Các triều vua Việt Nam đã ứng dụng phong thủy như thế nào
Rồi từ đấy, long mạch lại chạy tiếp từ làng Nhật Cảo đến làng Thái Đường, kết lại ở gò Sao. Phía trước gò ấy có ba gò lớn là Tam thai, phía sau có bảy gò nhỏ là Thất tinh, xung quanh có đầm nước bao bọc, khi mặt trời soi tới thì mặt đầm sáng như gương phản chiếu, đối mặt với các cù lao nhỏ hình đẹp như những bông sen đang nở, đấy là một trong 27 kiểu đất hậu sinh phát đế”.
Khi phát hiện ra chỗ đất kết, thầy Phùng đã bàn với Trần Lý nên cải táng mộ ông bà của họ Trần về chôn ở đó. Vì sao thầy Phùng lại không hề dùng chỗ đất kết để chôn ông bà mình ? Theo thầy và nhiều nhà phong thủy khác, người tìm ra long mạch và chỗ huyệt kết chưa hẳn là người hoàn toàn có thể cải táng thân nhân của mình để con cháu phát vương được, vì cần phải ứng đúng mệnh số nữa .Thầy Phùng biết họ Trần sắp phát và đã kể lại chi tiết cụ thể bí hiểm tương quan đến câu truyện phong thủy ở gò Sao cho con mình là Phùng Tá Chu ( cũng là một nhân vật lịch sử dân tộc ) được biết : Vào ngày lập thu, mộ hiển thủy tổ khảo ở Tức Mặc và hiển thủy tổ tỷ ở Lưu Gia của dòng họ Trần đã dời chuyển đến gò Sao tuy nhiên táng, việc làm hoàn tất đúng giờ chính Hợi .Những người tham gia thanh tra rà soát những vị trí và hình thể của long mạch lần cuối để đặt la bàn xác lập nơi hạ huyệt cũng như hướng cải táng đều là người họ Trần. Chỉ duy nhất có thầy Phùng biết chuyện. Xong việc, bên trên mộ được san phẳng y hệt như cũ để không lộ ra dấu vết .Cây hoa đại 700 tuổi ở Yên Tử do vua Trần Nhân Tông cho trồngSau cuộc lễ chưa lâu, vào giữa một đêm rằm sáng trăng, thái tử Sảm ( tức vua Lý Huệ Tông sau này ) từ Thăng Long chạy loạn đến vùng Lưu Gia đã vô tình trông thấy và nhanh gọn mê hồn cô con gái xinh đẹp của Trần Lý là Trần Thị Dung, lúc ấy mới 15 tuổi ( là chị em chú bác ruột với Trần Thủ Độ ), rồi cưới Dung. Đây là sự kiện khởi đầu cho một loạt biến cố tiếp đó để vương quyền nhà Lý chuyển sang tay nhà Trần .Nhưng không may cho Phúc chưa làm được mưu thâm độc đó thì bị Lê Lợi bắt sống, phải chịu phục mạng và xếp khăn gói về nước. Trở lại chuyện phong thủy thành nhà Hồ, ở đây ta lại gặp cụm từ “ vì đất còn non, nên thành Tây Giai chỉ sống sót có 7 năm ” sao lại trùng hợp với thuyết về cuộc đất “ con sư tử còn ngủ ở sông Côn ” ( Tỉnh Bình Định ) nơi bạn bè nhà Nguyễn Nhạc khởi binh …- Hoàng Phúc là người cũng từng mưu trấn yểm những cuộc đất tốt của nước ta vào thế kỷ 15 ? Đúng vậy, Hoàng Phúc là tướng nhà Minh sau khi xâm lược nước ta đã quyết tâm đi yểm trừ khí sông núi khắp nơi trong đó có vùng Thanh Hóa. Đặt chân đến khu vực thành Hồ, Hoàng Phúc bảo rằng ở ven biển của vùng nầy có nhiều huyệt đạo tốt, ý Phúc muốn chỉ vùng đất từ Nga Sơn đến Vinh cần phải yểm nốt .Điểm qua bấy nhiêu ta thấy rõ ràng là phong thủy ở thành Tây Giai “ còn non ” và nhiều mạch khí tăng trưởng không tốt. “ Đất có mà khí ít ” chính là vùng nầy, muốn thiết kế xây dựng cơ đồ, xây thành lớn phải chờ một thời hạn lâu nữa ( già ) mới tăng trưởng, như Hoàng Phúc tướng nhà Minh đã nói : “ Có thể vùng đất miền trong ( ám chỉ miền trung nước ta lúc bấy giờ ) qua thiên niên kỷ III thì tăng trưởng mà Bắc triều ta ( Trung Quốc ) khó khống chế ” .Nhưng cửa Đồ Sơn mở ra biển thì lại quá hẹp, quá cạn, không cung ứng cho địa cuộc thông thoáng và sinh khí quanh thành ! Điểm này Quách Phát đã nói “ Người to mà cuống họng nhỏ thì làm thế nào nói là một khung hình tốt được ” .- Quẻ Thiên địa bỉ tương quan gì đến cuộc đất xây thành của Hồ Quý Ly ? Quẻ Thiên địa bỉ nghĩa là 3 gạch dương ở trên ≡ là quẻ càn với 3 gạch âm ở dưới là quẻ khôn ≡ ≡ vậy ta đem để quẻ càn ở trên, quẻ khôn ở dưới là : ≡ càn trên ≡ ≡ khôn dưới Thành ra quẻ Thiên địa bỉ, nghĩa của quẻ là khí trời cứ đi lên, khí đất cứ đi xuống, hai khí âm và dương không gặp nhau, nên là bỉ là xấu, không có gì tăng trưởng được của vạn vật. Vì thế, ám chỉ cuộc đất xây thành không có duyên hội ngộ của trời đất là vậy ! Một điểm khác về địa mộc, là ngôi thành nhà Hồ tọa lạc trên địa vực cả hai dòng sông : sông Chu và sông Mã .Vậy nên sông cứ hướng Đông mà chảy mãi, núi cứ hướng Nam mà ngoảnh nhìn … có nghĩa là cả sông lẫn núi mạch khí trái ngược nhau, do đó sinh ra cái họa sau này mà Đỗ Tĩnh ám chỉ là quẻ “ Thiên địa bỉ ” .Còn “ Núi khuyết ” nghĩa là : núi ở động An Tôn không tách ra về phía bên kia sông ở bên huyện Thiệu Dương như núi tròn núi trĩnh, thì núi bên phía đông An Tôn không khuyết – nghĩa là được dương trợ. Hai nghĩa này trong học thuyết phong thủy coi một cuộc đất nào có âm phù dương trợ là đất đắc địa .Nghe vậy Đỗ Tĩnh ngậm ngùi than : “ Rồng ở vực sâu khó bay cao ? / Sông phù, núi khuyết biết làm thế nào ? / Sông cứ hướng đông mà chảy mãi / Núi ngoảnh về sau tỏ phụ phàng / Không duyên khó gặp Thiên địa hội / Trời đã biểu vậy, biết làm thế nào ”. Tạm dịch và dẫn giải : “ Sông cứ hướng đông mà chảy mãi, nghĩa là dòng sông Mã mà hợp lưu với sông Chu, nếu gặp nhau sớm ở đoạn trên huyện Cẩm Thủy chứ không chảy mãi một mình về hướng Đông thì tốt quá không việc gì phải bàn. Đằng này sự hợp giang đó muộn quá ( còn non ) do đó thời cơ tốt mất đi – đó là cái nghĩa sông phù ( âm phù ) theo thuyết phong thủy ” .- Vậy quan điểm phong thủy của Đỗ Tĩnh như thế nào về cuộc đất của thành nhà Hồ ? Quan điểm của Đỗ Tĩnh có khác với Hồ Hán Thương – con ruột của Hồ Quý Ly. Đỗ Tĩnh là người trực tiếp trông coi việc làm xây thành có hỏi Hồ Hán Thương rằng : “ Cuộc đất ở động An Tôn còn non, tôi xem xây thành thì sự nghiệp không được bền vững và kiên cố, hoàn toàn có thể tìm nơi khác không ? ”. Hồ Hán Thương đáp : “ Tôi cũng biết điều đó, nhưng việc quá gấp vì nếu ta chậm trễ mà giặc Minh kéo đến sớm, ta biết chạy ẩn núp ở đâu ? Hiện nay tiềm lực ta chưa đủ mạnh để bảo vệ phòng vệ được Thăng Long khỏi cuộc tiến công của giặc ” .Vì vùng này nhiều núi non hang động cách xa Thăng Long hơn một ngày đi ngựa, nằm sau sống lưng dãy núi Hòa Bình, đường đi lại hiểm trở. Thành xây trong vòng 3 năm thì hoàn thành xong ( 1397 – 1400 ) do Hồ Hán Thương đảm nhiệm và Đỗ Tĩnh làm kiến trúc sư kiêm việc xu thế địa lý và chọn thế phong thủy để triển khai .Lúc ấy, sứ giả nhà Minh liên tục đến Thăng Long yêu sách hết việc này đến việc khác, như thúc ép vua tôi nhà Trần phải phân phối lương thực, dân phu, gái đẹp, kể cả phải cung ứng thầy chùa, sư sãi, đến sừng tê, ngà voi quý hiếm, chim trĩ và bao nhiêu cũng không thỏa mãn nhu cầu chúng. Đứng trước tình thế đó Hồ Quý Ly biết rằng đường nào cũng phải đánh giặc Minh, nên quyết định hành động canh tân quốc gia, mà việc tiên phong là phải thiết kế xây dựng thành Tây Giai tại động An Tôn để thủ hiểm .Về thực trạng sinh ra của thành nhà Hồ, còn gọi thành Tây Giai, trước hết ai cũng biết gia chủ của ngôi cổ thành nầy là vua Hồ Quý Ly. Ông là phò mã của nhà Trần, đã được Trần Nghệ Tông giao việc nhiếp chính, vì lúc này nhà vua đã già, trong nước suy yếu, bên ngoài giặc Minh dòm ngó toan xâm lược Việt Nam .- Thưa ông, thành nhà Hồ sinh ra trong toàn cảnh lịch sử vẻ vang như thế nào ? Thành nhà Hồ có diện tích quy hoạnh 10.000 mét vuông, xây bằng đá “ cự thạch ” nghĩa là loại “ đá lớn ” nặng từ nửa tấn đến 4 – 5 tấn. Thành có 4 cổng : Đông, Tây, Nam, Bắc và đều có lầu để quan sát. Đại môn thành là cửa mở vào chính Đông Nam. Cửa thành gồm có 3 hình cong, rộng 12 m, cao hơn 3 m. Ở trên có lầu, có hỏa hồi, có cờ hiệu, có những viên quan túc trực thành. Ngôi thành xây bằng đá lớn như vậy là một di sản văn hóa truyền thống thành lũy cổ hiếm có của Việt Nam và cả Khu vực Đông Nam Á nữa .Nhà khảo cổ học Đỗ Đình Truật năm nay đã hơn 80 tuổi, có ngót nửa thế kỷ tìm hiểu và khám phá và khai thác khảo cổ học, đã dày công điều tra và nghiên cứu về thành nhà Hồ và phong thủy của thành này trong hơn 40 năm qua. Dưới đây là nội dung của buổi tiếp cận và hỏi chuyện cụ Đỗ Đình Truật về cuộc đất thành Hồ nói trên .Thành nhà Hồ được xây vào cuối thế kỷ 14 còn gọi là động An Tôn tọa lạc ở làng Tây Giai, huyện Cẩm Thủy ( Thanh Hóa ) trên cuộc đất có thế phong thủy “ còn non ” mà những nhà nghiên cứu địa lý xem tựa như “ con rồng đang cuộn mình nhưng chưa đủ sức bay
Vùng đất của 2 vua
Đất Thanh Hóa đã sinh cho đất nước hai vị hoàng đế anh hùng : Lê Đại Hành ( Lê Hoàn ) đánh thắng quân xâm lược Tống vào cuối thế kỷ 10 và Lê Thái Tổ ( Lê Lợi ) đánh thắng quân Minh vào đầu thế kỷ 15. Ở đây, chúng tôi đề cập đến một địa điểm đã đi vào lịch sử vẻ vang là Lam Sơn, thuộc huyện Lương Giang, trấn Thanh Hóa ( nay thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa ), là nơi những nhà sử học, phong thủy học, thường nhắc đến với những chiêm nghiệm về địa lý, về nguyên khí hun đúc nên vùng địa linh nhân kiệt này, để lại những ghi chép đáng để tất cả chúng ta thời nay suy ngẫm .
Chẳng hạn, sử thần Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, ông tổ ba đời của vua Lê Lợi tên húy là Hối, một hôm đi đi dạo đến vùng núi Lam Sơn nhìn quang cảnh quanh đó và chợt thấy có đàn chim đông đúc đang ríu rít bay lượn quanh chân núi như thể núi Lam Sơn có một lực lôi cuốn vô hình dung, có sức thu phục nhân tâm nhiều như chim đàn về tổ, bèn nói : “ đây hẳn là chỗ đất tốt ” và quyết định hành động “ dời nhà đến ở đấy ” .Những ghi chép trên của Ngô Sĩ Liên tuy khá vắn tắt, tuy nhiên cũng đã thông tin về một trong những yếu tố tương quan đến phong thủy của vùng đất phát vương. Tức vùng đất không thuộc về nơi “ sơn cùng thủy tận ”, cũng không phải nơi “ tuyệt địa ” vắng vẻ. Mà là nơi “ chim tụ hội thành đàn ” đông vui, ríu rít, là đất “ tụ khí tàng phong ” khác hẳn với những miền hung địa .Hung địa theo thuật ngữ phong thủy là đất chu tước bi khốc ( chim cất tiếng kêu sầu ), hoặc đất bạch hổ hàm thi ( con hổ đang ngậm xác chết trong miệng ), hoặc xương long vô túc ( rồng không có chân, rồng bị tật nguyền ) … Như thế, Lam Sơn là đất cát tường, đất tụ nghĩa, đất xưng vương, mà người đứng lên đảm đương việc khởi đầu nghiệp đế của nhà Lê là Lê Lợi .
Thật vậy, khi tổ nhà Lê là cụ Hối dời về ở Lam Sơn thì chỉ sau 3 năm đã gây thành sản nghiệp lớn và từ đó trở đi họ Lê làm quân trưởng một phương, trong nhà khi nào cũng có tới hơn 1.000 tôi tớ, trải những đời sau sinh ra Lê Lợi với “ thiên tư tuấn tú khác thường, thần sắc tinh anh kỳ vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai có nốt ruồi son, lời nói như chuông, dáng đi tựa rồng, bước tới như hổ, kẻ thức giả đều biết vua là bậc khác thường ” ( Đại Việt sử ký toàn thư ) .Theo truyền thuyết thần thoại, nhà họ Lê được những thầy địa lý và những nhà sư thượng thừa về khoa phong thủy hướng dẫn và báo mộng cho biết một huyệt đất phát vương ( ở động Chiêu Nghi ). Theo cụ Tả Ao, đất phát vương phải là đất hợp đủ những điều kiện kèm theo được cụ diễn ca qua mấy câu lục bát sau đây : Ngũ tinh cách tú triều nguyên / Kim, mộc, thủy, hỏa bốn bên loan hoàn / Thổ tinh kết huyệt TW / Ấy đất sinh thánh sinh vương đời đời. Muốn hiểu những câu lục bát của cụ Tả Ao về đất phát vương nêu trên hẳn phải chú trọng, quan sát hình dáng của cuộc đất ( theo ngũ hành ) gồm : hình tròn trụ thuộc kim tinh ( con Kim ), hình doi thuộc mộc tinh ( con Mộc ), hình vuông vắn thuộc thổ tinh ( con Thổ ), hình nhọn thuộc hỏa tinh ( con Hỏa ), hình sóng thuộc thủy tinh ( con Thủy ) .
Theo đó con Thổ phải ở vị trí chính giữa ( kết huyệt TW ) và những con Kim, Mộc, Hỏa, Thủy sẽ tuần tự vây quanh .Thực hư về đất phát vương ở Chiêu Nghi như thế nào chưa bàn tới. Chỉ địa thế căn cứ trên chính sử, thì năm Lê Lợi lên 33 tuổi ( Mậu tuất 1418 ) đã dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, trong khoảng chừng 10 năm sau đó đuổi sạch quân Minh xâm lược, bắt sống tướng tá và 10 vạn viện binh hỗ trợ của nhà Minh đều tha cả, không giết, đại định thiên hạ, lên ngôi nhà vua vào ngày rằm tháng tư ( Mậu Thân 1428 ) và lập tức xuống chiếu tha thuế cho dân chúng cả nước : “ những thứ thuế như tô ruộng, vàng bạc, đầm phá, bãi dâu trong cả nước đều tha ( không thu thuế ) trong 2 năm ”. Và ban bố nhiều điều quyền lợi cho dân chúng .Đó là cách tích đức của bậc đế vương, vừa tỏ lòng thương dân, vừa thuận ý trời ( thuận thiên ), vừa để phúc cho con cháu đời sau. Điều đó tương thích trọn vẹn với lời giáo huấn lưu truyền từ truyền kiếp trong truyền thống cuội nguồn nhân nghĩa và trong đời sống ý thức của những thầy địa lý và những nhà phong thủy là “ Tiên tích đức, hậu tầm long ” – đại ý có nghĩa trước hết cần phải chứa đức, rồi sau đó hãy tìm long mạch … Phải chăng việc tích đức của Lê Lợi đã dẫn đến tác dụng tốt đẹp là sự sống sót của nhà Lê lê dài từ thời Lê sơ với 10 đời, gồm 100 năm ( 1428 – 1527 ), đến thời Lê trung hưng với 16 đời, gồm 265 năm nữa ( 1533 – 1789 ) qua những triều Mạc, chúa Trịnh và chúa Nguyễn .
Đất ẩn náu của bậc đế vương
Trong khoảng chừng thời hạn đó, Mạc Đăng Dung ép vua Lê phải nhường ngôi cho mình, lập nên nhà Mạc từ năm 1527 đến 1592 thì sụp đổ. Trước khi sụp đổ, vua Mạc thứ năm là Mạc Mậu Hợp đã sai người đem lễ vật đến thăm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và xin hỏi về thế cuộc .Trạng Trình chỉ đáp một câu ngắn gọn : “ Cao Bằng tuy thiển, khả diên sổ thể ” – nghĩa là đất Cao Bằng tuy là chật hẹp nhưng hoàn toàn có thể giữ được về sau … Quả đúng như lời Trạng Trình nói, sau này khi nhà Mạc bị quân Trịnh đánh bật khỏi thành Thăng Long và bị truy đuổi tứ tán, thì con cháu nhà Mạc nghe theo lời hướng dẫn của Trạng Trình đã chạy về cố thủ ở đất Cao Bằng và sống sót thêm 96 năm nữa mới bị thôn tính, mất hẳn .Theo những nhà phong thủy, những bậc thầy về địa lý, thì Cao Bằng là đất dung thân hiểm yếu, ẩn náu của bậc đế vương, nơi xuất phát của những cơn sấm sét về xuôi. Chính do đó, từ thời Đường Ý Tông ( Trung Quốc ) khi Cao Biền xâm lăng nước ta đã cho xây thành Đại La ( ở Thăng Long – Thành Phố Hà Nội ) và thành Nà Lữ ( ở Cao Bằng ) .Về sau thành Nà Lữ được người Việt trấn giữ, trừ bùa yểm của Cao Biền. Đến nay di tích lịch sử thành Nà Lữ vẫn còn ở làng Nà Lữ, xã Hoàng Tung, huyện Hòa An, có hình chữ nhật dài 800 m, rộng 600 m, xây bằng gạch và bằng đá tảng với 4 gò đất nổi mang tên : Long, Ly, Quy, Phượng. Gò Phượng nằm ở TT. Khi nhà Mạc chạy về Cao Bằng đã chiếm thành Nà Lữ để đóng đô và xây thành đá trên núi để phòng ngự .Cần ghi nhận thêm, đến thời văn minh, Cao Bằng vẫn là mảnh đất “ lịch sử một thời ” về hai phương diện lịch sử vẻ vang và địa lý phong thủy. Vì Cao Bằng có hang Pắc Bó là nơi quản trị Hồ Chí Minh chọn làm địa thế căn cứ chỉ huy cách mạng Việt Nam thời kỳ 1941 – 1945, có rừng Trần Hưng Đạo ở xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, là nơi đại tướng Võ Nguyên Giáp công bố xây dựng đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ngày 22.12.1944 – là tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày này. Xem thế từ Cao Biền, đến thời Lê – Mạc, cho tới nay đất Cao Bằng vẫn là nơi “ tụ khí tàng phong ” rất là cát tường như ý theo cách nhìn phong thủy .
NGÔI MỘ TRỜI CHO
Đó là cuộc đất gắn liền với câu chuyện lịch sử liên quan đến người mở đầu cơ nghiệp của các đời chúa Trịnh là thái sư Trịnh Kiểm. Ông người làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, phủ Quảng Hóa (có sách chép ông sinh ngày 24 tháng 8 năm Quý Hợi 1503 tại thôn Hổ, gần sông Mã, thuộc tỉnh Thanh Hóa ngày nay) vốn mồ côi cha từ nhỏ, ăn ở rất có hiếu với mẹ, hàng ngày đi chăn trâu và tập trận “cờ lau” như vua Đinh thời trước. Lớn lên, ông là một tay kỵ mã tài giỏi nên tướng nhà Mạc là Ninh Bang hầu thâu nhận, giao chăm sóc huấn luyện đàn ngựa chiến hay nhất của mình ở sách Thọ Liêu.
Được ít lâu, có người khuyên Trịnh Kiểm không nên cộng tác với tướng nhà Mạc nữa, vì nhà Mạc phi nghĩa (Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Lê năm 1527) mà hãy tìm đến Nguyễn Kim (là tướng của nhà Lê) để cùng chống Mạc. Trịnh Kiểm nghe theo, nửa đêm bỏ Ninh Bang hầu trốn đi, mang theo con ngựa chiến đầu đàn. Ninh Bang hầu hay được, rất tức giận, bắt mẹ của Trịnh Kiểm nhốt vào một cái củi tre, lấy đá lớn cột lại, thả xuống vực nước sâu. Khi chiếc củi chìm xuống đáy, thì đêm ấy lạ thay nước sông như sôi lên, sấm chớp cùng mưa nguồn cuồn cuộn đổ về, nước chảy mạnh như muốn xô trôi cả hai bờ sông cũ. Sáng ra ngừng mưa, người quanh vùng hết sức kinh ngạc khi thấy nơi vực xoáy nhận chìm mẹ Trịnh Kiểm chiều hôm trước bỗng nổi lên một gò đất mới sạch sẽ, sáng sủa, trông như một ngôi mộ “trời cho” đang ôm chôn thi hài của bà mẹ Trịnh. Tin đồn lan nhanh, một vài thầy địa lý đã tìm đến tận nơi xem xét địa thế của gò đất rồi đoán định rằng con cháu họ Trịnh từ đây sẽ bắt đầu phát đạt lớn. Cũng từ đó truyền đi câu tiên tri: “phi đế phi bá, quyền khuynh thiên hạ, tộ truyền bát đại, tiêu tường khởi họa”. Câu ấy có nghĩa: con cháu họ Trịnh tuy không phải là “đế”, cũng không phải là “bá” (phi đế phi bá), nhưng quyền thế sẽ rất lớn có thể làm nghiêng cả thiên hạ (quyền khuynh thiên hạ) và sẽ truyền đến đời thứ 8 (bát đại) thì cạn phước và họa sẽ từ trong nhà khởi ra.
Quả là sau này Trịnh Kiểm nắm hết quyền dưới thời Lê trung hưng và truyền được 8 đời. Một số nhà sử học như Trần Trọng Kim đã tổng luận: “họ Trịnh giúp nhà Lê trung hưng lên, rồi giữ lấy quyền chính, lập ra nghiệp chúa, lưu truyền từ Trịnh Tùng (con Trịnh Kiểm) đến Trịnh Khải được 216 năm (1570 – 1786) là hết”. Mầm mống suy tàn bắt nguồn từ đời thứ 8 là Trịnh Sâm với hai sai lầm lớn của ông. Một là đối với nhà Lê, ông đã phế hoàng tử Lê Duy Vĩ rồi sai giết đi. Hai là đối với nội tình phủ chúa, ông đã truất con lớn (là Trịnh Khải) để lập đứa con nhỏ do ái phi của ông là Đặng Thị Huệ sinh ra (Trịnh Cán) làm thế tử, gây bất bình, khiến kiêu binh nổi dậy, phế bỏ Trịnh Cán, đưa Trịnh Khải lên. Nhưng Trịnh Khải lên chưa bao lâu lại bị quân Tây Sơn từ phía Nam tấn công ra Thăng Long. Mặc dầu Trịnh Khải rất dũng cảm, lên voi chiến xông trận, nhưng thất thế phải chạy lánh lên Sơn Tây rồi bị bắt, đã dùng gươm tự sát. Hay tin đó Nguyễn Huệ lệnh quân Tây Sơn tống táng Trịnh Khải đúng theo vương lễ. Trịnh Khải mất, Trịnh Bồng kế nghiệp chúa nhưng đã bỏ đi tu trong những ngôi chùa hẻo lánh trên vùng núi phía Bắc (người ta cho Hải Đạt thiền sư chính là Trịnh Bồng), tương truyền đã để lại mấy câu: Hai trăm năm đó đủ điều. Cơ đồ tựa tiếng chuông chiều vừa tan…
Tượng Bình An Vương Trịnh Tùng mặc triểu phục có bổ tử chạm hình kỳ lân
UY QUYỀN NHƯ “NƯỚC CHẢY VÀO CHỖ TRŨNG”
Trở lại chuyện phong thủy liên quan đến sự xuất hiện của các đời chúa Trịnh trong lịch sử Việt Nam qua hơn hai thế kỷ, một số các thầy địa lý và các nhà nghiên cứu phong thủy cho rằng, gò đất nơi chôn vùi mẹ Trịnh Kiểm không tách rời với dòng lưu chuyển của “thủy”. Mà “thủy” (nước) theo cụ Tả Ao chỉ rõ: Nước phân chữ bát phân minh. Hai bên chảy thuận, loan hình tống long. Cửa trời trên đã mở thông. Thượng phần là đấy chính long thực vào… Đại ý cho biết khi nước chảy từ Tổ sơn phân ra “chữ bát” thì nguồn nước đó đang trổ cửa cho long mạch chạy tới trước. Hễ long mạch chạy tới chỗ nào, nước sẽ theo đến chỗ ấy, khi gần khi xa, khi chia nhánh này, nhánh nọ, nhưng cuối cùng cũng đến chỗ nước tụ, tức là chỗ kết huyệt tốt (nước tống giao, hạ hợp). Cũng có những thế nước chảy không tốt, bất lợi, như chỗ nước gầm réo kêu thương (thủy khấp khốc) là nơi có huyệt xấu. Chỗ nào có Đào hoa thủy là sẽ có người đa tình, đa dâm. Chỗ nào nước chảy tràn lan như rèm cuốn (nội đường chi thủy, quyển liêm) là tiền tài sẽ tiêu tán. Chỗ nào nước chảy xuyên qua thành xoay quanh cuộc đất (thủy phản lộ, xuyên thành) là trước sau sẽ bị hại. Chỗ nào nước chảy cắt chân núi (thủy tà sơn túc) sẽ dẫn đến hao của, hại người… Suy ra chỗ gò đất ôm thi hài của mẹ Trịnh Kiểm nổi lên đột ngột giữa vực kia không nằm trong các thế nước chảy bất lợi nêu trên. Mà trái lại, như các thầy địa lý nói, nó báo trước sự hưng thịnh của tương lai Trịnh Kiểm, bắt đầu từ việc Trịnh Kiểm chạy đến thôn Cổ Lũng sau ngày mẹ chết thảm, để vào giúp việc dưới trướng Nguyễn Kim (ông tổ khai nghiệp các đời chúa Nguyễn).
Đồ gốm thời Lê Trịnh
Nguyễn Kim vốn là Điện tiền tướng quân của nhà Lê đã thâu nạp, trọng dụng Trịnh Kiểm và đem con gái của mình là Nguyễn Thị Ngọc Bảo gả cho. Cuộc hôn nhân này là bệ phóng đưa Trịnh Kiểm lên đỉnh cao quyền lực. Vì khi Nguyễn Kim mất (bị hàng tướng nhà Mạc đầu độc) toàn bộ binh quyền chuyển qua tay Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm năm ấy 42 tuổi, quyền uy rất lớn, lập hành điện ở Thanh Hóa cho vua Lê ở, chiêu tập hào kiệt làm chủ giang sơn phía Nam từ Thanh Hóa trở vào (gọi Nam triều) để chống lại nhà Mạc bấy giờ vốn đang làm chủ vùng đất từ Sơn Nam trở ra (gọi Bắc triều). Khi cuộc chiến Nam – Bắc triều còn đang tiếp diễn thì vua Lê Trang Tông mất, vua Trung Tông lên thay được 8 năm cũng mất, chưa có ai kế vị. Trong tình cảnh ấy, Trịnh Kiểm có ý muốn xưng làm vua nhưng còn lưỡng lự, chưa dám, mới sai sứ giả bí mật ra Hải Dương xin ý kiến cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng Trình lặng im một lúc không nói gì, rồi đột nhiên gọi người giúp việc trong nhà ra lớn tiếng bảo: “năm nay mất mùa, thóc giống không được tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo”. Xong lại sang bên chùa bảo mấy chú tiểu: “Hãy giữ chùa thờ Phật thì sẽ được ăn oản”. Hai câu nói ấy hàm ý rằng: hãy tìm con cháu vua Lê (tìm giống cũ) và hãy giữ ngôi nhà Lê (giữ chùa thờ Phật) sẽ được mưa móc, ngọt ngào (ăn oản). Trịnh Kiểm hiểu ý Trạng Trình, mới đi tìm cháu ruột của Lê Lợi là Lê Duy Bang đưa lên ngôi, còn mình vẫn giữ vị trí làm chúa, song thực quyền vẫn nằm hết trong tay như “nước chảy vào chỗ trũng”
Mục lục
Phần 6 : TRẠNG TRÌNH VỚI NHỮNG SẤM TRUYỀN LỊCH SỬ
Cho đến nay ở Việt Nam chưa có ai sánh được nổi tiếng về tài tiên tri và những sấm ký lưu truyền theo dòng lịch sử vẻ vang của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm .Ông trợ giúp không chỉ riêng chúa Nguyễn dựng nghiệp lớn với 9 đời chúa, 13 đời vua, mà vạch đường cho chúa Trịnh biết cách “ thờ Phật ăn oản ”, cho nhà Mạc chạy về “ ẩn tại Cao Bằng ”. Từ đâu Trạng Trình tiên đoán về thế sự và những vùng đất “ ẩn long ” hoặc sẽ “ vạn đại dung thân ” đúng chuẩn như thế ?
Nhà tiên tri bên sông Tuyết Hàn
Có thể nói, ngoài tài năng thiên phú “bất khả tư nghì” ra, ông còn được “đề dẫn” từ lúc trẻ bởi hai nhân vật lớn trong đời ông: người mẹ và người thầy của ông.
Về người mẹ, thân mẫu của Trạng là bà Nhữ Thị Thục ( con gái của quan thượng thư Nhữ Văn Lan ) là người tinh thông về khoa chiêm tinh và dịch lý, đã tự chấm lấy lá số tương lai và biết mình sẽ sinh quý tử. Nhưng muốn vậy, bà cần phải kết hôn với một người nào đó có cung mệnh tương ứng nên đợi chờ mãi đến ngưỡng cửa của tuổi 30 vẫn chưa lấy ai .Cuối cùng bà quyết định hành động tự tìm đến ông đồ nho nhà nghèo Nguyễn Văn Định để kết hôn, vì bà đã nhìn ra nơi ông đồ ở chốn thôn dã này là người sẽ cùng bà sinh ra một nhân tài. Tương truyền trong đêm hợp hôn có trăng sáng, bà ra ngoài trời lấy một cây trúc cắm giữa sân và dặn ông Văn Định khi nào ánh trăng chiếu xuống không còn thấy bóng dưới gốc trúc nữa mới được vào phòng hoa chúc .Nhưng ông Văn Định không đợi được, đã vội vào ăn nằm với bà khi dưới gốc trúc vẫn còn một chút ít bóng soi, nên bà trách chồng và bảo nôn nả như thế chỉ sinh được người con đỗ Trạng, chứ không gầy nên nghiệp đế. Người con đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, đỗ Trạng nguyên năm 1535 thời Mạc, làm quan đến Thượng thư Bộ Lại, Thái phó, là thầy dạy học của thái tử Mạc Phúc Hải, được phong tước Trình Tuyền hầu, Trình Quốc công, nên người đời thường gọi Trạng Trình và những tiên tri của ông được tập hợp với tựa : Trình Quốc công sấm ký …Về người thầy, Nguyễn Bỉnh Khiêm theo học với Bảng nhãn Lương Đắc Bằng – là một vị quan lớn thanh liêm, chính trực, từ quan rời kinh đô Thăng Long về quê nhà Thanh Hóa mở trường dạy học, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng theo thầy về xứ Thanh. Thầy Lương Đắc Bằng nắm giữ bộThái ất thần kinh và đã truyền cho Nguyễn Bỉnh Khiêm yếu chỉ của bộ sách đó, cùng những ứng dụng trong nghành nghề dịch vụ chiêm tinh và tiên đoán tương quan đến khoa địa lý và phong thủy .Sau này, khi biết trước sự nhiễu nhương của thời cuộc bên ngoài và đầu mối suy sụp trong nội tình nhà Mạc, Trạng Trình đã dâng sớ xin chém 18 kẻ lộng hành nhưng vua Mạc không chấp thuận đồng ý, ông treo mũ từ quan về quê, dựng am Bạch Vân bên bờ sông Tuyết Hàn .Chính ở đó, về sau những vua Mạc, chúa Trịnh và cả chúa Nguyễn đều lần lượt phái sứ giả đến yết kiến để xin cố vấn về những giải pháp trước mắt, hoặc tiên tri hướng dẫn về những điều hệ trọng tương quan đến sự sống còn của họ trong tương lai …
Vùng đất vương gia như sấm truyền
Nguyễn Hoàng là con trai của Nguyễn Kim. Nguyễn Kim là người có công lớn đã tập hợp quân tướng khởi nghĩa chống nhà Mạc cướp ngôi và giúp nhà Lê giành được đất Thanh Hóa, Nghệ An – lập nên triều Lê trung hưng.
Sau Nguyễn Kim bị tướng nhà Mạc đầu độc chết, quyền hành về tay con rể là Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm lo ngại những con trai của Nguyễn Kim ( là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng ) tranh mất quyền của mình nên đã tìm cách ám hại Nguyễn Uông trước. Thấy vậy Nguyễn Hoàng rất lo ngại, xem mình như chim cá trong lồng son, có ngày sẽ bị ám hại như anh mình ( Nguyễn Uông ). Vì thế Nguyễn Hoàng đã bí hiểm sai sứ giả tìm cách lặn lội ra ngoài Bắc, đến yết kiến Trạng Trình xin sấm giải. Trạng Trình dạy : “ Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân ” .
Vâng theo lời ấy, Nguyễn Hoàng nhờ chị ruột là Nguyễn Thị Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) xin với Trịnh Kiểm cho mình vượt Hoành sơn vào trấn thủ vùng Thuận Hóa để tránh xa “dao thớt” của người anh rể họTrịnh.
Lính Đàng Trong |
Được Trịnh Kiểm chấp thuận đồng ý và vua Lê được cho phép, Nguyễn Hoàng đem gia quyến rời Thanh Hóa năm 34 tuổi ( Mậu Ngọ 1558 ) và cùng tùy tướng của mình chỉ huy hàng nghìn quân bản bộ vượt biển để lại dải Hoành sơn phía sau, tiến về phương Nam ở phía trước, vào thẳng cửa Yên Việt, đóng dinh ở gò Phù Sa, xã Ái Tử, huyện Vũ Xương, thuộc địa phận tỉnh Quảng Trị ngày này .Những thập niên đầu trên vùng đất mới, Nguyễn Hoàng ra sức khai hoang lập ấp, không thay đổi dân tình, giữ quan hệ thuận thảo với vua Lê, chúa Trịnh ngoài Bắc, được vua Lê sắc phong làm Thái phó và giao toàn quyền quyết định hành động mọi việc ở vùng Thuận Hóa, định lệ nộp thuế 400 cân vàng bạc và 500 tấn lúa hằng năm .Nguyễn Hoàng mất năm Quý Sửu 1613, thọ 89 tuổi, trấn thủ đất Thuận Hóa – Quảng Nam trong 56 năm ( được truy tôn : Thái tổ Gia dụ nhà vua ), có 10 người con trai, trước khi mất dặn lại con cháu phải rất là giữ gìn đất Thuận Quảng .Vì đó là nơi phía Bắc có Hoành Sơn với thế núi chắn ngang che chở, phía Nam có Hải Vân hùng vĩ là yết hầu đưa sinh khí vào “ vùng đất vương gia ” ( tức kinh thành Phú Xuân – Huế sau này ). Có giữ vững Thuận Quảng mới mong dựng nên cơ nghiệp muôn đời như sấm ký của Trạng Trình truyền lại “ Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân ” .Theo những nhà viết sử có uy tín như Trần Trọng Kim “ núi Hoành sơn tức núi Đèo Ngang ở Quảng Bình ” vốn là một nhánh của dãy Trường Sơn đùng một cái kéo đâm ra sát biển. Đứng từ đỉnh điểm nhất của Hoành Sơn ( khoảng chừng 250 m ) nhìn bao quát sẽ thấy hiện lên dưới tầm mắt màu xanh ngút ngàn của rừng núi phía Tây, biển rộng bát ngát trải dài như tấm thảm xanh về phía Đông, thấp thoáng những hòn hòn đảo nhỏ nhô lên mặt nước như đang chầu về “ sơn lâm ” .Con đường xuyên Đèo Ngang thời trước nằm trên đường thiên lý, cách Đồng Hới khoảng chừng 80 cây số, chạy ngoằn ngoèo qua những sườn đồi cheo leo, men theo vực sâu, đưa người hành trình dài theo chiều dọc từ hướng Bắc vào Nam. Nhìn dưới góc nhìn phong thủy, Hoành Sơn đi vào những tài liệu điều tra và nghiên cứu về địa lý xưa và cả thời nay .Ngay những tác giả người quốc tế như học giả Léopold Cadière, chủ bút tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Hue, khi luận về những cụ thể phong thủy ứng dụng xây kinh thành Huế đã nhắc đến “ Hoành Sơn che chở ” từ xa so với nhà Nguyễn. Những nhà sử học, địa lý học khi viết đến lịch sử dân tộc triều Nguyễn đều nhắc “ Hoành Sơn ” thời khởi nghiệp .
Cảnh hoạt động và sinh hoạt đi dạo ( đá cầu ) tại một làng Đàng TrongNhà phong thủy học Cao Trung khi luận về long mạch trong Tả Ao địa lý toàn thư đã đưa “ Hoành Sơn ” vào nội dung nghiên cứu và phân tích và nêu rõ hai phần trong khoa địa lý gồm : Loan đầu và Lý khí. Phần Loan đầu là những gì mắt ta nhìn thấy trên đất đai của toàn thể một cuộc đất kết, hoặc một dòng nước thuận nghịch, một thế núi quanh co .Nếu cơ nghiệp chúa Trịnh mở màn với mối liên hệ về một cuộc đất thuộc vùng “ thủy ” ( nước ), thì cơ nghiệp chúa Nguyễn mở đầu với mối liên hệ thuộc vùng “ sơn ” ( núi ). Nói về “ sơn ”, cụ Tả Ao diễn giải nếu thấy núi hình thành theo dạng “ một vòng bọc lại ” ( nhất trùng bão khóa ) rồi “ một vòng mở ra ” ( nhất trùng khai ) thì ở đó có đất công hầu. Nếu lại thấy một dạng núi “ vòng ôm ” ( nhất sơn loan bão ) rồi “ ngoảnh lại ” ( nhất sơn cố ) là ở đó có đất công khanh .Trong tập Địa lý gia truyền, cụ Tả Ao cũng chỉ rõ nếu thấy núi cao bao quanh một vùng thì hãy tìm huyệt ở chỗ thấp ( chúng sơn cao tầm đê ) – còn chung quanh đều thấp thì hãy tầm huyệt ở chỗ cao ( chúng sơn đê tầm cao ) .
Đối chiếu và liên tưởng tới trường hợp “Hoành Sơn”, những chỉ dẫn phong thủy và địa lý nêu tổng quát ở trên cũng cho ta thấy qua phần “loan đầu” (có thể nhìn trực tiếp bằng mắt để đoán định), sau đó đến phần “lý khí” (liên quan đến lý học, thiên văn) chắc hẳn những gì nêu trongThái ất thần kinh đã được vận dụng bởi nhà văn hóa, nhà tiên tri lừng danh nhất trong lịch sử Việt Nam: Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhờ vậy, cộng với khả năng thiên phú, Trạng Trình đã chỉ đúng con đường phải đi cho chúa Nguyễn.
BÀI 7: NGỌN ĐỒI THIÊNG CỦA NHÀ NGUYỄN
ĐÓ LÀ ĐỒI HÀ KHÊ NỔI DANH VỀ PHƯƠNG DIỆN PHONG THỦY VỚI THẾ ĐẤT “RỒNG CUỘN HỔ NGỒI” (LONG BÀN HỔ CỨ) TỪNG CHIẾM VỊ TRÍ ĐẶC BIỆT TÔN NGHIÊM TRONG TÂM THỨC VÀ KÝ ỨC CỦA CÁC VUA CHÚA NHÀ NGUYỄN…
Chùa Thiên Mụ trên đồi Hà Khê
Nơi dồn tụ linh khí
Sau ngày dẫn quân bản bộ vượt biển vào đất Quảng Trị để gầy dựng một giang sơn riêng nằm về phía Nam của dải Hoành Sơn, chúa Nguyễn Hoàng đã mở cuộc dò tìm địa thế, đi xem xét hình thể núi sông vùng tả ngạn sông Hương và phát hiện:
“ Giữa đồng bằng xã Hà Khê ( cách TT TP. Huế lúc bấy giờ khoảng chừng 5-6 cây số về hướng Tây ) nổi lên một gò cao ( đồi Hà Khê ) có hình tựa như đầu một con rồng đang ngoảnh lại, phía trước đồi có con sông lớn uốn khúc bọc quanh, phía sau có hồ nước lớn, tạo thành cảnh sắc tốt tươi. Nhân đó, chúa thượng hỏi chuyện người địa phương, họ đều nói rằng gò nầy rất thiêng, tục truyền một đêm kia bỗng có một bà già mặc áo đỏ quần xanh hiện ra trên đỉnh gò nói rằng : “ Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến xây chùa trên gò này để kết tụ khí thiêng và giữ bền long mạch ”. Nói xong liền biến mất, người trong vùng gọi bà là Thiên Mụ – tức bà già ở cõi trời xuống. Chúa ( Nguyễn Hoàng ) cho nơi ấy có linh khí, mới dựng chùa, gọi là chùa Thiên Mụ ” ( theo Quốc sử quán triều Nguyễn – Đại Nam thực lục ) .Những học giả phương Tây như A. Bonhomme cũng đề cập tới việc Nguyễn Hoàng đi dò long mạch “ không một hòn núi nào mà ngài không đặt chân đến – không một dòng sông nào mà ngài chẳng lưu tâm ” để rồi tìm ra thế đất tốt của đồi Hà Khê và lập chùa Thiên Mụ trên ấy, dẫn đến những câu truyện được dân gian thần bí hóa như : “ khi chùa xây xong chưa bao lâu thì có một con rùa khá lớn từ dưới sông Hương bò lên đồi Hà Khê để vào khuôn viên chùa cư trú và mỗi lần khát nước rùa lại bò về hướng hồ nước sau chùa để uống, dần dà rùa đã làm đổ hàng rào ( La thành cao 2,30 m ) phía sau chùa. Con rùa kỳ quặc trên đã bị sét đánh trong một cơn giông hãi hùng và bị hóa đá tại chỗ, đến nay vẫn nằm đó ” ( tạp chí BAVH-1915 ) .Cạnh những câu truyện dân gian tựa như như đã nêu, thực tiễn lịch sử vẻ vang cho thấy đồi Hà Khê và ngôi Quốc tự Thiên Mụ được rạng rỡ hoặc bị điêu tàn cũng tùy theo thịnh suy của từng thời .
Chùa Thiên MụRạng rỡ nhất là thời Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu với hàng chục khu công trình kiến trúc mới, cho đúc đại hồng chung, tức quả chuông lớn nhất thời ấy ( 1710 ) nặng đến 2.052 kg, cao 2,50 m, đường kính ở miệng rộng 1,34 m .Tiếng đại hồng chung này đã đi vào ca dao : Gió đưa cành trúc la đà / Hồi chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương và vang vào hồn thơ của vua Thiệu Trị sau này để nhà vua viết bài thơ Thiên Mụ chung thanh ( Tiếng chuông Thiên Mụ ) với mấy câu khởi đầu : “ Thiên Mụ tự, Đình độc trừ tinh. Sơn xuyên Linh sàng. Long bàn hồ thủ đao củng kinh thành. Hổ khiếu cao tôn phủ lâm Hương phái ”. Nghĩa là chùa Thiên Mụ là nơi kết tụ linh khí của trời đất và núi sông, nơi rồng uốn khúc nhìn lại chốn kinh thành ( long bàn hồi thủ ) và nơi cọp ngồi trên cao cất tiếng rống vang động cả dòng sông bên dưới ( hổ khiếu cao tôn ) .Rõ ràng nhà vua đã nói đến thế đất “ long bàn hổ cứ ” của đồi Hà Khê. Nếu không có đồi Hà Khê chắc như đinh sẽ không có chùa Thiên Mụ như ta đã thấy. Chùa được trùng tu năm 1665 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần, năm 1738 – 1744 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát nữa. Các tác giả biên soạn tập Thần Kinh nhị thập cảnh – thơ vua Thiệu Trị ( NXB Thuận Hóa 1997 ) cho biết chùa tọa lạc trên đồi Hà Khê là “ một ngọn đồi chạy theo hướng Bắc Nam, có mặt phẳng gần như hình chữ nhật, kích cỡ 313 m x 76 m ( … ) vị trí của chùa đúng là “ sơn triều thủy tụ ” rất là hữu tình .
Từ xa nhìn lại, đồi Hà Khê tựa như hình dáng một con rùa khổng lồ, cõng trên lưng ngôi chùa cổ kính đang cúi đầu xuống để uống nước sông Hương”. Một tác giả khác ghi rõ: “trong viễn tượng địa lý phong thủy xưa thì chùa Thiên Mụ tọa ở phương vị “Cấn” (Tây – Bắc) để hướng về phương vị “Tốn” (Đông – Nam) đúng với hướng của kinh thành Phú Xuân”.
Sông Hương nhìn từ đồi Hà KhêĐiêu tàn nhất là thời quân Trịnh từ phía Bắc tràn vào chiếm Phú Xuân ( 1774 ) và thời Tây Sơn tiếp đó ( 1786 – 1801 ) đã đẩy cơ nghiệp gầy dựng hơn 200 năm sụp đổ khiến chúa Nguyễn phải chạy về phía Nam, để lại đồi Hà Khê hoang vắng và cảnh chùa Thiên Mụ tàn tạ trong binh lửa. Trọng thần của nhà Tây Sơn là Phan Huy Ích khi đến đó đã ngậm ngùi ghi nhận những đổ nát, nền chùa bị san bằng để làm đàn tế lễ .Khi vua Gia Long Phục hồi Phú Xuân và lên ngôi ( 1802 ) đã cho tôn tạo lại chùa Thiên Mụ ( 1815 ) và nói với quần thần đại ý rằng : “ đây là nơi rất thiêng của tiên đế ta đã chọn ”. Vua Minh Mạng liên tục khu công trình ( 1831 ) và những đời Thiệu Trị, Thành Thái, Khải Định đều có dựng bia ở chùa, nay vẫn còn .
Nơi “Sơn triều thủy tụ”
Khoa phong thủy ngày nay được hỗ trợ và soi sáng thêm bởi một số ngành khoa học như địa chất học và khảo cổ học. Về địa chất học, tài liệu của Hà Xuân Dương cho biết đồi Hà Khê là một khối đá hoa cương nằm trong dãy núi đá vôi vùng Long Thọ – Lại Bằng.
Dưới chân đồi có một vực nước rất sâu với dải đá nhọn lởm chởm dưới đáy. Đó là tác dụng của quy trình cấu trúc địa chất trong khu vực đồi Hà Khê. Cụ thể, dòng nước ngầm dưới đáy sông Hương chảy qua hàng thiên niên kỷ đã bào mòn lớp đá vôi để lộ ra phần đá hoa cương trưởng thành. Vì thế, khi sông Hương chảy đến đó không hề băng qua được, nên phải lượn vòng trước mặt đồi, góp nước từ xa đổ về vực sâu, tạo thành thế “ thủy tụ ” .Từ đỉnh đồi nhìn xuống, chỗ “ thủy tụ ” như một quốc tế huyền ảo vào những ngày đầu thu sương giáng và lộng lẫy ánh nguyệt vào những đêm rằm, mà có lẽ rằng nhạc sĩ Văn Cao từng giong thuyền đến đó nên đã viết : Một đêm đàn lạnh trên sông Huế – Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh …Từ đỉnh đồi nhìn lên, thấy xa xa hiện rõ dãy núi “ trấn sơn ” Kim Phụng : “ dãy núi này rất cao, ở về phía Tây Nam. Nó cùng chạy với Trường Sơn hùng vĩ, nhưng vào đến sơn phận của huyện Phong Điền thì một ngọn đồi tách khỏi dãy Trường Sơn để chạy xuyên theo hướng Đông Nam vào đến tận sơn phận của làng Cổ Bi ” .Từ đó, trên đường đi, sơn mạch của dãy núi ấy có đoạn nổi lên ( thành rú Lại Bằng ), có đoạn lại chìm xuống dưới những cánh đồng, rồi nổi lên lần nữa thành gò, thành đồi – cứ thế lê dài ra trông như một con rồng đang uốn lượn lên xuống qua nhiều núi, nhiều rừng ( như Phụ Ô, Bồn Trì, Bồn Phổ ) cho đến “ xã Hà Khê thì đột khởi thành đồi Hà Khê ( … ) mà người ta thường cho là “ đầu rồng nhìn ngoảnh lại ” tức là thế đất “ long hồi cố tổ ” trong khoa địa lý phong thủy ” ( Hà Xuân Dương – Kiến trúc chùa Thiên Mụ ) .
Bên trong chùa Thiên Mụ
Hậu viện chùa Thiên MụĐến cuối thế kỷ 20, chùa Thiên Mụ trên đồi Hà Khê là một trong những di tích lịch sử quan trọng đã góp thêm phần cùng thành quách, hoàng cung, lăng tẩm tạo nên diện mạo và giá trị của Quần thể di tích lịch sử Huế – một quần thể tiên phong của Việt Nam được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa truyền thống quốc tế vào năm 1993 .Đó không chỉ là danh lam thắng cảnh tuyệt vời của quốc gia, mà theo nhiều nhà nghiên cứu đã tác động ảnh hưởng sâu đậm “ đến cả cuộc tồn vong của một nền văn hóa truyền thống ” và “ đã gắn liền đời sống tâm linh của dòng họ Nguyễn từ vị chúa tiên phong cho đến vị vua ở đầu cuối ” ( Phan Thuận An ) .Hoặc như đánh giá và nhận định của Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm trong khu công trình biên soạn về Phật giáo xứ Huế : “ Sở dĩ chùa Thiên Mụ ngày càng có tác động ảnh hưởng lớn là vì ngọn đồi Hà Khê – nơi có sơn triều thủy tụ, có long mạch phát đế vương cho dòng họ chúa Nguyễn và triều Nguyễn kể từ 1558 ( năm Nguyễn Hoàng vào trấn Thuận Hóa ) cho đến 1945 ( năm vua Bảo Đại thoái vị ) ” – theo đó tính ra, họ Nguyễn có ngót 387 năm đăng quang, thăng trầm và sống sót trong lịch sử vẻ vang vương quyền Việt Nam .
Phần 8 : TRỜI GIAO ẤN KIẾM CHO NGƯỜI TÂY SƠN
BƯỚC ĐẦU DẤY NGHIỆP CỦA NHÀ TÂY SƠN GẮN LIỀN VỚI NHIỀU CÂU CHUYỆN PHONG THỦY RẤT SỐNG ĐỘNG VỀ ĐỊA THẾ CỦA VÙNG ĐẤT CÓ NÚI NON TRÙNG ĐIỆP Ở HAI BỜ SÔNG CÔN VÀ LUÔN TỒN TẠI SONG SONG VỚI CÂU SẤM TRUYỀN LỊCH SỬ VÀO THUỞ ẤY: “TÂY KHỞI NGHĨA – BẮC THU CÔNG”…
Có một “Hoành Sơn” ở phương Nam
Thường mỗi khi nhắc hai tiếng “Hoành Sơn” ở phía Bắc (tỉnh Quảng Bình) người ta liên tưởng đến cơ nghiệp nhà Nguyễn. Song cũng có một “Hoành Sơn” khác nữa nằm sâu ở phía Nam (tỉnh Bình Định) vốn là nơi huyệt kết phát vượng của anh em nhà Tây Sơn. Núi Hoành Sơn chạy dài và tỏa rộng về phía đường quốc lộ với hai dòng suối (Đồng Tre và Chi Lưu) đưa nước uốn quanh dưới chân (thủy tụ). Mộ của ông bà Nguyễn Phi Phúc – song thân của Tây Sơn tam kiệt tức ba anh em: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ – nằm trên đó. Song không ai biết chính xác mộ ở vị trí nào trong núi. Đến nay, nơi huyệt tang ông bà Nguyễn Phi Phúc vẫn là điều bí ẩn.
Ấn vua Quang Trung (sắc lệnh chi bảo) |
Chuyện thứ hai cho rằng, thầy địa lý người Nước Trung Hoa khi đến vùng Tây Sơn để dò tìm long mạch và chỗ huyệt kết đã ở tại nhà của Nguyễn Nhạc. Hằng ngày, thầy đi lùng kiếm khắp vùng, đem theo chiếc la bàn, tấm vải điều màu đỏ và một chiếc gậy đẽo từ gỗ của một cây đại thọ trăm năm. Hết chỗ này đến chỗ khác thầy vẫn không vừa lòng, sau cuối thầy địa lý để tâm đến hòn Hoành Sơn .Nguyễn Nhạc dò biết nên bí mật kín kẽ theo sau thầy địa lý và phát hiện được nơi huyệt kết. Khi thầy địa lý về lại Trung Quốc để hốt cốt thân sinh của mình đem đến chỗ huyệt kết để chôn, bấy giờ Nguyễn Nhạc tìm cách đánh đổi : “ Đến ngày đã chọn, thầy Tàu lén đem chiếc tráp ( có tro cốt ) cùng địa phận đi lên Hoành Sơn, vừa đến chân núi thì một con cọp tàu cau to lớn ở trong bụi, gầm một tiếng, nhảy ra vồ. Thầy Tàu hết hồn, quăng tráp và địa phận ( dùng dò hướng đất theo thuật phong thủy ) mà chạy. Hồi lâu không thấy cọp đuổi theo, liền quay lại chỗ cũ. Thấy chiếc tráp và địa phận còn nằm lăn lóc đó, thầy mừng như chết đi sống lại, vội trực chỉ lên nơi long huyệt đã tìm ra. Chôn cất xong xuôi, thầy hớn hở trở về Trung Quốc, không ngờ rằng chiếc tráp thầy chôn vốn đựng di hài Nguyễn Phi Phúc và con cọp kia chỉ ( là cọp giả ) có lớp ngoài mà thôi ” .Đó là đoạn văn kể về sự tích phong thủy Hoành Sơn của nhà thơ Quách Tấn ( 1910 – 1992 ) trong một tài liệu viết về di tích lịch sử và thần thoại cổ xưa nhà Tây Sơn với Tóm lại rằng hai câu truyện trên tuy có vài chi tiết cụ thể không giống nhau, tuy nhiên “ đều đồng một điểm chính là cho biết mộ Nguyễn Phi Phúc chôn ở Hoành Sơn ” .Hoành Sơn còn gọi là núi Ngang, cao hơn 360 thước, có núi Ông Bình làm hậu tẩm, núi Ông Đốc với hình dạng “ giống như một con hổ phục, đầu ngó lên Hoành Sơn. Núi Ông Đốc không cao và tuy giống hình cọp, tuy nhiên ngó bộ hiền lành như con cọp tu hành truyền kiếp. Nơi triền phía bắc hiện có một ngôi chùa thờ Phật. Đó là điềm “ hổ cứ ”. Còn “ long bàn ” là hai nhánh của con sông Côn, một từ phía tây chảy xuống, một từ phía tây nam chảy ra, hợp nhau tại địa đầu thôn Phú Phong, trông như hai cánh tay ôm choàng lấy cuộc đất của Hoành Sơn vậy ” .
Một vùng núi bút non nghiên…
Hoành Sơn là nơi được các thầy địa lý của Trung Hoa cũng như của Việt Nam công nhận là đại địa “vì có, nào bút nào nghiên, nào ấn nào kiếm, nào cổ (trống) nào chung (chuông), ở bên tả bên hữu… trước mặt trên ba nổng gò, đã mọc giăng hàng giống như những toán quân đứng chầu về. Và xa xa có hổ phục long bàn”. Bằng những phân tích địa thế phong thủy, Quách Tấn chứng minh những điều nêu trên là xác thực, vì:
– Bút đó là hòn Trung Sơn ở bên Phú Lạc, xa trông phảng phất như ngòi bút chép mây.
– Nghiên đó là hòn Hội Sơn tục gọi là hòn Dũng, trong địa phận Trinh Tường về phía Nam, đứng đối trí cùng hòn Trung Sơn ở phía Bắc.
Vua Quang Trung do Càn Long sai thợ vẽ ( thật ra đây là Phạm Công Trị – Người đóng già vua Quang Trung đi sứ lúc đó )
Hòn Hội Sơn cao hơn 490 m nhưng trông đầy vẻ uy nghiêm “ trên núi có một vũng nước vừa rộng vừa sâu, quanh năm không khi nào cạn. Người địa phương lên đó vỡ đất làm ruộng, đất tốt không kém dưới đồng bằng ( nhờ nước vừa đủ ). Vì núi có vũng nước nên đám tầm trung gọi núi là hòn Vũng ( thay vì hòn Dũng ). Còn đám hàn mặc ( nho sinh ) thì coi vũng nước là nghiên mực của trời nên đặt cho núi một tên nữa là Nghiên Sơn tức hòn Nghiên vậy, hòn Nghiên và hòn Bút nằm bên hữu bên tả hòn Hoành Sơn trông cân đối ”, tương thích với câu ca :
Một vùng núi Bút non Nghiên
Trời giao ấn kiếm cho miền Tây Sơn.
Cuộc đất tốt như vậy phối hợp lời sấm truyền do thầy dạy học của ba bạn bè nhà Tây Sơn là cụ giáo Hiến thông tin, rằng : “ Tây khởi nghĩa – Bắc thu công ”, đã tạo sức mạnh tâm linh thúc giục Tây Sơn tam kiệt khởi binh. Tây khởi nghĩa tức là dựng cờ nổi dậy ở vùng núi hướng tây – vùng Tây Sơn. Bắc thu công là thành công xuất sắc lớn ở hướng bắc, lên ngôi nhà vua ở Phú Xuân ( Huế giờ đây ) năm 1788 và tiến ra Bắc đánh thắng quân Thanh xâm lược năm 1789 …
Tượng vua Quang Trung ở Quy Nhơn |
Trong bài này chúng tôi chọn trích dẫn phong thủy nhà Tây Sơn hầu hết theo tài liệu của Quách Tấn là vì trước hết mái ấm gia đình ông đã trải qua chín đời ở ấp Tây Sơn hạ, ông viết : “ Tây Sơn là dãy núi phía Tây tỉnh Tỉnh Bình Định thuộc mạng lưới hệ thống Trường Sơn ( … ) vì núi ca tụng là Tây Sơn nên những vùng sơn cước bình nguyên ở chung quanh cũng gọi là vùng Tây Sơn. Trước kia gọi là ấp Tây Sơn với ba phần : Tây Sơn thượng, Tây Sơn trung và Tây Sơn hạ ” .Những gì ông viết ra về địa lý, phong thủy của vùng đất Tây Sơn cũng như những câu truyện truyền khẩu tương quan đều do chính ông nghe nội tổ và song thân cùng những vị phụ lão ở quê ông kể lại, ra mắt qua cuốn tài liệu “ Quang Trung – Nguyễn Huệ ”, nhiều tác giả, do NXB Văn hóa Hồ Chí Minh tích hợp Tạp chí Xưa và Nay ấn hành 2008, nêu rõ trong khu vực Hoành Sơn “ sát chân núi ngay phía đông, khoảng chừng giữa nổi lên một trảng đất. Trong khoảng chừng này, dáng núi lại hơi cong cong. Đứng phía trước trông vào thì giống một chiếc ghế bành vĩ đại, mà sống lưng và tay dựa vào núi, mặt ghế là trảng đất. Trên trảng nằm song song hai nấm mộ bằng đá, hình chữ nhật. Vua Gia Long ngờ rằng đó là phần mộ của ông bà Nguyễn Phi Phúc, song thân của vua Tây Sơn, nên truyền quan địa phương khai thác. Nhưng khi đào lên tro cốt không thấy đâu cả, mà chỉ thấy bốn chum dầu phụng đã sống lưng, trong mỗi chum có một ngọn đèn chong chóng đương cháy ” .Như vậy, đến nay dấu tích về mộ của ông bà Nguyễn Phi Phúc vẫn còn sầm uất. Những ngọn đèn dầu phụng đã bị nhà Nguyễn ( Gia Long ) thổi tắt, nhưng sự nghiệp của nhà Tây Sơn vẫn cháy đỏ trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Nếu tính từ lúc dấy nghiệp vào năm Mậu Tuất 1778 là năm Nguyễn Nhạc xưng đế hiệu ( niên hiệu Thái Đức ), gọi thành Đồ Bàn là Hoàng đế thành, đến lúc suy vong vào năm Nhâm tuất 1802, thì nhà Tây Sơn sống sót 24 năm .
Nếu tính từ năm vua Quang Trung lên ngôi thì chỉ kéo dài có 14 năm (1788-1802). Dầu ngắn ngủi nhưng nhà Tây Sơn đã để lại một dấu ấn sâu đậm qua chiến công của thiên tài quân sự Nguyễn Huệ dẫn đại quân tiến vào Thăng Long, đánh thắng hai mươi vạn quân Thanh xâm lược vang dội đến nay – ứng đúng câu sấm truyền Tây khởi nghĩa – Bắc thu công…
Xem thêm: Khoa học và tâm linh
Phần 9 : BA LẦN CHỌN ĐẤT LẬP ĐÔ CỦA QUANG TRUNG
Source: https://thevesta.vn
Category: Tâm Linh