Tâm linh là một đối tượng nghiên cứu của khoa học và Triết học.pdf (Nghiên cứu tôn giáo) | Tải miễn phí

Tâm linh là một đối tượng nghiên cứu của khoa học và Triết học

pdf

Số trang Tâm linh là một đối tượng nghiên cứu của khoa học và Triết học
12
Cỡ tệp Tâm linh là một đối tượng nghiên cứu của khoa học và Triết học
174 KB
Lượt tải Tâm linh là một đối tượng nghiên cứu của khoa học và Triết học
0
Lượt đọc Tâm linh là một đối tượng nghiên cứu của khoa học và Triết học
14
Đánh giá Tâm linh là một đối tượng nghiên cứu của khoa học và Triết học

4.9 (
21 lượt)

12174 KB

Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu

Đang xem trước 10 trên tổng 12 trang, để tải xuống xem không thiếu hãy nhấn vào bên trên

Chủ đề tương quan

Tài liệu tương tự

Nội dung

Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 – 2015

22
HỒ BÁ THÂM

*

TÂM LINH LÀ MỘT ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
CỦA KHOA HỌC VÀ TRIẾT HỌC
Tóm tắt: Trong bài này, tiếp theo bài trước (Tìm hiểu các định
nghĩa khác nhau về tâm linh1), tác giả muốn làm rõ tâm linh là đối
tượng nghiên cứu của cả khoa học và triết học. Qua đó đưa ra
quan niệm và ý nghĩa về duy vật tâm linh (chủ nghĩa duy vật tâm
linh) như một giả thuyết nghiên cứu các hiện tượng tâm linh hiện
nay, nghĩa là xét vấn đề theo một hệ thống quan niệm chung, nhất
quán có tính triết học.
Từ khóa: Quan niệm, ý nghĩa, duy vật, tâm linh, triết học.
1. Vấn đề đặt ra
Về mặt triết học, xét theo vấn đề cơ bản, chủ nghĩa duy vật không
công nhận và bác bỏ linh hồn, thần thánh dựa trên khoa học, nhưng hầu
hết các hiện tượng tâm linh (bí ẩn và thiêng hóa vẫn tồn tại khách quan
đối với cả những người theo chủ nghĩa duy vật) và hiện tượng bí ẩn trong
vũ trụ, trong não người vẫn còn đó. Giải mã được bí ẩn này thì bí ẩn khác
xuất hiện.
Khoa học… và triết học duy vật biện chứng nhân văn tiếp tục nghiên
cứu, khám phá các hiện tượng còn bí ẩn và cả thực tại tâm linh của những
cộng đồng người, không chỉ để bác bỏ linh hồn, thần thánh, tư tưởng duy
linh (vạn vật có linh hồn, hay có ý thức như con người) mà còn xây dựng
hệ quan niệm, quan điểm đúng đắn, chung nhất ứng xử với các hiện
tượng tâm linh (theo nghĩa thiêng hóa) thể hiện tầm cao trí tuệ và văn hóa
văn minh của loài người của từng dân tộc… Khía cạnh thứ hai này, theo
tôi, còn quan trọng hơn.
Chủ nghĩa duy vật hay khoa học bác bỏ linh hồn thần thánh nhưng
không bác bỏ tâm linh, không những tâm linh vừa có mặt thiêng hóa, tôn
thờ, ứng xử cụ thể như tôn giáo… vừa có mặt (sức mạnh bí ẩn, siêu việt)
là gốc của vấn đề vốn không phải gắn liền hoàn toàn với tôn giáo. Đồng
*

Tiến sĩ, Thành phố Hồ Chí Minh.

Hồ Bá Thâm. Tâm linh là một đối tượng…

23

thời, chúng ta còn thấy hiện tượng tâm linh, thiêng hóa, tôn giáo còn là
một thực tại cần nghiên cứu. Đúng là, người nghiên cứu, dù có tin hay
không tin vào “linh hồn” và “thế giới bên kia”, thì vẫn được/bị chứng
kiến “đời sống tâm linh” của những cộng đồng người chung quanh mình
như một thực tại khách quan, có thể và cần phải tìm hiểu, nghiên cứu (Lại
Nguyên Ân). Chính khoa học và chủ nghĩa duy vật phải có thái độ ứng
xử văn hóa với đời sống tâm linh, nghiên cứu, lý giải, thuyết phục, thấy
tính nhân bản, nhu cầu cần thiết của nó nói chung.
Còn “Chứng minh có sức thuyết phục về tâm linh? Đây là vấn đề rất
trừu tượng, không nhìn thấy, không nghe thấy, không ngửi thấy, có người
nói nó như không khí ấy, là có thật, nhưng không nhìn thấy, không ngửi
thấy, không nghe thấy,…” ư? Tâm linh cả khách quan và chủ quan đều
thuộc về “cái vô hình”, như quan niệm Phật giáo và khoa học hiện đại đã
chỉ ra (nên không nhìn thấy, không ngửi thấy, không nghe thấy, không sờ
thấy…). Nhưng không phải là cái vô hình thì thuộc duy tâm còn cái hữu
hình/ vật mới thuộc duy vật như có người hiểu lầm, vì có vật chất vô hình
(vẫn thuộc phạm trù vật chất, tất nhiên rồi). Ngay ý thức, tinh thần là vô
hình, nhưng vẫn có khoa học nghiên cứu cái vô hình: khoa học tinh thần,
triết học tinh thần.
2. Tâm linh và đời sống tâm linh
Các nội dung đã trình bày trong bài “Tìm hiểu các định nghĩa khác
nhau về tâm linh” (Nghiên cứu Tôn giáo, số 11/2014) cho thấy có hai
cách tiếp cận và hai xu hướng chính nghiên cứu về tâm linh và đời sống
tâm linh sau đây:
Một là, nặng về loại tâm linh tôn giáo, thậm chí lĩnh vực “giao tiếp với
cõi âm”;
Hai là nặng về lĩnh vực tâm linh ngoài tôn gíáo, linh hồn, tức nhấn
mạnh việc linh diệu, lạ thường, thăng hoa của sự giao thao giữa vô thức,
tiềm thức, siêu thức với hữu thức: lóe sáng, trực giác, tiên tri, hậu tri…,
không chỉ trong sáng tạo khoa học, văn học nghệ thuật mà cả trong đời
sống hằng ngày.
Cả hai xu hướng này đều đúng, tuy nhiên xu hướng này không phủ
nhận xu hướng kia, mà bao hàm mức độ nhất định xu hướng kia, chỉ khác
là nhấn mạnh mặt chủ yếu của nó mà thôi (như chúng tôi đã trình bày khi
bàn về các khái niệm tâm linh).

24

Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 – 2015

Cần nói thêm, xu hướng thứ nhất là xu hướng nhận thức tâm linh
truyền thống và ở Việt Nam cũng còn nặng về xu hướng này. Còn xu
hướng thứ hai rất mới, không chỉ là đề xuất của một số chuyên gia trên
thế giới mà cả ở Việt Nam cũng có. Và có lẽ trong tương lai, xu hướng
thứ hai này ngày càng chiếm ưu thế hơn, có triển vọng hơn chăng?
Như chúng tôi đã có dịp trình bày, theo Roberto Assagioli, con người
chỉ biết hướng vào thế giới vật chất bên ngoài mà lãng quên thế giới bên
trong, cái tâm linh với những cái thiêng liêng, cái cao cả, cái siêu việt,
những cái dần dần mất đi và như vậy con người dần dần tự đánh mất
mình, đây là điều tệ hại nhất đối với sự tồn tại của con người như nhận
xét của chính tác giả. Ông muốn lập lại thế cân bằng của cả mặt hướng
ngoại và hướng nội của đời sống con người .
Tác giả này coi tâm linh là một tồn tại hiện thực cần nghiên cứu theo
phương pháp tâm lý học và chống lại việc khai trừ hiện tượng tâm linh ra
khỏi phạm vi nghiên cứu khoa học và giải phóng nó ra khỏi rào chắn của
các thiên kiến bị dồn nén trong các tôn giáo, triết học và các hệ tư tưởng
thần bí khác nhau, ông đã đề xướng một hướng nghiên cứu thực nghiệm
về nó, phương pháp tổng hợp tâm lý coi con người là một thực thể sinh
học – tâm lý – tâm linh, từ đó tạo ra phương pháp vững chắc để phát triển
cá nhân. Roberto Assagioli coi con người là một nguyên tử có cấu tạo tương tác giữa cấu trúc sinh học với cấu trúc tình cảm, tinh thần, tâm linh
có tổng số năng lượng xuyên cả vũ trụ, con người là một hành tinh, một
vũ trụ vi mô vĩnh viễn sinh thành, như một hệ thống mở với một sự sống
vô hạn mà con người phải tự mình khám phá (rất giống tư duy cầu tính
cổ Phương Đông – HBT).
Vấn đề tâm linh, siêu thức là mạch ngầm trong đời sống tinh thần con
người, được xem xét cả ba chiều: chiều văn hóa, chiều khoa học, chiều cá
nhân từ chiều sâu đến đời thường trong sự vận động phong phú, sinh
động của nó (xem: Con người một tiểu vũ trụ – Con người sinh thái, con
người tâm linh trên Chungta.com, hoặc trong sách: Hồ Bá Thâm (2005),
Phương pháp luận duy vật nhân văn nhận biết và ứng dụng, Nxb. Văn
hóa Thông tin, Hà Nội).
Không thể “khai trừ hiện tượng tâm linh ra khỏi phạm vi nghiên cứu
khoa học”. Theo Roberto Assagioli, trên thế giới đang hình thành một
nhánh khoa học mới: Tâm lý học chiều cao2, nghiên cứu quá trình chuyển
siêu thức vào cái trường ý thức thông thường với các mô thức: 1- Trực

24

Hồ Bá Thâm. Tâm linh là một đối tượng…

25

giác; 2- Tưởng tượng; 3- Lóe sáng; 4- Phát hiện; 5- Ngẫu hứng; 6- Sáng
tạo; 7- Hiểu và lý giải3.
Sự phát triển của cái tâm linh như thế nào. Tâm linh hay cái siêu thực
thường là cái tiềm ẩn trong đời sống tinh thần, do những tác động ngoại
cảnh có thể trở nên sống động, trải qua một quá trình lâu dài, khó khăn
mà ở đó năng lực tâm linh trước không hoạt động bây giờ trở nên sinh
động và sáng tạo đã làm cho sự khủng hoảng, làm rối động thần kinh tâm
thần.
Quá trình đó là: 1- Các cuộc khủng hoảng trước sự thức tỉnh tâm linh;
2- Các cuộc khủng hoảng do sự thức tỉnh tâm linh sinh ra; 3- Những phản
ứng tiếp theo sự thức tỉnh tâm linh; 4- Các cuộc khủng hoảng gắn liền với
các giai đoạn của quá trình biến đổi; 5- Đêm tối của tâm linh. Sự diễn
biến này có thể dẫn tới các kết quả khác nhau, tích cực hay tiêu cực, có
thăng hoa sáng tạo hay không là tùy theo khả năng làm chủ bản thân, rèn
luyện, thanh lọc ở từng người. Tác giả đã trình bày rất cụ thể sinh động
về vấn đề này.
“Tâm linh là yếu tố siêu việt, ưu việt, thường hằng, tự do, nội tâm,
sáng tạo, hài hòa và tổng hợp ở trong tất cả những gì biểu hiện ra về mặt
cá nhân cũng như tập thể”, với ý nghĩa đó, tâm linh (theo nghĩa rộng)
trong cuộc sống hằng ngày được biểu hiện ra ở những yếu tố sau đây:
Lòng dũng cảm khiến cho người ta vượt qua bản năng bảo tồn thể xác;
Tình thương yêu và tận tụy đối với người khác, đối với tổ quốc mình đối
với loài người khi vượt qua thói vị kỷ; Ý thức trách nhiệm; Ý thức hợp
tác, đoàn kết, tính xã hội; Không vụ lợi, tận tụy và hy sinh bản thân mình;
Ý chí, khả năng tự quyết định, lựa chọn, tự chủ, tổng hợp. “Hiểu biết, tức
mở rộng lĩnh vực ý thức của chúng ta tự đồng nhất với những thực thể
khác, với những biểu hiện khác của sự sống phổ biến và nhất là hiểu biết
sự sống phổ biến này, lĩnh hội ý nghĩa và mục đích của nó thừa nhận một
ý chí, một sức mạnh thông minh, sáng suốt, yêu thương từ vũ trụ đến
hướng dẫn sự tiến hóa của sự sống phổ biến và đưa nó tới một mục đích
vinh quang” (Roberto Assagioli).
Theo tôi (HBT), điều này chứng tỏ “sự thông minh, sáng suốt, ý chí”
từ vũ trụ (sự nhân cách hóa vũ trụ)…, thực thể sự sống vũ trụ chính là nói
về một thuộc tính có năng lực phản ảnh, thông tin cuối cùng thể hiện cao
nhất ở năng lực nhận thức cả logic và trực giác tâm linh của con người có
ý thức mà trình độ cao nhất là cái siêu thức trong mối liên hệ với cái vô

26

Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 – 2015

thức và hữu thức. Theo nghĩa này, tâm linh là cái ở trình độ siêu thức chứ
không chỉ ở vô thức, tiềm thức.
Có thể hiểu rằng cái siêu thức, cái tâm linh – trường ý thức4 này gắn
liền với trường của cõi vô hình vũ trụ, dưới dạng vật lý lượng tử và siêu
vật lý, vật lý sự sống của thế giới tâm lý, có năng lượng tâm lý và năng
lực tinh thần cao, tinh khiết, tổng hợp khi hòa nhập vào trường ý thức hữu thức (như thế nào đó) dù từ vô thức trào dâng hay từ trên cao của
siêu thức, “vũ trụ tâm linh” trên hữu thức tràn vào trường hữu thức đó đã
lóe sáng nhận thức, trực giác năng động sáng tạo, biểu hiện rõ nhất trong
các sáng tác văn học nghệ thuật, tôn giáo, triết học và khoa học của nhiều
vĩ nhân trên thế giới, hoặc của cả con người bình thường diễn ra trong
những trường hợp hằng ngày nhưng mang ý nghĩa đặc biệt.
Như vậy, cái siêu thực, tâm linh có nhiều trình độ, mức độ khác nhau,
ở từng người cũng khác nhau, có thể là cái thiêng, cái siêu việt, cái cao
cả, thăng hoa ở mức cao hoặc cũng thể hiện trong cái thường ngày dưới
hình thức “cái bình thường”. Có lẽ tác giả này hiểu tâm linh theo nghĩa
quá rộng chăng? Không hẳn, vì đây là lĩnh vực tâm linh ngoài tôn giáo,
tác động trong cả đời thường, nhưng nó khác với cái phàm tục, duy lý,
cái lý giải được, như môn tâm lý học nhận thức, hay nhận thức luận, logic
học mà triết học đã trình bày.
3. Tâm linh không đồng nhất với duy tâm
Ai cho rằng cứ nói tâm linh là duy tâm thì sẽ kết luận chủ nghĩa duy
vật là phủ nhận tâm linh, không cần tâm linh, không có tâm linh, như vậy
là đã cực đoan hóa vấn đề, chỉ thấy một mặt. Khi cho rằng, tâm linh là
duy tâm, thì chứng tỏ đồng nhất hoàn toàn tâm linh với tồn tại của linh
hồn, thần thánh (hiểu tâm linh chỉ thuần theo nghĩa rất hẹp trong khuôn
khổ tôn giáo), không thấy tâm linh ngoài tôn giáo và không phải là duy
tâm. Lại có quan niệm thừa nhận “ý thức vũ trụ” như ý thức con người, ý
thức này lại truyền vào trong óc người cụ thể, khi chết thoát ra khỏi cơ
thể thì cũng chính là một cách thừa nhận “ý thức thần thánh” tồn tại vĩnh
viễn thì là quan niệm duy tâm. Nhưng nếu hiểu “ý thức vũ trụ” chỉ là một
cách nói hình ảnh chỉ về đặc tính, năng lực phản ảnh và thông tin của vật
chất, nhất là vật chất vô hình, thậm chí là “trường thông tin mang chức
năng ý thức” (đúng ra là trường thông tin) của vật chất vô hình (cội
nguồn của tâm linh), cuối cùng thể hiện ở não người, và chính não người
sản sinh ra mà ta có ý thức, trí tuệ thì đã là quan niệm duy vật hiện đại.

26

Hồ Bá Thâm. Tâm linh là một đối tượng…

27

Chúng ta biết rằng, tâm linh còn có nội dung về năng lực của giác
quan thứ sáu, năng lực trực giác. Nhưng nếu coi giác quan thứ sáu là do
năng lực siêu việt thuộc về ý thức Thượng đế, thần thánh ban cho hay
linh hồn mách bảo thì là duy tâm. Còn coi năng lực trực giác, giác quan
thứ sáu là thuộc tính tự nhiên của não bộ thì đó là duy vật. Trước đây,
triết học Marx không đề cập hay ít đề cập về trực giác (dù F. Engels có
lần nói về trực giác thiên tài, khi bàn về ý thức) và sau đó người ta cho
rằng thừa nhận trực giác là thừa nhận theo duy tâm (vì nó khác tư duy
logic, không giải thích được vì sao thế). Vấn đề vô thức cũng có số phận
tương tự. Trong Phật giáo thì đã nói lâu, nhưng hiện nay thì khoa học đã
thừa nhận giác quan thứ sáu là một thực tế khách quan của vật chất não
người (mạnh yếu ở từng người), nó thuộc lĩnh vực ngoại cảm, thì đó là
quan niệm duy vật. Năng lực ngoại cảm trong tiên tri, hậu tri là một yếu
tố của tâm linh trên cơ sở năng lực khách quan ấy. Đó là chưa kể theo
nghĩa rộng, tâm linh gồm cả trí tuệ, tình cảm trong con người (dù ít
dùng), ở mặt linh diệu, cao cả, siêu việt của nó, như quan niệm tâm linh
ngoài tôn giáo đã nói trên.
Có người cho rằng tâm linh là tình cảm thiêng liêng trong lòng người,
rằng: người duy vật không tin linh hồn là làm sao có linh? Họ đưa ra ví
dụ: “đá” ghép với “linh” là hòn đá thần; “cây” ghép với “linh” là cây
thần, “hồn” ghép với “linh” là hồn thiêng (linh hồn)… và “tâm” ghép với
“linh” là điều thiêng liêng sâu kín trong tâm. Con người tạo dựng thần
linh. Hay nói cách khác: xuất phát của sự linh diệu chính là ở nơi tâm
tưởng con người. Cho nên các cụ ta mới có lời răn dạy con cháu rằng “có
thờ có thiêng”. Thiết nghĩ, cần phải hiểu nghĩa đen của tâm linh trước
đã: “Tình cảm thiêng liêng trong lòng chính là tâm linh!”… “Người theo
chủ nghĩa duy vật thì sẽ không duy tâm, không tin là có ma quỷ thần
thánh, mà mỗi khi đã không tin, thì tâm không tưởng lấy gì làm linh?
Theo tôi không thể gộp “duy vật” với “tâm linh” thành một chủ nghĩa
được” (Phan Lan Hoa).
Thiêng hóa, có hai loại, một loại thiêng hóa trên cơ sở thừa nhận có
linh hồn, thần thánh (tôn giáo); loại khác không thừa nhận có linh hồn,
thần thánh về mặt nhận thức luận, nhưng vẫn thờ cúng tổ tiên và các hình
thức “hồn thiêng sông núi”, xây dựng và tôn vinh nghĩa trang liệt sĩ (linh
thiêng trong đời sống hằng ngày). Khi tôn vinh các anh hùng liệt sĩ, đứng
trước nghĩa trang, đứng trước đền Hùng, kính cẩn thắp hương viếng họ là

28

Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 – 2015

một hành vi tâm linh. Tưởng nhớ, tôn kính họ trong lòng mình (đối với
người đã khuất), như vậy là có ý nghĩa tâm linh5. Văn hóa tâm linh, du
lịch tâm linh là cách nói chính xác khi đề cập tới lĩnh vực này.
Xin nói thêm rằng, nhiều người đã đưa ra định nghĩa tâm linh nhưng
chỉ là loại định nghĩa đưa ra các nhân tố, hình thức, mà chưa có định
nghĩa khái quát nhất cho các hình thức đó. Tôi đã đưa ra định nghĩa khái
quát chung cho các loại tâm linh như vậy (như bài trước đã bàn). Còn
quan niệm duy vật hay duy tâm là do cách giải thích nó. Ngay khi thừa
nhận giác quan thứ sáu (thần diệu) là có thật ở não người, nhưng hiểu nó
là năng lực thần thánh (một loại linh hồn) ban cho, hay mách bảo thì là
duy tâm, nhưng coi nó là đặc tính tự nhiên của não bộ có nguồn gốc từ
năng lực phản ảnh của vật chất nhất là chiều sâu vô hình của nó thì là duy
vật hiện đại.
4. Tâm linh là một đối tượng nghiên cứu của khoa học, tôn giáo và
triết học
Tâm linh dù với nội dung (rộng/ hẹp) hay có ý nghĩa gì, thì từ lâu là một
đối tượng nghiên cứu của khoa học, tôn giáo và triết học. Đã có lịch sử
nghiên cứu về linh hồn, về tôn giáo, về bí ẩn, linh diệu, siêu việt nói chung.
Tâm linh ngay cả khi hiểu theo nghĩa linh thiêng, ở lớp trên bề mặt
(mặt sâu là sự huyền diệu, bí ẩn của vũ trụ và năng lực não người, một
thực tế khách quan), là mặt chủ quan, ý thức thiêng hóa, thần thánh hóa
bí ẩn vũ trụ, não người là duy tâm. Nhưng hiện thực này, quan niệm,
niềm tin này đang tồn tại ở đa số dân cư là một hiện thực khách quan đối
với ý thức của bất cứ ai, cũng như nhà nghiên cứu. Niềm tin có linh hồn,
niềm tin tôn giáo, hoặc về giác quan thứ sáu là vấn đề phải nghiên cứu
xem có thật hay không; Nó là gì, hay không là gì (sau bức màn tâm linh
mê tín) thì phải giải thích khi gặp các hiện tượng “ma quỷ”, “vong
linh”…
“Khoa học tâm linh” nghiên cứu, giải thích các hiện tượng cụ thể của
tâm linh. “Tôn giáo học” nghiên cứu việc thực hành tâm linh. “Triết học
tâm linh” nghiên cứu bản chất chung nhất của tâm linh, cái khách quan
và chủ quan của tâm linh, vai trò và giá trị chung nhất của tâm linh (góc
nhìn triết học nhận thức/trực giác, triết học giá trị).
Từ việc nghiên cứu những hiện tượng bí ẩn, dị thường, hiện tương
thiêng hóa ấy đã phát hiện ra sự thật mà có khi, có bản chất của hiện

28

Hồ Bá Thâm. Tâm linh là một đối tượng…

29

tượng mà ta chưa biết cụ thể. Như hiểu thêm cơ chế giấc mơ, trực giác,
tiềm thức, siêu thức/ tâm thức, sự lóe sáng trong tư duy, hoặc hiểu thêm
ảo giác từ hiện tượng tâm lý, ý thức chiều sâu, hoặc là từ các hiện tượng
điện từ trường, trường thông tin từ thế giới bên ngoài tác động vào não
người gây nên ý thức khác thường… Đúng là tôn giáo, niềm tin tôn giáo
có những hạn chế nhưng cũng có mặt đã chứa đựng, gợi mở nhiều điều
chưa biết phía sau nó, đó là vấn đề của tự nhiên, của não bộ. Đó là chưa
kể nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn, tâm lý học, văn hóa học… đã
nghiên cứu các hiện tượng tâm lý nào dẫn đến sự thiêng hóa, các hình
thức sinh hoạt văn hóa tâm linh… cụ thể là các loại hình niềm tin tôn
giáo của từng dân tộc, dân cư khác nhau. Đi vào nghiên cứu các hiện
tượng tâm linh như vậy bằng thực nghiệm khoa học hay thực nghiệm tâm
linh là ở cấp độ khoa học về… cái năng lực huyền bí, cái thiêng hóa, góp
phần hình thành nên khoa học tâm linh. (Chưa thấy ai bác bỏ khái niệm
“khoa học tâm linh” dù mới hình thành (?), cho rằng vậy là kỳ cục vì tâm
linh là duy tâm còn khoa học là duy vật, như nước với lửa, là này nọ).
Vì cứ nhìn một phía, cột chặt vào tư duy cố định/ định kiến/ một mặt,
cứ tâm linh là duy tâm, không thấy có tâm linh ngoài tôn giáo và không
thấy hiện thực tâm linh còn là lĩnh vực ngoài tôn giáo, như một hiện thực
xã hội văn hóa khách quan, nên bác bỏ quan niệm “duy vật về tâm linh”.
Thực chất họ đã không thấy khái niệm tâm linh ở đây (trong khái niệm
“chủ nghĩa duy vật tâm linh”) đã hiểu theo nghĩa “đối tượng nghiên cứu”,
nên chỉ còn hàm nghĩa là một hiện thực cần nhận thức và giải thích
(nghĩa là cùng một khái niệm nhưng tùy theo ngữ cảnh, quan hệ và người
sử dụng (hệ quy chiếu khác) mà nó mang theo hàm nghĩa nào).
Tâm linh, các hiện tượng tâm linh ở đây là một đối tượng (của
nghiên cứu) có mặt tự nhiên (mặt cơ sở, nền), có mặt thuộc văn hóa,
văn minh (mặt này là trực tiếp) cần nghiên cứu ở cấp độ triết học.
Nghiên cứu đối tượng này ở chiều sâu, khái quát nhất, có hệ thống theo
quan niệm duy vật thì có thể gọi là duy vật tâm linh – quan niệm duy vật
về các hiện tượng tâm linh. Còn quan niệm duy vật về lịch sử xã hội
(rộng lớn) như sự vận đông phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội
và sự hoạt động lịch sử sáng tạo phổ quát của con người/ loài người chủ nghĩa duy vật lịch sử). Khi nghiên cứu sâu hệ thống sinh thái học ở
cấp độ khái quát nhất theo quan niệm duy vật thì đã hình thành chủ
nghĩa duy vật sinh thái. Nghiên cứu sâu, khái quát nhất các đối tượng

30

Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 – 2015

đó, nêu theo quan niệm duy tâm thì sẽ sinh ra duy tâm luận về sinh thái,
hay về duy tâm luận tâm linh, duy tâm luận lịch sử. Các lĩnh vực vật lý,
sinh học cũng vậy. Nhưng có lẽ phức tạp nhất là lĩnh vực còn bí ẩn,
huyền bí, thiêng hóa, lĩnh vực tâm linh nói chung, chưa có triết học
chuyên ngành, chuyên biệt.
Khái niệm có “khoa học tâm linh”, theo cá nhân tôi, thì quan niệm duy
vật về tâm linh (chủ nghĩa duy vật tâm linh) là sự thật và đúng với cả nội
dung nghiên cứu và cả về logic khái niệm, cấu trúc ngôn ngữ tiếng Việt
(nhưng có lẽ nghe “hơi lạ”, và không có cách nhìn ở góc nhìn khác nên
không chấp nhận), còn nếu nhằm bác bỏ thì tìm mọi cách bác bỏ. Họ lập
luận theo kiểu đã duy vật thì không duy tâm, mà tâm linh là duy tâm thì
không thể kết hợp thành chủ nghĩa duy vật tâm linh. Đó là cách hiểu có
phần không đúng, chỉ dừng lại cứ tâm linh là duy tâm, hơn nữa không
hiểu tâm linh theo đối tượng nghiên cứu, dù tâm linh hay duy tâm thì
cũng là đối tượng, lĩnh vực nghiên cứu không chỉ có từ xưa mà cả ngày
nay. Và có lẽ cứ theo duy vật thì phủ nhận tâm linh? Không cần nghiên
cứu lý giải các hiện tượng đó (nhiều người tin có linh hồn, chẳng hạn).
Hoặc cho rằng, khi giải thích hiện tượng tâm linh theo duy vật cứ là nói
duy vật là đủ, cần gì thêm từ duy vật luận tâm linh là cố tình không hiểu
rằng, chủ nghĩa duy vật tâm linh ở đây là nhìn ở góc độ loại hình triết
học, loại hình quan niệm.
Thực tế đã có tư tưởng triết học về tâm linh. Triết học tâm linh trong
lịch sử tư tưởng nhân loại, hoặc duy tâm hoặc duy vật. Điều này ai
nghiên cứu linh hồn, hay tâm linh nói chung cũng biết.
Tâm linh có thể hiểu, giải thích theo khoa học, duy vật và cũng có
thể hiểu/ giải thích theo duy tâm, tôn giáo, mê tín (dù rằng, có hiện
tượng là thuộc duy tâm như thừa nhận có linh hồn). Xem tâm linh như
“đối tượng, lĩnh vực” nghiên cứu triết học, khoa học hay của văn hóa
học, hay là đối tương ứng xử là chuyện bình thường có gì không hợp lý
và sai đâu. Chẳng lẽ khái niệm “khoa học tâm linh” thì chỉ hiểu là “văn
hóa duy tâm” ư ?, vì cứ tâm linh là duy tâm nên đó là “khoa học duy
tâm”, hoặc “văn hóa tâm linh” – ứng xử với tâm linh một cách có văn
hóa)… Có lẽ chưa hiểu rõ khoa học logic về khái niệm và vấn đề sử
dụng khái niệm trong tình huống diễn đạt, hay vì định kiến chỉ thấy một
mặt vấn đề tâm linh, hay vì cố tình bác bỏ ý tưởng “chủ nghĩa duy vật
tâm linh” mà họ đã không thừa nhận góc nhìn khác, quan hệ khác?

30

Hồ Bá Thâm. Tâm linh là một đối tượng…

31

Cũng ta thôi, nhưng khi trong gia đình ta là cha, nhưng về với bố mẹ ta
là con, khi ra đường ta chỉ là một công dân thôi, có gì là lạ! Chúng tôi
đã cho rằng chủ nghĩa duy vật tâm linh thì tâm linh là đối tượng, lĩnh
vực nghiên cứu chứ không phải tính chất của duy vật.
5. Một số quan điểm thuộc nội dung của “chủ nghĩa duy vật tâm
linh”
Nghiên cứu tâm linh gồm cả hai nội dung, hai xu hướng như đã nêu ở
trên nhưng tùy thời điểm mà một trong hai nội dung, hoặc xu hướng
nghiên cứu đó chiếm ưu thế.
Chúng tôi tạm thời chỉ ra 8 điểm sau đây:
(1) Nghiên cứu các hiện tượng tâm linh vừa là nghiên cứu như một
hiện tượng tự nhiên, vừa là nghiên cứu văn hóa xã hội hiện thực phức tạp
với nhiều chiều cạnh. Tâm linh như vậy, có chiều cạnh tự nhiên, ý thức,
có chiều cạnh nhận thức, cảm xúc, có chiều cạnh tâm lý xã hội, chiều
cạnh văn hóa – xã hội đặc thù.
(2) Làm rõ nguồn gốc, nguyên nhân nảy sinh các hiện tượng tâm linh;
xu hướng vận động, quá trình biến đổi, bùng phát, phát triển các hiện
tượng tâm linh… Làm rõ các đặc điểm và tính chất, vai trò của cả hai loại
hình hiện tượng tâm linh.
(3) Nghiên cứu các hiện tượng tâm linh… để bác bỏ cái gì không
đúng, cái gì lệch lạc, lầm lẫn, và xác định cái gì là đúng, nhưng không
đơn giản nói không hay có mà phải phát hiện vấn đề gì sau “bức màn tâm
linh” bí ẩn, mê tín đó…
(4) Nghiên cứu các hiện tượng tâm linh về mặt triết học phải dựa trên
thành tựu không chỉ khoa học hiện đại, cả khoa học xã hội nhân văn.
Đồng thời kế thừa tư tưởng hợp lý, tiến bộ, nhân văn trong các tôn giáo,
nhất là đạo Phật xưa nay.
(5) Nghiên cứu các xu hướng nhận thức quan niệm, đúng sai, duy tâm,
duy vật, khoa học, tôn giáo hoặc mê tín về các hiện tượng tâm linh…
(nghiên cứu liên ngành), từ đó chỉ rõ tác hại của mê tín, ý thức tâm linh
cực đoan.
(6) Nghiên cứu các hiện tượng tâm linh không chỉ góp phần hoàn
chỉnh thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận duy vật biện

Source: https://thevesta.vn
Category: Tâm Linh