất hiện những cái chung hòa nhập với thế giới, trên cơ sở
thống nhất những quy tắc đạo đức chung của con người vừa giữ được truyền
thống tốt đẹp của dân tộc nói chung, đạo đức sinh viên Việt Nam nói riêng. Bên
cạnh những nét đẹp đạo đức ấy, một bộ phận không nhỏ các bạn sinh viên đang
có những biểu hiện suy thoái về đạo đức, chạy theo lối sống thực dụng, sống
buông thả..đang là vấn đề quan tâm và đáng lo ngại của xã hội.
1.2. Những biểu hiện tiêu cực trong đạo đức Sinh viên Việt Nam hiện
nay.
5

Thanh niên ngày nay là lớp người sinh ra và trưởng thanh sau chiến tranh,
được sống trong những điều kiện vật chất và tinh thần đầy đủ hơn, tuy rất nhạy
cảm với cái mới, được đào tạo bài bản, có tri thức, nhưng vốn sống và sự từng
trải chưa nhiều trước những tiêu cực và cám dỗ của nền kinh tế thị trường, trước
những biến đổi về chính trị quốc tế, đặc biệt do ảnh hưởng tiêu cực của sự suy
thoái đạo đức biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nên một
bộ phận thanh niên ( trong đó có sinh viên ) có sự dao động, khủng hoảng lòng
tin, lý tưởng cách mạng. Đặc biệt trong bối cảnh thế giới hiện nay, âm mưu “
Diễn biến hòa bình”, luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác- lênin, cũng như chống
lại chế độ XHCN, một bộ phận sinh viên Việt Nam lại xa rời chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sống không có lý tưởng, hoài bão. Hầu hết các
bạn sinh viên không nhận thức đúng đắn việc học tập các môn lý luận chính trị,
học một cách chống đối, và không hề vận dụng vào thực tế, tham gia một cách
bị động, mang tính hình thức vào cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Xu thế toàn cầu hóa cũng đã có tác động không nhỏ tới đạo đức bộ phận
sinh viên hiện nay. Tác động tiêu cực rõ nét nhất là biểu hiện thực dụng trong
quan niệm đạo đức và cách ứng xử của một bộ phận sinh viên, trào lưu dân chủ
hóa, làn sóng công nghệ thông tin và việc nâng cao dân trí đã làm ý thức cá nhân
tăng lên. Họ có ý thức cao về bản thân mình và muốn thể hiện vai trò cá nhân.
Tuy nhiên cái cá nhân nhiều khi lấn át cái cộng đồng, họ coi lợi ích cá nhân
quan trọng hơn tất cả. Do vậy hình thành một thái độ bàng quan với những
người xung quanh, cho dù các phong trào tình nguyện gần đây được phát động
khá rầm rộ trong sinh viên, nhằm giáo dục tuyên truyền tinh thần vì cộng đồng.
Sự hy sinh và quan tâm đến người khác thấp đi và nếu có thì thường đánh giá
dưới góc độ kinh tế thực dụng hơn là tình cảm và sự chia sẻ. Hy sinh và quan
tâm đến người khác, không gì ngoài vấn đề là việc làm đó đưa lại lợi ích gì cho
chính mình. Sự du nhập của các luồng văn hóa ngoại lai đã làm không ít sinh
viên xa rời giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp vốn vẫn đang phù hợp với thời
kỳ hiện đại. Hình thành tư tưởng hưởng thụ ăn chơi, đua đòi, chịu tác động của
tệ nạn xã hội, bị dao động về mặt định hướng đạo đức và lối sống trong bối cảnh
một nền kinh tế, xã hội mở cửa. Năm 2004, chỉ có 600 học sinh, sinh viên
nghiện ma túy thì đến năm 2007, con số này đã ở mức 1.234 học sinh, sinh viên.
Những năm gần đây số vụ sinh viên phạm pháp hoặc kỷ luật mỗi năm một tăng.
Theo thống kê chưa đầy đủ của Bộ GD – ĐT, giai đoạn từ năm 2003 – 2007, số
6

sinh viên phạm tội hình sự là 27 sinh viên, bị bắt giữ liên quan đến các vụ khác
là 77 sinh viên, 126 sinh viên bị buộc thôi học và 2.533 sinh viên vi phạm quy
chế nhà trường.
Đặc biệt hiện tượng “sống thử”, quan hệ trước hôn nhân đang đi ngược
với đạo đức truyền thống của dân tộc ta, biểu hiện một lối sống đạo đức suy
thoái, buông thả…đang trở thành một “vấn nạn”của xã hội. Theo số liệu thống
kê của Bộ Y tế, hàng năm ở nước ta có 14.000 ca nạo phá thai ở tuổi vị thành

niên (chiếm 10% số người nạo phá thai). Một cuộc điều tra khảo sát tại 30
trường ĐH – CĐ trong cả nước của Vụ Văn hóa (ban Tuyên giáo trung ương)
phối hợp với Vụ Công tác HS – SV (Bộ Giáo Dục Đào tạo) cũng cho con số
đáng lo ngại: 51,4% sinh viên cho rằng “ sống thử trước hôn nhân là hiện tượng
khá phổ biến”. 67% sinh viên được hỏi cho rằng sinh viên hiện nay có biểu hiện
chạy theo lối sống thực dụng, 31,2% cho rằng sinh viên hiện nay chưa có khát
vọng cao về lập thân, lập nghiệp vì tương lai, 21.8% cho là sinh viên có biểu
hiện mờ nhạt về hoài bão và lý tưởng…
Hiện tượng không trung thực trong thi cử đã và đang diễn ra khá phổ biến
ở các trường Đại Học – Cao đẳng, thậm chí nhiều sinh viên cho rằng việc sao
chép, copy tài liệu là một hành vi phi đạo đức, coi là chuyện bình thường. Nhiều
sinh viên đi thuê làm khóa luận, đồ án tốt nghiệp hoặc đi thi hộ trong kỳ thi
tuyển sinh vào đại học và cao đẳng. Hiện tượng mua bằng bán điểm, học giả
bằng thật không còn là chuyện hiếm thấy. Điều đó không những thể hiện phẩm
chất đạo đức quá kém của sinh viên mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng
giáo dục của nước ta. Phẩm chất đạo đức của một sinh viên, một thế hệ trẻ, có tri
thức không những thể hiện trong môi trường học đường mà còn ở ngoài xã hội,
thể hiện rõ nét nhất ở từng hành động giản đơn nhất như xếp hàng lên xe bus,
vứt rác đúng nơi quy định,… Thế nhưng, thay vì đó, hình ảnh chen lấn xô đẩy
nhau để lên xe bus, vứt rác bừa bãi nơi công cộng hay vượt đèn đỏ… lại thường
xuyên diễn ra ở hầu hết các bạn sinh viên? Vậy hình ảnh một người có học thức,
được học hành, có đạo đức được thể hiện ở đâu? Không kể đến những lời ăn
tiếng nói hằng ngày, những phép lịch sự tối thiểu đôi khi các bạn sinh viên cũng
coi thường và bị động. Theo thống kê cho thấy trong một cuộc điều tra 874 sinh
viên các trường Đại học TP.HCM thì thật bất ngờ về hành vi đạo đức của sinh
viên: 45% sinh viên chủ động tham gia đóng góp theo sức mình và vận động
mọi người cùng tham gia khi đồng bào bị thiên tai, lũ lụt, tai nạn; 42% sinh viên
có biểu hiện một chút e thẹn và nói lời cảm ơn khi nhận được một lời khen; 41%
7

sinh viên vẫn cố gắng nghiêm túc thi cử khi gặp giám thị coi thi có vẻ dễ tính;
29% sinh viên có hành vi nhặt rác bỏ vào thùng rác khi thấy một người chạy xe
phía trước quăng bọc rác xuống đường; 41% sinh viên đồng ý không nhất thiết
phải sống cao thượng vì đôi khi cao thượng lại là mù quáng, 36% đồng ý làm
việc theo lương tâm sẽ bị thua thiệt và 28% có tư tưởng trả thù, báo oán.
Vậy có thể thấy rằng sự lựa chọn các giá trị đạo đức của sinh viên chưa rõ
ràng. Một số giá trị đạo đức chưa được sinh viên lựa chọn để định hướng cho lối
sống của mình. Các nhà chuyên gia, nhà khoa học tâm lý giáo dục đã nêu lên 3
nguyên nhân chủ yếu: Thứ nhất là sự buông lỏng quản lý giáo dục con cái của
gia đình. Thứ hai việc giáo dục đạo đức trong nhà trường từ bậc phổ thông đến
đại học còn nhiều bất ổn. Các chương trình giáo dục đạo đức còn nặng lý thuyết,
nhẹ giáo dục kỹ năng sống. Thứ ba là tác động của nền kinh tế nhà trường, sự
hội nhập các nền văn hóa và sự hấp dẫn của đời sống đô thị, lối sống phương
Tây quá đã làm cho các giá trị truyền thống bị xâm hại và mai mọt dần. Từ
những nguyên nhân trên ta thấy điều cần thiết là cần có sự giáo dục đạo đức, lý
tưởng, lối sống cho sinh viên thông qua vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội tạo môi
trường thuận lợi để giáo dục một cách đúng mức cho thế hệ trẻ.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc rèn luyện đạo đức cho
sinh viên hiện nay.
Tháng 1/1946 trong thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã viết: “ Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ
tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội’’ Là một lãnh tụ vĩ đại, có tầm nhìn xa
trông rộng hơn ai hết Người thấu hiểu vai trò vô cùng to lớn của lực lượng thanh
niên trong sự nghiệp cách mạng, trong công cuộc bảo vệ, xây dựng, kiến thiết
nước nhà. Để phát huy vai trò và sức mạnh của tuổi trẻ đặc biệt là tầng lớp sinh
viên, trước những biểu hiện suy thoái đạo đức trong giới trẻ nói chung và sinh
viên nói riêng thì phải tiến hành giáo dục một cách sâu sắc và toàn diện.
Trong công cuộc giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ cho đất nước, Hồ Chí

Minh nhấn mạnh đến nguyên tắc giáo dục toàn diện. Người cho rằng: “Nhà
nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về đức dục, trí dục và thể dục”.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh thanh niên là người chủ của nước nhà, vì vậy ngay
từ hiện tại, “…thanh niên phải chuẩn bị làm người chủ nước nhà. Muốn thế phải
ra sức học tập, chính trị, kỹ thuật văn hóa, trước hết phải rèn luyện và thấm
8

nhuần tư tưởng XHCN, gột rửa cá nhân chủ nghĩa”. Như vậy trước hết mỗi sinh
viên cần phải trang bị cho mình vũ khí lý luận sắc bén, thấm nhuần tư tưởng của
Người, chủ nghĩa Mác – Lênin để có thể kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng
và Nhà nước ta đó là tiến lên xã hội XHCN, chống lại những luận điệu xuyên tạc
Chủ nghĩa Mác – Lênin, chống lại chế độ XHCN, âm mưu “ Diễn biến hòa
bình”.
Vấn đề đặt lên hàng đầu trong giáo dục đạo đức đó là tinh thần yêu nước,
“Trung với nước, hiếu với dân”, và mỗi thế hệ gắn với mỗi thời đại khác nhau
đều có cách biểu hiện lòng yêu nước khác nhau. Nếu như trong thời chiến, ông
cha ta đã hy sinh bằng xương máu để giành độc lập dân tộc, để thể hiện lòng yêu
nước nồng nàn sâu sắc, thì ngày nay mỗi sinh viên chúng ta hãy thể hiện lòng
yêu nước bằng sự cố gắng nỗ lực học tập, trau dồi kiến thức, tiếp thu những tri
thức nhân loại, những khoa học kỹ thuật hiện đại và vận dụng cống hiến vào
công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng việc
giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. Người chỉ rõ: “ Thanh niên phải
luôn luôn rèn luyện đạo đức cách mạng”. Trọn đời trung thành với sự nghiệp
cách mạng, với Tổ quốc, với Đảng. Dũng cảm không sợ khó không sợ khổ, thực
hiện : “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”, “gian khổ thì đi trước,
hưởng thụ sau mọi người”.
“Một cây làm chẳng nên non, Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” .Và muốn
thực hiện được điều đó phải biết đoàn kết các cá nhân trong một dân tộc trên
tinh thần tương thân tương ái, thương yêu đồng loại. Các phong trào thanh niên

tình nguyện, hiến máu cứu người, mùa hè xanh, giúp đỡ trẻ mồ côi, những người
có hoàn cảnh khó khăn…là cơ hội cho các bạn sinh viên thể hiện tinh thần đó.
Những hành động vô cùng nhỏ bé như giúp một cụ già sang đường, hay quyên
góp những nạn nhân thiên tai lũ lụt… cũng đã thể hiện tình yêu thương con
người – một phẩm chất cao quý của con người Việt Nam.
Mặc dù đất nước ta đã thoát khỏi chiến tranh xong những hậu quả, tàn dư
của nó vẫn còn đó. Với tư cách là người chủ đất nước, mỗi sinh viên cần phải
thực hiện nhiệm vụ cao cả nhưng cũng rất nặng nề đó là bảo vệ nền hòa bình và
xây dựng đất nước ngày một giàu đẹp, công bằng, dân chủ và văn minh. Thực
hiện lời dạy của Bác “ cần, kiệm, liêm, chính chí công vô tư”, mỗi sinh viên
phải cần cù học tập, lao động, không ỷ lại, dựa dẫm, học bằng chính sức lực của
mình, trung thực trong thi cử, lên án những hành vi hối lộ, học hộ, thi hộ, mua
điểm,… Tiết kiệm, không hoang phí xa xỉ, sống xa hoa, buông thả… Thói quen
9

đua đòi, hưởng lạc chạy theo những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội đang làm hư
hỏng một số sinh viên vốn không tự giác học tập rèn luyện. Họ đang sa vào một
cuộc sống thiếu lý tưởng, không có niềm tin, không có định hướng một cách
đúng đắn. Tuổi trẻ Việt Nam “ có lối sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân
nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ
và cải thiện môi trường sinh thái” ( T.Ư 5, khóa VIII). Mỗi sinh viên cần đấu
tranh, không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, với các tệ nạn xã hội, xây dựng
lối sống lành mạnh và sống có lý tưởng có trách nhiệm với chính mình và mọi
người. Thêm vào đó, mỗi hành động bảo vệ môi trường, ý thức tự giác nơi công
cộng là đều là những hành động cao đẹp và tôn vinh nét đẹp trong đạo đức thế
hệ sinh viên – tầng lớp có tri thức trong xã hội. Vì vậy sinh viên cần tham gia
tích cực các phong trào trồng cây xanh, thu gom rác thải, bảo vệ môi trường
xanh sạch đẹp, nêu cao ý thức tự giác nơi công cộng…
Mỗi quốc gia, dân tộc dù lớn hay nhỏ dù phát triển hay kém phát triển thì

đều cùng thở trong một bầu khí quyển, và cùng chung một nguồn gốc lịch sử, và
để tồn tại và phát triển thì tất yếu phải hợp tác, đoàn kết với nhau. Vậy mỗi cá
nhân cần nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng, tinh thần quốc tế vô sản. Trong
bối cảnh ngày nay, mỗi sinh viên chúng ta có sự hỗ trợ của các phương tiện
công nghệ thông tin hiện đại, khoảng cách không gian được thu hẹp hơn, do vậy
cần phải trang bị ngoại ngữ thật tốt chủ động giao lưu học hỏi, chủ động hội
nhập, hợp tác với các bạn quốc tế. Tham gia, ủng hộ các chương trình bảo vệ
môi trường “ giờ trái đất ”, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, chống phân biệt chủng
tộc, màu da, tôn giáo…

KẾT LUẬN

Có thể thấy tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm
nay và cho mãi về sau. Tư tưởng của người là cuốn sách quí cho những ai ham
học hỏi, trọng sự rèn luyện bản thân. Rèn luyện bản thân về đạo đức là sự rèn
luyện quan trọng không kém, thậm chí là quan trọng hơn việc rèn luyện thành
tài, bởi đúng như người nói: “Có tài mà không có đức là người vô dụng”.
10

Sinh viên chính là lực lượng tiêu biểu nhất cho sự rèn luyện thành tài. Họ
chính là những người đang tiếp thu những tri thức, những tiến bộ của văn minh
nhân loại. Nhưng một nhân tài cũng trở thành vô dụng nếu như cái tài ấy không
mang lại lợi ích cho cộng đồng. Như vậy, cùng với quá trình “luyện tài”, sinh
viên phải luôn “rèn đức”.
Rèn đức là một quá trình lâu dài, thường xuyên. Đó là quá trình của mỗi
cá nhân nhưng lại liên quan mật thiết đền đời sống xã hội. Rèn mình sao cho
không đi ngược với chuẩn mực đạo đức của xã hôi, rèn mình để làm đẹp thêm
giá trị đạo đức của dân tộc. Có nhiều cách để tu dưỡng đạo đức. Đó là quá trình
của mỗi cá nhân nhưng cũng là quá trình xã hội, trong đó có trách nhiệm của gia

đình, của nhà trường của cả cộng đồng. Nhưng có một cuốn sách quí, một tấm
gương sáng mà sinh viên nên hướng theo, đó chính là hình mẫu đạo đức Hồ Chí
Minh, đó chính là tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Sinh viên phải là người đi đầu và hoàn thiện bản thân, vận dụng sáng tạo
tư tưởng của Hồ Chí Minh, thường xuyên học tập, tu dưỡng rèn luyện về mọi
mặt trở thành lực lượng tích cực nhất, đóng góp công sức, trí tuệ để xây dựng
nước ta ngày càng “giàu mạnh, văn minh” như lời Bác Hồ hằng mong muốn.

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………………………
1

11

A, Những phẩm chất đạo đức cơ bản của người Việt Nam trong thời đại đổi mới
theo tư tưởng Hồ Chí Minh……………………………………………………………………………..
2
1.Trung
với
nước,
hiếu
với
dân
……………………………………………………………………………………………………………
2
2.Cần,
kiệm,
liêm,
chính,

chí
công


……………………………………………………………………………………………………………
3
3.Yêu
thương
con
người
……………………………………………………………………………………………………………
4
4.
Tinh
thần
quốc
tế
trong
sáng
thủy
chung
……………………………………………………………………………………………………………
4
B, Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc rèn luyện đạo đức cho sinh viên
hiện nay…………………………………………………………………………………………………………
5
1.Thực trạng đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay
………………………………………………………………………………………………………..
5
1.1.Những nét đẹp trong đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay

………………………………………………………………………………………………………..
5
1.2.Những biểu hiện tiêu cực trong đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay
………………………………………………………………………………………………………..
5
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc rèn luyện đạo đức cho sinh
viên
hiện
nay
………………………………………………………………………………………………………..
8
12

KẾT LUẬN…………………………………………………………………………………………………..
11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà

Nội 2005.
2.

Bài viết “Tác động của toàn cầu hóa tới đạo đức sinh viên hiện nay” tác

giả Võ Minh Tuấn đăng trên trang:
http://www.chungta.com.vn/Destop.aspx/ChungTa-Suyngam/Dao-duc/tacdong-toan-cau-hoa-den-dao-duc-sinh-vien/

3.

“Nghiên cứu về đạo đức của sinh viên: 41% sinh viên không thích sống

cao thượng” – Trương Hiệu đăng trên trang:
http:// phapluattp.vn/258611p1015c1074/nghien-cuu-ve-hanh-vi-dao-duc-cuasv-41nbspsv-khong-thich-songnbspcao-thuong.htm)
4.

“Sinh viên dính “tệ nạn” đâu là nguyên nhân?” theo Nguyễn Đức Tuấn

lấy từ trang web:
http://dantri.com.vn/c135/s135-231435/sinh-vien-dinh-te-nan-dau-la-nguyennhan.htm.
5. “Thiếu nữ – đại gia. Đạo đức và lối sống” – C.A Huệ.
http://www.toquoc.gov.vn/Thongtin/Goc-Nhin/Thieu-Nu-Dai-Gia-Dao-DucVa-Loi-Song.html
6. “Giáo dục lý tưởng sống cho thế hệ trẻ ngày nay” – Trần Thông
http://tieuhocdanghai.com/news/?iid=4469

13

14

Bài viết của tôi chắc như đinh còn nhiều thiếu sót, thế cho nên tôi rất mong có sựđóng góp quan điểm của thầy cô và bè bạn để bổ trợ nhận thức còn hạn chế vàhoàn thiện bài viết của mình hơn. Xin chân thành cảm ơn ! A. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của người Việt Nam trong thờiđại thay đổi theo tư tưởng Hồ Chí Minh. 1. Trung với nước – Hiếu với dânTrong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi con người với đấtnước, với nhân dân, với dân tộc bản địa là mối quan hệ có nội hàm lớn nhất. Trong mốiquan hệ ấy, trung, hiếu là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất. Trung, hiếulà những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống lịch sử Việt Nam vàphường Đông, tuy nhiên có nội dung hạn hẹp, “ Trung với vua, hiếu với cha mẹ ”, phản ánh bổn phận của dân so với vua, con so với cha mẹ. Hồ Chí Minh đãvận dụng, Hồ Chí Minh đã thừa kế những giá trị của trung và hiếu, tuy nhiên, Người đã lan rộng ra nội dung của những khái niệm này. Theo đó, trung với nướclà trung thành với chủ với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nước là của dân, nhân dânlàm chủ quốc gia. “ Bao nhiêu quyền hạn đều của dân bao nhiêu quyền lợi đều vìdân ”. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng số 1. Trung vớinước, hiều với dân là suốt đời chiến đấu quyết tử vì độc lập tự do của Tổ Quốc, vì CNXH, trách nhiệm nào cũng hoàn thành xong, khó khăn vất vả nào cũng vượt qua, kẻ thùnào cũng đánh thắng, Bác vừa lôi kéo hành vi vừa định hường chính trị-đạođức cho mỗi người Việt Nam. Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranhcho Đảng, cho Cách mạng, đó là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phảituyệt đối chung thành với Đảng, với dân, phải tận trung, tận hiếu, thì mới xừngđáng vừa là nô lệ chung thành, vừa là người chỉ huy của dân ; dân là đối tượngđể ship hàng hết lòng. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dâm tâm, cải tổ dânsinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và nghĩa vụ và trách nhiệm của người chủ đấtnước. Nội dung đa phần của trung với nước là : Đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết. Quyết tâm phấn đấu triển khai tiềm năng của cách mạng. Thực hiện tốt chủ trương, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Nội dung của hiếu với dân là : – Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân – Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức triển khai hoạt động nhân dân cùngthực hiện tốt đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước. – Chăm lo đến đời sống vật chất và niềm tin của nhân dân. 2. Cần kiệm liêm chính, chí công vô tưCần là lao động chịu khó, siêng năng, lao động có kế hoạch, phát minh sáng tạo năngsuất cao ; lao động với niềm tin tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỉ lại, không lệ thuộc. Lao động là nghĩa vụ và trách nhiệm thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnhphúc của con người. Kiệm là tiết kiệm chi phí sức lao động, tiết kiệm chi phí thì giờ, tiết kiệm chi phí tiền của nhândân, của quốc gia, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to ; “ Khôngxa sỉ, không hoang phí, không bừa bãi, ” Liêm là “ luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công, của dân ; không xâm phạmmột đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân ”. Phải trong sáng, khôngtham lam vị thế, tiền của, nổi tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ cómột thứ ham là ham học, ham làm, ham văn minh. Hành vi trái với chữ liêm là : cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc ăn trộm của công làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ vị thế và khét tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy khốn, không dám làm là tham úy lạo. Khổng Từ từng nóiđại ý rằng : người mà không liêm, không bằng súc vật. Mạnh Từ lại nói : ai cũngtham lợi thì nước sẽ nguy. Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tân tiến, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở. Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới ; luôn giữ thái độ chân thành, nhã nhặn, đoàn kết, không gián trá, lừa lọc. Đối với việc, để việc công lên trênviệc tư, thao tác gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại khó, nguy khốn, cố gắnglàm việc tốt cho dân cho nước. Cần, kiệm, liêm, chính thiết yếu so với tất cảmọi người. Hồ Chí Minh từng viết : “ Trời có bốn mùa : Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương : Đông, Tây, Nam, Bắc ; Người có bốn đức : Cần, Kiệm, Liêm, Chính ; Thiếu một mùa thì không thành trời ; Thiếu một phương thì khôngthành đất ; Thiếu một đức thì không thành người ”. Cần, kiệm, liêm, chính rất thiết yếu so với người cán bộ, đảng viên. Nếuđảng viên mắc sai lầm đáng tiếc thì sẽ ảnh hưởng tác động lớn đến uy tín của Đảng, trách nhiệm củacách mạng. Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự phong phú về vật chất, vữngmạnh về ý thức, sự văn minh của dân tộc bản địa. “ Nó ” là cái cần để “ thao tác, làmngười, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụngsự Tổ quốc và quả đât ”. Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ ngặt nghèo với nhauvà với chí công, vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngượclại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thựchiện được cần, kiệm, liêm, chính. 3. Yêu thương con ngườiKế thừa truyền thống cuội nguồn nhân nghĩa của dân tộc bản địa, phối hợp truyền thống lịch sử nhânnghĩa với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loạiqua nhiều thế kỷ, qua hoạt động giải trí thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác lập tình yêuthương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Tình yêu to lớn dànhcho người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Hồ Chí Minh chỉham muốn cho quốc gia được trọn vẹn độc lập, dân tự do, mỗi người ai cũngcó cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học tập. Chỉ có tình yêu thương con ngườibao la đến như vậy mới có cách mang, mới nói đến CNXH và CNCS. Nghiêmkhắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả những ai cósai lầm, đã nhận rõ và nỗ lực thay thế sửa chữa, thức tỉnh những gì tốt đẹp trong mỗicon người. Bác căn dặn Đảng phải có tình chiến sỹ yêu quý lẫn nhau, trênnguyên tắc tự phê bình và phê bình chân thành. Tình yêu thương con người cònlà tình yêu bạn hữu, chiến sỹ, có thái độ tôn trọng con người, điều này có ý nghĩađối với người chỉ huy. 4. Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung. Đó là niềm tin quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là đồng đội. Đó làtinh thần đoàn kết với những dân tộc bản địa bị áp bức, với nhân dân lao động những nước. Đó là niềm tin đoàn kết của nhân dân Việt Nam với toàn bộ những người tiến bộtrên quốc tế vì độc lập, công lý và văn minh xã hội. Sự đoàn kết là nhằm mục đích vào mụctiêu lớn của thời đại độc lập, độc lập dân tộc bản địa, dân chủ và văn minh xã hội. Quan điểm đạo đức về tình đoàn kết trong sáng của Hồ Chí Minh thể hiệntrong những quan điểm sau : Đoàn kết với nhân dân lao động những nước vì mục tiêuchung đấu tranh giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột. Đoàn kết quốc tếgiữa những người vô sản toàn quốc tế vì tiềm năng chung, “ Bốn phương vô sảnđều là bạn bè ”. Đoàn kết với trái đất tân tiến vì độc lập, công lý và văn minh xãhội. Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nướcchân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu lộ củachủ nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thì dân tộc bản địa. B. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc rèn luyện đạo đức chosinh viên lúc bấy giờ. 1. Thực trạng đạo đức sinh viên Việt Nam lúc bấy giờ. 1.1 Những nét đẹp trong đạo đức sinh viên Việt Nam lúc bấy giờ. Chúng ta hoàn toàn có thể chứng minh và khẳng định một nét đẹp rất riêng trong phẩm chất đạo đứcsinh viên Việt Nam đó là nét đẹp đạo đức truyền thống cuội nguồn : cần cù lao động, hamhọc hỏi và có ý thức đoàn kết tương thân tương ái. Được lớn lên trong cái nôivăn hóa Việt, những người mẹ người bà người chị bằng những lời hát ru ngọtngào dăn dạy nên người, dạy con biết yêu làng, yêu xóm, yêu quê nhà, yêuTổ quốc, lòng hiếu thảo, thờ mẹ kính cha, kính trên nhường dưới … “ Công chanhư núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, Một lòng thờ mẹ, kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con ”. Những lời hát ru ấy có chức nănggiáo dục nghệ thuật và thẩm mỹ to lớn, góp thêm phần hình thành, nuôi dưỡng và phát huy nhâncách, năng khiếu sở trường tâm hồn, kể cả thái độ ứng xử của con người từ khi còn bé. Những mảnh đất niềm tin đã hình thành nên những những bạn trẻ Việt Nam ( sinh viên ) biết yêu thương, cảm thông san sẻ với hội đồng, với những ngườicó thực trạng đặc biệt quan trọng khó khăn vất vả trải qua những trào lưu tình nguyện, những cuộcvận động quyên góp, hiến máu nhân đạo … Tinh thần ham học hỏi, vượt khó học tốt đã giúp nhiều bạn sinh viên đạtđược thành tích cao trong học tập. Có rất nhiều sinh viên Việt Nam đạt giảithưởng cao trong những kỳ thi Olympic quốc tế, không những chứng minh và khẳng định năng lựccủa chính những bạn mà còn góp thêm phần củng cố vị thế của nước nhà với bè bạn quốctế. Đặc biệt trong xu thế toàn thế giới hóa, hội nhập, sinh viên Việt Nam ngày càngtỏ ra năng động và hòa nhập với xu thế chung của quốc tế. Với năng lực thíchứng và nhạy bén, những bạn sinh viên nhanh gọn trang bị cho mình nhữngkiến thức, kiến thức và kỹ năng tương thích với thời đại công nghệ thông tin lúc bấy giờ. Ngoài raxu thế toàn thế giới hóa cũng tạo ra sự như nhau tương đối giữa ý niệm đạo đứcvà quy tắc ứng xử của một hội đồng ( sinh viên Việt Nam ) với những quan niệmđạo đức và quy tắc ứng xử chung mang tính quốc tế. Với đặc thù là trẻ, có trithức, dễ tiếp thu cái mới, lại được trang bị ngoại ngữ tin học với sự tương hỗ củacác phương tiện đi lại thông tin văn minh và việc lan rộng ra, đa dạng hóa tiến trình giaolưu quốc tế, sinh viên ngày này đã hòa kịp với dòng chảy của quy trình hội nhập. Điều đó tạo ra sự xích lại gần nhau những giá trị đạo đức trong một niềm tin cảmthông cởi mở. Các ý niệm đạo đức sinh viên Việt Nam bên cạnh những cáitriêng của mình còn Open những cái chung hòa nhập với quốc tế, trên cơ sởthống nhất những quy tắc đạo đức chung của con người vừa giữ được truyềnthống tốt đẹp của dân tộc bản địa nói chung, đạo đức sinh viên Việt Nam nói riêng. Bêncạnh những nét đẹp đạo đức ấy, một bộ phận không nhỏ những bạn sinh viên đangcó những biểu lộ suy thoái và khủng hoảng về đạo đức, chạy theo lối sống thực dụng, sốngbuông thả .. đang là yếu tố chăm sóc và đáng quan ngại của xã hội. 1.2. Những biểu lộ xấu đi trong đạo đức Sinh viên Việt Nam hiệnnay. Thanh niên thời nay là lớp người sinh ra và trưởng thanh sau cuộc chiến tranh, được sống trong những điều kiện kèm theo vật chất và ý thức vừa đủ hơn, tuy rất nhạycảm với cái mới, được huấn luyện và đào tạo chuyên nghiệp và bài bản, có tri thức, nhưng vốn sống và sự từngtrải chưa nhiều trước những xấu đi và cám dỗ của nền kinh tế thị trường, trướcnhững đổi khác về chính trị quốc tế, đặc biệt quan trọng do tác động ảnh hưởng xấu đi của sự suythoái đạo đức biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nên mộtbộ phận người trẻ tuổi ( trong đó có sinh viên ) có sự giao động, khủng hoảng cục bộ lòngtin, lý tưởng cách mạng. Đặc biệt trong toàn cảnh quốc tế lúc bấy giờ, thủ đoạn “ Diễn biến độc lập ”, luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác – lênin, cũng như chốnglại chính sách XHCN, một bộ phận sinh viên Việt Nam lại xa rời chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sống không có lý tưởng, tham vọng. Hầu hết cácbạn sinh viên không nhận thức đúng đắn việc học tập những môn lý luận chính trị, học một cách chống đối, và không hề vận dụng vào thực tiễn, tham gia một cáchbị động, mang tính hình thức vào cuộc hoạt động “ Học tập và làm theo tấmgương đạo đức Hồ Chí Minh ”. Xu thế toàn thế giới hóa cũng đã có tác động ảnh hưởng không nhỏ tới đạo đức bộ phậnsinh viên lúc bấy giờ. Tác động xấu đi rõ nét nhất là biểu lộ thực dụng trongquan niệm đạo đức và cách ứng xử của một bộ phận sinh viên, trào lưu dân chủhóa, làn sóng công nghệ thông tin và việc nâng cao dân trí đã làm ý thức cá nhântăng lên. Họ có ý thức cao về bản thân mình và muốn bộc lộ vai trò cá thể. Tuy nhiên cái cá thể nhiều khi ép chế cái hội đồng, họ coi quyền lợi cá nhânquan trọng hơn tổng thể. Do vậy hình thành một thái độ bàng quan với nhữngngười xung quanh, mặc dầu những trào lưu tình nguyện gần đây được phát độngkhá rầm rộ trong sinh viên, nhằm mục đích giáo dục tuyên truyền niềm tin vì hội đồng. Sự quyết tử và chăm sóc đến người khác thấp đi và nếu có thì thường đánh giádưới góc nhìn kinh tế tài chính thực dụng hơn là tình cảm và sự san sẻ. Hy sinh và quantâm đến người khác, không gì ngoài yếu tố là việc làm đó đưa lại quyền lợi gì chochính mình. Sự gia nhập của những luồng văn hóa truyền thống ngoại lai đã làm không ít sinhviên xa rời giá trị đạo đức truyền thống lịch sử tốt đẹp vốn vẫn đang tương thích với thờikỳ tân tiến. Hình thành tư tưởng tận hưởng ăn chơi, đua đòi, chịu ảnh hưởng tác động củatệ nạn xã hội, bị giao động về mặt xu thế đạo đức và lối sống trong bối cảnhmột nền kinh tế tài chính, xã hội Open. Năm 2004, chỉ có 600 học viên, sinh viênnghiện ma túy thì đến năm 2007, số lượng này đã ở mức 1.234 học viên, sinh viên. Những năm gần đây số vụ sinh viên phạm pháp hoặc kỷ luật mỗi năm một tăng. Theo thống kê chưa khá đầy đủ của Bộ GD – ĐT, quy trình tiến độ từ năm 2003 – 2007, sốsinh viên phạm tội hình sự là 27 sinh viên, bị bắt giữ tương quan đến những vụ kháclà 77 sinh viên, 126 sinh viên bị buộc thôi học và 2.533 sinh viên vi phạm quychế nhà trường. Đặc biệt hiện tượng kỳ lạ “ sống thử ”, quan hệ trước hôn nhân gia đình đang đi ngượcvới đạo đức truyền thống lịch sử của dân tộc bản địa ta, bộc lộ một lối sống đạo đức suythoái, buông thả … đang trở thành một “ vấn nạn ” của xã hội. Theo số liệu thốngkê của Bộ Y tế, hàng năm ở nước ta có 14.000 ca nạo phá thai ở tuổi vị thànhniên ( chiếm 10 % số người nạo phá thai ). Một cuộc tìm hiểu khảo sát tại 30 trường ĐH – CĐ trong cả nước của Vụ Văn hóa ( ban Tuyên giáo TW ) phối hợp với Vụ Công tác HS – SV ( Bộ Giáo Dục Đào tạo ) cũng cho con sốđáng quan ngại : 51,4 % sinh viên cho rằng “ sống thử trước hôn nhân gia đình là hiện tượngkhá thông dụng ”. 67 % sinh viên được hỏi cho rằng sinh viên lúc bấy giờ có biểu hiệnchạy theo lối sống thực dụng, 31,2 % cho rằng sinh viên lúc bấy giờ chưa có khátvọng cao về lập thân, lập nghiệp vì tương lai, 21.8 % cho là sinh viên có biểuhiện mờ nhạt về tham vọng và lý tưởng … Hiện tượng không trung thực trong thi tuyển đã và đang diễn ra khá phổ biếnở những trường Đại Học – Cao đẳng, thậm chí còn nhiều sinh viên cho rằng việc saochép, copy tài liệu là một hành vi phi đạo đức, coi là chuyện thông thường. Nhiềusinh viên đi thuê làm khóa luận, đồ án tốt nghiệp hoặc đi thi hộ trong kỳ thituyển sinh vào ĐH và cao đẳng. Hiện tượng mua bằng bán điểm, học giảbằng thật không còn là chuyện hiếm thấy. Điều đó không những bộc lộ phẩmchất đạo đức quá kém của sinh viên mà còn tác động ảnh hưởng thâm thúy đến chất lượnggiáo dục của nước ta. Phẩm chất đạo đức của một sinh viên, một thế hệ trẻ, có trithức không những bộc lộ trong môi trường học đường mà còn ở ngoài xã hội, bộc lộ rõ nét nhất ở từng hành vi giản đơn nhất như xếp hàng lên xe bus, vứt rác đúng nơi pháp luật, … Thế nhưng, thay vì đó, hình ảnh chen lấn xô đẩynhau để lên xe bus, vứt rác bừa bãi nơi công cộng hay vượt đèn đỏ … lại thườngxuyên diễn ra ở hầu hết những bạn sinh viên ? Vậy hình ảnh một người có tri thức, được học tập, có đạo đức được bộc lộ ở đâu ? Không kể đến những lời ăntiếng nói hằng ngày, những phép nhã nhặn tối thiểu đôi lúc những bạn sinh viên cũngcoi thường và bị động. Theo thống kê cho thấy trong một cuộc tìm hiểu 874 sinhviên những trường Đại học Thành Phố Hồ Chí Minh thì thật giật mình về hành vi đạo đức của sinhviên : 45 % sinh viên dữ thế chủ động tham gia góp phần theo sức mình và vận độngmọi người cùng tham gia khi đồng bào bị thiên tai, lũ lụt, tai nạn đáng tiếc ; 42 % sinh viêncó bộc lộ một chút ít e thẹn và nói lời cảm ơn khi nhận được một lời khen ; 41 % sinh viên vẫn nỗ lực trang nghiêm thi tuyển khi gặp giám thị coi thi có vẻ như dễ tính ; 29 % sinh viên có hành vi nhặt rác bỏ vào thùng rác khi thấy một người chạy xephía trước quăng bọc rác xuống đường ; 41 % sinh viên chấp thuận đồng ý không nhất thiếtphải sống hùng vĩ vì nhiều lúc hùng vĩ lại là mù quáng, 36 % chấp thuận đồng ý làmviệc theo lương tâm sẽ bị thua thiệt và 28 % có tư tưởng trả thù, trả thù. Vậy hoàn toàn có thể thấy rằng sự lựa chọn những giá trị đạo đức của sinh viên chưa rõràng. Một số giá trị đạo đức chưa được sinh viên lựa chọn để xu thế cho lốisống của mình. Các nhà chuyên viên, nhà khoa học tâm ý giáo dục đã nêu lên 3 nguyên do đa phần : Thứ nhất là sự buông lỏng quản trị giáo dục con cháu củagia đình. Thứ hai việc giáo dục đạo đức trong nhà trường từ bậc đại trà phổ thông đếnđại học còn nhiều không ổn định. Các chương trình giáo dục đạo đức còn nặng triết lý, nhẹ giáo dục kiến thức và kỹ năng sống. Thứ ba là ảnh hưởng tác động của nền kinh tế tài chính nhà trường, sựhội nhập những nền văn hóa truyền thống và sự mê hoặc của đời sống đô thị, lối sống phươngTây quá đã làm cho những giá trị truyền thống lịch sử bị xâm hại và mai mọt dần. Từnhững nguyên do trên ta thấy điều thiết yếu là cần có sự giáo dục đạo đức, lýtưởng, lối sống cho sinh viên trải qua vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạođức, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa mái ấm gia đình, nhà trường và xã hội tạo môitrường thuận tiện để giáo dục một cách đúng mức cho thế hệ trẻ. 2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc rèn luyện đạo đức chosinh viên lúc bấy giờ. Tháng 1/1946 trong thư gửi người trẻ tuổi và nhi đồng toàn nước, Chủ tịchHồ Chí Minh đã viết : “ Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từtuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội ’ ’ Là một lãnh tụ vĩ đại, có tầm nhìn xatrông rộng hơn ai hết Người đồng cảm vai trò vô cùng to lớn của lực lượng thanhniên trong sự nghiệp cách mạng, trong công cuộc bảo vệ, kiến thiết xây dựng, kiến thiếtnước nhà. Để phát huy vai trò và sức mạnh của tuổi trẻ đặc biệt quan trọng là những tầng lớp sinhviên, trước những biểu lộ suy thoái và khủng hoảng đạo đức trong giới trẻ nói chung và sinhviên nói riêng thì phải triển khai giáo dục một cách thâm thúy và tổng lực. Trong công cuộc giáo dục tu dưỡng thế hệ trẻ cho quốc gia, Hồ ChíMinh nhấn mạnh vấn đề đến nguyên tắc giáo dục tổng lực. Người cho rằng : “ Nhànước chú trọng đặc biệt quan trọng việc giáo dục người trẻ tuổi về đức dục, trí dục và thể dục ”. Theo quản trị Hồ Chí Minh người trẻ tuổi là người chủ của nước nhà, vì thế ngaytừ hiện tại, “ … người trẻ tuổi phải sẵn sàng chuẩn bị làm người chủ nước nhà. Muốn thế phảira sức học tập, chính trị, kỹ thuật văn hóa truyền thống, trước hết phải rèn luyện và thấmnhuần tư tưởng XHCN, gột rửa cá thể chủ nghĩa ”. Như vậy trước hết mỗi sinhviên cần phải trang bị cho mình vũ khí lý luận sắc bén, thấm nhuần tư tưởng củaNgười, chủ nghĩa Mác – Lênin để hoàn toàn có thể kiên cường tiềm năng, lý tưởng của Đảngvà Nhà nước ta đó là tiến lên xã hội XHCN, chống lại những luận điệu xuyên tạcChủ nghĩa Mác – Lênin, chống lại chính sách XHCN, thủ đoạn “ Diễn biến hòabình ”. Vấn đề đặt lên số 1 trong giáo dục đạo đức đó là ý thức yêu nước, “ Trung với nước, hiếu với dân ”, và mỗi thế hệ gắn với mỗi thời đại khác nhauđều có cách bộc lộ lòng yêu nước khác nhau. Nếu như trong thời chiến, ôngcha ta đã quyết tử bằng xương máu để giành độc lập dân tộc bản địa, để bộc lộ lòng yêunước nồng nàn thâm thúy, thì ngày này mỗi sinh viên tất cả chúng ta hãy biểu lộ lòngyêu nước bằng sự cố gắng nỗ lực học tập, trau dồi kiến thức và kỹ năng, tiếp thu những trithức quả đât, những khoa học kỹ thuật tân tiến và vận dụng góp sức vàocông cuộc bảo vệ và kiến thiết xây dựng quốc gia. Hồ Chí Minh đặc biệt quan trọng chú trọng việcgiáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. Người chỉ rõ : “ Thanh niên phảiluôn luôn rèn luyện đạo đức cách mạng ”. Trọn đời trung thành với chủ với sự nghiệpcách mạng, với Tổ quốc, với Đảng. Dũng cảm không sợ khó không sợ khổ, thựchiện : “ Đâu cần người trẻ tuổi có, đâu khó có người trẻ tuổi ”, “ khó khăn thì đi trước, tận hưởng sau mọi người ”. “ Một cây làm chẳng nên non, Ba cây chụm lại nên hòn núi cao ”. Và muốnthực hiện được điều đó phải biết đoàn kết những cá thể trong một dân tộc bản địa trêntinh thần tương thân tương ái, yêu quý đồng loại. Các trào lưu thanh niêntình nguyện, hiến máu cứu người, mùa hè xanh, giúp sức trẻ mồ côi, những ngườicó thực trạng khó khăn vất vả … là thời cơ cho những bạn sinh viên bộc lộ niềm tin đó. Những hành vi vô cùng nhỏ bé như giúp một cụ già sang đường, hay quyêngóp những nạn nhân thiên tai lũ lụt … cũng đã bộc lộ tình yêu thương conngười – một phẩm chất cao quý của con người Việt Nam. Mặc dù quốc gia ta đã thoát khỏi cuộc chiến tranh xong những hậu quả, tàn dưcủa nó vẫn còn đó. Với tư cách là người chủ quốc gia, mỗi sinh viên cần phảithực hiện trách nhiệm cao quý nhưng cũng rất nặng nề đó là bảo vệ nền độc lập vàxây dựng quốc gia ngày một giàu đẹp, công minh, dân chủ và văn minh. Thựchiện lời dạy của Bác “ cần, kiệm, liêm, chính chí công vô tư ”, mỗi sinh viênphải siêng năng học tập, lao động, không ỷ lại, phụ thuộc, học bằng chính sức lực lao động củamình, trung thực trong thi tuyển, lên án những hành vi hối lộ, học hộ, thi hộ, muađiểm, … Tiết kiệm, không hoang phí xa xỉ, sống xa hoa, buông thả … Thói quenđua đòi, hưởng lạc chạy theo những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội đang làm hưhỏng 1 số ít sinh viên vốn không tự giác học tập rèn luyện. Họ đang sa vào mộtcuộc sống thiếu lý tưởng, không có niềm tin, không có khuynh hướng một cáchđúng đắn. Tuổi trẻ Việt Nam “ có lối sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhânnghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của hội đồng, có ý thức bảo vệvà cải tổ môi trường sinh thái ” ( T.Ư 5, khóa VIII ). Mỗi sinh viên cần đấutranh, không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, với những tệ nạn xã hội, xây dựnglối sống lành mạnh và sống có lý tưởng có nghĩa vụ và trách nhiệm với chính mình và mọingười. Thêm vào đó, mỗi hành vi bảo vệ thiên nhiên và môi trường, ý thức tự giác nơi côngcộng là đều là những hành vi cao đẹp và tôn vinh nét đẹp trong đạo đức thếhệ sinh viên – những tầng lớp có tri thức trong xã hội. Vì vậy sinh viên cần tham giatích cực những trào lưu trồng cây xanh, thu gom rác thải, bảo vệ môi trườngxanh sạch sẽ và đẹp mắt, nêu cao ý thức tự giác nơi công cộng … Mỗi vương quốc, dân tộc bản địa dù lớn hay nhỏ dù tăng trưởng hay kém tăng trưởng thìđều cùng thở trong một bầu khí quyển, và cùng chung một nguồn gốc lịch sử vẻ vang, vàđể sống sót và tăng trưởng thì tất yếu phải hợp tác, đoàn kết với nhau. Vậy mỗi cánhân cần nêu cao ý thức quốc tế trong sáng, ý thức quốc tế vô sản. Trongbối cảnh thời nay, mỗi sinh viên tất cả chúng ta có sự tương hỗ của những phương tiệncông nghệ thông tin tân tiến, khoảng cách khoảng trống được thu hẹp hơn, do vậycần phải trang bị ngoại ngữ thật tốt dữ thế chủ động giao lưu học hỏi, dữ thế chủ động hộinhập, hợp tác với những bạn quốc tế. Tham gia, ủng hộ những chương trình bảo vệmôi trường “ giờ toàn cầu ”, bảo vệ tài nguyên vạn vật thiên nhiên, chống phân biệt chủngtộc, màu da, tôn giáo … KẾT LUẬNCó thể thấy tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị cho đến hômnay và cho mãi về sau. Tư tưởng của người là cuốn sách quí cho những ai hamhọc hỏi, trọng sự rèn luyện bản thân. Rèn luyện bản thân về đạo đức là sự rènluyện quan trọng không kém, thậm chí còn là quan trọng hơn việc rèn luyện thànhtài, bởi đúng như người nói : “ Có tài mà không có đức là người vô dụng ”. 10S inh viên chính là lực lượng tiêu biểu vượt trội nhất cho sự rèn luyện thành tài. Họchính là những người đang tiếp thu những tri thức, những tân tiến của văn minhnhân loại. Nhưng một nhân tài cũng trở thành vô dụng nếu như cái tài ấy khôngmang lại quyền lợi cho hội đồng. Như vậy, cùng với quy trình “ luyện tài ”, sinhviên phải luôn “ rèn đức ”. Rèn đức là một quy trình lâu dài hơn, liên tục. Đó là quy trình của mỗicá nhân nhưng lại tương quan mật thiết đền đời sống xã hội. Rèn mình sao chokhông đi ngược với chuẩn mực đạo đức của xã hôi, rèn mình để làm đẹp thêmgiá trị đạo đức của dân tộc bản địa. Có nhiều cách để tu dưỡng đạo đức. Đó là quá trìnhcủa mỗi cá thể nhưng cũng là quy trình xã hội, trong đó có nghĩa vụ và trách nhiệm của giađình, của nhà trường của cả hội đồng. Nhưng có một cuốn sách quí, một tấmgương sáng mà sinh viên nên hướng theo, đó chính là hình mẫu đạo đức Hồ ChíMinh, đó chính là tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Sinh viên phải là người đi đầu và triển khai xong bản thân, vận dụng sáng tạotư tưởng của Hồ Chí Minh, tiếp tục học tập, tu dưỡng rèn luyện về mọimặt trở thành lực lượng tích cực nhất, góp phần sức lực lao động, trí tuệ để xây dựngnước ta ngày càng “ giàu mạnh, văn minh ” như lời Bác Hồ hằng mong ước. MỤC LỤCLỜI MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………………………………… 11A, Những phẩm chất đạo đức cơ bản của người Việt Nam trong thời đại đổi mớitheo tư tưởng Hồ Chí Minh …………………………………………………………………………….. 1. Trungvớinước, hiếuvớidân …………………………………………………………………………………………………………… 2. Cần, kiệm, liêm, chính, chícôngvôtư …………………………………………………………………………………………………………… 3. Yêuthươngconngười …………………………………………………………………………………………………………… 4. Tinhthầnquốctếtrongsángthủychung …………………………………………………………………………………………………………… B, Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc rèn luyện đạo đức cho sinh viênhiện nay ………………………………………………………………………………………………………… 1. Thực trạng đạo đức sinh viên Việt Nam lúc bấy giờ ……………………………………………………………………………………………………….. 1.1. Những nét đẹp trong đạo đức sinh viên Việt Nam lúc bấy giờ ……………………………………………………………………………………………………….. 1.2. Những biểu lộ xấu đi trong đạo đức sinh viên Việt Nam lúc bấy giờ ……………………………………………………………………………………………………….. 2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc rèn luyện đạo đức cho sinhviênhiệnnay ……………………………………………………………………………………………………….. 12K ẾT LUẬN ………………………………………………………………………………………………….. 11DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢODANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia HàNội 2005.2. Bài viết “ Tác động của toàn thế giới hóa tới đạo đức sinh viên lúc bấy giờ ” tácgiả Võ Minh Tuấn đăng trên trang : http://www.chungta.com.vn/Destop.aspx/ChungTa-Suyngam/Dao-duc/tacdong-toan-cau-hoa-den-dao-duc-sinh-vien/3.“Nghiên cứu về đạo đức của sinh viên : 41 % sinh viên không thích sốngcao thượng ” – Trương Hiệu đăng trên trang : http : / / phapluattp.vn/258611p1015c1074/nghien-cuu-ve-hanh-vi-dao-duc-cuasv-41nbspsv-khong-thich-songnbspcao-thuong.htm ) 4. “ Sinh viên dính “ tệ nạn ” đâu là nguyên do ? ” theo Nguyễn Đức Tuấnlấy từ website : http://dantri.com.vn/c135/s135-231435/sinh-vien-dinh-te-nan-dau-la-nguyennhan.htm.5. “ Thiếu nữ – triệu phú. Đạo đức và lối sống ” – C.A Huệ. http://www.toquoc.gov.vn/Thongtin/Goc-Nhin/Thieu-Nu-Dai-Gia-Dao-DucVa-Loi-Song.html6. “ Giáo dục đào tạo lý tưởng sống cho thế hệ trẻ ngày này ” – Trần Thônghttp : / / tieuhocdanghai.com/news/?iid=44691314