Đức Phật giảng về viễn cảnh thời mạt pháp: ma quỷ đội lốt thầy tu, sư tăng vô đạo

ĐỨC PHẬT GIẢNG VỀ
VIỄN CẢNH THỜI MẠT PHÁP:
MA QUỶ ĐỘI LỐT THẦY TU, SƯ TĂNG VÔ ĐẠO

duc phat thuyet phapduc phat thuyet phap Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn, sau khi Ngài ly thế, cũng chính là vào thời kỳ Mạt pháp thì Phật Pháp mà ngài truyền sẽ bị phá hư, diệt vong. Và trong thời Mạt pháp, sẽ xuất hiện rất nhiều tăng nhân giả làm thiện tri thức đưa chúng sinh lầm đường lạc lối.

Dự ngôn về thời Mạt pháp của Đức Phật Hơn 2.500 năm trước, khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, trong những năm truyền Pháp của mình đã để lại cho con người tương lai nhiều dự ngôn rằng vào thời kì mạt pháp sẽ Open rất nhiều dị thường xảy ra và cũng chính là lúc con người không còn tâm Pháp để câu thúc đạo đức. Đức Phật từng xác lập rõ với A-Nan rằng : “ Nay Chánh Pháp duy trụ 500 năm ”. Trong đoạn mười bảy “ Phân Diêm Phù đề phẩm ” của quyển thứ 55 “ Nguyệt Tạng Phân ” của “ Đại Tập Kinh ”, sau khi giảng về thời kỳ “ cháy rực xán lạn trên đời … chính bới Pháp của ta vẫn còn giải thoát bền vững và kiên cố ”, Phật Thích Ca có giảng tiếp về 2 nghìn năm sau đó : “ … Sau 500 năm, Chánh Pháp của ta, Thiền Định, Tam Muội được vững chắc vững chãi. Kế 500 năm, đọc tụng, nghe nhiều được vững chắc vững chãi. Kế 500 năm, ở trong Pháp ta xây nhiều tháp tự được vững chắc vững chãi. Kế 500 năm, ở trong Pháp ta, tranh giành, tranh luận, ca tụng, “ Pháp rõ ràng ” đã ẩn kín không còn, tổn giảm vững chắc. Này những bậc thông hiểu thanh tịnh ! Cứ thế về sau, ở trong Pháp ta, tuy cạo đi tóc râu, mặc lên áo cà sa, huỷ phá giới cấm, hành xử không như Pháp, là Tì Kheo giả ” – ( dẫn từ zhengjian.org ). Như vậy, Phật Thích Ca đã dự báo sau khi trải qua năm cái 500 năm, cũng chính là sau 2.500 năm, cũng chính là thời gian hiện tại, khi mà những tăng nhân trong Pháp của Ngài, tuy cạo trừ râu tóc, thân mặc cà sa, nhưng họ “ hủy hoại giới cấm, hành không như Pháp ”, đều đã là những ‘ Tì Kheo giả ’ ”. Trong tác phẩm tầm cỡ của Phật gia “ Phật thuyết pháp diệt tận kinh ” ( còn gọi là “ Pháp diệt tận kinh ” ) được cho là đã được dịch ra vào thời Lưu Tống ( 420 – 479 ) cũng có ghi lại những Dự kiến của Đức Phật Thích Ca về quy trình diệt vong của Phật Pháp. Lúc ấy, Phật Thích Ca Mâu Ni ở tại nước Kuśinagara của Ấn Độ cổ, có rất nhiều Fan Hâm mộ và dân chúng đến tụ tập ở xung quanh ngài. Dù cho Fan Hâm mộ và chúng sinh chắp tay bái, nhưng Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn tĩnh mịch không nói gì, ánh hào quang cũng không Open. Khi ấy, Phật Thích Ca Mâu Ni đã ở dưới cội bồ đề khai ngộ và truyền giảng pháp được 49 năm. Các đệ tử của ngài đã sớm quen với việc nghe ngài giảng pháp. Hơn nữa, họ cũng quen với phật quang hiển hiện ra khi ngài đang giảng pháp. Một trong mười đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni lúc ấy là Tôn giả A Nan cảm thấy không hiểu, liền hướng đến Phật hỏi nguyên do. Lúc đầu, Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn lặng im, không vấn đáp. Sau ba lần thỉnh cầu, Phật Thích Ca Mâu Ni đã khai thị, và một phần nội dung những lời của ngài đã được ghi trong phần “ Phật thuyết pháp diệt tận kinh ”. “ Phật thuyết pháp diệt tận kinh ” ghi chép lại, Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói với Tôn giả A Nan và những Fan Hâm mộ rằng, sau khi ngài ly thế, cũng chính là vào thời kỳ Mạt pháp mạt kiếp thì Phật Pháp mà ngài truyền sẽ bị phá hư, diệt vong. Là một người giác ngộ đại trí đại huệ, Phật Thích Ca Mâu Ni thập phần hiểu rõ vận mệnh pháp mà ngài truyền giảng. Phật Thích Ca Mâu Ni gọi xã hội trái đất lúc này gọi là “ Ngũ nghịch trọc thế ”, “ ma đạo hưng thịnh ”. Lúc này, “ Ma tác sa môn phôi loạn ngô đạo ”, tức là ma quỷ chuyển thế xuất gia đến chùa miếu tu hành, phá hoại pháp của Ngài. Lúc ấy, sẽ bại hoại đến mức độ nào ? Chính là, áo cà sa có ngũ sắc sặc sỡ, uống rượu, ăn thịt, sát sinh, tham vị, không có từ tâm hơn nữa còn có ghen tức đố kỵ lẫn nhau. Chỉ cầu nhờ cửa Phật mà không tu giới luật Trong “ Pháp diệt tận kinh ” viết : “ Tự cung vu hậu bất tu đạo đức, tự miếu không hoang, vô phục tu lý, chuyển tựu hủy hoại. Đãn tham tài vật, tích tụ bất tán, bất tác phúc đức ; phán mại nô tì, canh điền xung thực, phần hủy sơn lâm, thương hại chúng sinh, vô hữu từ tâm ; nô vi tì khưu, tì vi tì khưu ni, vô hữu đạo đức, dâm điệt trọc loạn, nam nữ bất biệt. Lệnh đạo bạc đạm, giai do tư bối ; hoặc tị huyện quan, y ỷ ngô đạo, cầu tác sa môn, bất tu giới luật, nguyệt bán nguyệt tận, tuy danh tụng giới, yếm quyện giải đãi, bất dục thính văn, sao lược tiền hậu, thiết hữu đậu giả, bất thức tự câu, vi cường ngôn thị, bất tư minh giả, cống cao cầu danh, hư hiển nha bộ, dĩ vi vinh ký, vọng nhân cung dưỡng. ” Ý rằng : Những ma sư sau khi đã hủy hoại Phật Pháp, tạo nghiệp xong rồi cũng không dụng tâm tu đạo đức. Chùa chiền lúc này trở thành nơi ở của kẻ buôn, đầu tư mạnh. Thậm chí chùa chiền hoang phế cũng không có người tu sửa, sau cuối nhanh gọn bị hủy hoại gần như không còn gì. Chúng sinh chỉ tham tiền tài vật chất, tích góp để giàu, cũng không tu phúc đức chân chính. Có kẻ còn khởi đầu kinh doanh nô tỳ, bắt nô tỳ cày ruộng trồng trọt, sưu cao thuế nặng. Ngoài ra còn đốt phá rừng, làm tổn hại sinh mạng chúng sinh, không còn một chút thiện tính từ bi nào nữa. Đến thời đại này, những người có phẩm hạnh xấu xa trở thành nô lệ cho đồng xu tiền hoặc nô lệ cho danh lợi lại xuống tóc đi tu trở thành sư hoặc ni cô. Họ không những vô đạo đức mà còn dâm dục phóng túng, hành vi hỗn loạn nhơ bẩn, tăng nhân nam nữ chung sống cùng nhau, không còn quan ngại gì về lễ độ pháp luật. Chính đạo suy yếu đều vì đám sư sãi ma quỷ này. Cũng có những kẻ vì trốn tránh quan trường truy xét mới nương nhờ cửa Phật, cầu nơi dung thân, họ trở thành thầy tu nhưng không hề giữ được giới luật. Tuy vẻ bên ngoài vẫn tụng niệm giới luật nhưng trong lòng chán ngán, buông thả, cơ bản là không muốn nghe Phật Pháp, hoặc lược bớt nội dung, không dám nói hết. Thêm nữa họ không hề học thuộc tầm cỡ, mặc dầu nhiều lúc có người đọc được nhưng lại không hề hiểu chữ nghĩa và câu cú, bản thân không thông hiểu kinh sách mà không đi tìm hiểu thêm quan điểm người minh trí, tự cao tự đại, ham danh tiếng mà làm ra những trò hư ngụy, cố ra vẻ thanh nhã, tự cho mình vinh quang, trông mong người khác đến cung ứng nuôi dưỡng mình. Ma quỷ đội lốt thầy tu mà phá hoại Phật Pháp Khi Đức Phật còn tại thế, Ma Vương từng có lời nguyền rằng : “ Này ông Cồ Đàm ! Hôm nay ta thua ông, vì ông còn trụ ở quốc tế này, nên ta không làm gì được ông. Ông nên biết rằng, sau khi ông diệt độ, sau này những đệ tử của ông, dù là lớn hay nhỏ, tuy là hình thức tu theo ông, chớ việc làm của họ phải làm theo sự điều khiển và tinh chỉnh của ta cả, ông phải chống mắt mà xem ta sai khiến họ ! ”. Ma Vương nói thêm : “ Còn sau khi ông diệt độ, người nào dám viết lại những lời dạy về Như Lai thanh tịnh thiền của ông, đều là kẻ chống so với ta, ta quyết chí triệt phá họ cho bằng được. Ta sẽ sai khiến người có chức có quyền trong đạo của ông phụ giúp ta triệt phá người này. Ta cũng báo cho ông Cồ Đàm biết, số người tu theo đạo của ông, một ngàn người chưa chắc có một người biết pháp môn thanh tịnh thiền này, nhưng việc cúng lạy và cầu xin thì là vô số kể. Ông đừng mong đem giáo pháp thiền thanh tịnh này để đưa người sống trong vật chất do ta quản lý, hầu thoát ra ngoài sự hấp dẫn của vật chất được ! ”. Ma Vương lại nói thêm : “ Này ông Cồ Đàm, sau này có rất nhiều người đem pháp môn tu trong vật chất, mạo danh thanh tịnh thiền để dụ nhiều người đến nghe để họ kiếm tiền, những người này cũng là do ta xúi bảo cả ”. Lúc này không phải là đang là như vậy sao ? Rất nhiều giới luật đều bị sữa đổi, rất nhiều hòa thượng chia thành những cấp như khoa, xứ, cục ,. v .. v. lãnh tiền lương, nhận tiền thưởng, duy trì hình thức vẻ bên ngoài của Phật giáo như làm công tác làm việc, còn có ngày nghỉ, thậm chí còn ngày lễ thăm bà con thân thích, có tiền gửi về nhà, thậm chí còn cưới vợ dưới quê, mua nhà cửa. Tỉnh táo mà tâm lý, đó còn là Phật giáo của Phật Thích Ca không ? Còn hoàn toàn có thể tu hay không ? Những hoà thượng ấy còn là thật sự xuất gia hay không ? Đó chẳng phải đúng là những “ Tỳ-kheo giả ” hay sao ? Có thể nói, sự phá hoại từ bên trong là sự phá hoại nguy khốn nhất. Những người khoác áo Phật gia nhưng không chân tu đã làm diện mạo Phật Pháp bị hoen ố, khó lý giải và trở thành dị đoan trong mắt người đời. Đó là tội ác, cũng là sự tàn phá con đường mà Phật Đà lưu lại cho thế nhân. Chùa chiền lúc bấy giờ đã biến thành nơi của kẻ kinh doanh đầu tư mạnh, chúng sinh tham tiền tài vật chất không tu đức chân chính. Tăng ni trong chùa đã có những kẻ vô đạo mà còn dâm dục phóng túng. Lại cũng có người trở thành thầy tu mà không chân tu, nhưng tự cao tự đại, hám danh tiếng mà làm ra những trò giả dối. Giữa những Pháp môn khác nhau cũng có đấu đá, nói xấu, đặt điều, thậm chí còn vu oan giáng họa, giữa những môn phái cùng thuộc Phật giáo cũng chẳng tha. Đó là điều mà người tu luyện làm được sao ? Thế sự vạn biến, thật giả khó lường, cái giả, cái tà, cái ác sẽ mượn danh cái chân, cái chính, cái thiện để lừa dối người ta, mê hoặc dẫn dụ người ta. Như thế phải dùng trí tuệ của Phật Pháp để phân biệt thật giả, chính tà, thiện ác. Bám chắc vào Pháp, chứ không chạy theo phần đông, không nghe theo khét tiếng người thầy nào đó, hay nổi tiếng môn phái nào đó, như vậy mới không bị mê lạc vào con đường tà mà Ma Vương đã sắp xếp sẵn. Thế nhưng, trong “ Phật thuyết Pháp diệt tận ” cũng có ghi chép lại lời của Đức Phật : “ Khi Pháp ta diệt, ví như đèn dầu sắp tắt, ánh sáng lóe lên, sau đó liền diệt ; khi Pháp ta diệt, cũng như đèn tắt, khó mà trách được. Đến như sau đó mấy nghìn vạn năm, khi Di Lặc hạ thế làm Phật, thiên hạ thái bình, độc khí toàn tiêu ”. Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói đến một cứu cánh cho toàn trái đất thời nay, đó là khi “ Chuyển Luân Thánh Vương ” ( trên thiên thượng gọi là “ Pháp Luân Thánh Vương ”, cũng xưng là “ Di Lặc ” ), một vị Như Lai với thần thông tối quảng đại, năng lượng lớn nhất trong ngoài hành tinh, rồi sẽ hạ thế truyền Pháp độ hết thảy chúng sinh những giới. Xuất phát từ lòng từ bi với con người, Phật Thích Ca Mâu Ni đã đưa thiên cơ trọng điểm này vào những dự ngôn minh xác, lấy đó khải thị người đời sau phải sáng suốt để tự cứu, thoát khỏi kiếp nạn, và hướng về kỷ nguyên mới của lịch sử vẻ vang. Mong rằng những ai hữu duyên hoàn toàn có thể tìm và đắc được cơ duyên vạn cổ để hoàn toàn có thể giải thoát chính mình này, khi thời cơ đến hãy chớp lấy đừng bỏ lỡ.

Tuệ Tâm

Nguyên văn kinh:

ĐỨC PHẬT THUYẾT KINH PHÁP DIỆT TẬN

Trích từ sao lục của SENG YU Bản dịch Hán văn: Vô danh

Đại Chánh Tạng Quyển 13 Hịệt 1118 Số 396 Niết Bàn Bộ

Bản dịch Anh ngữ:

Tỷ-khưu THÍCH HẰNG THẬT

 Vạn Phật Thánh Thành – Hoa Kỳ

Bản dịch Việt ngữ: THÍCH NHUẬN CHÂU (Tịnh thất Từ Nghiêm, Đại Tòng Lâm)

Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành so sánh Hán văn và hiệu đính

Kệ khai kinh

Phật pháp cao siêu rất thẳm sâu,

Trăm ngàn muôn kiếp khó tầm cầu .
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng ,

Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

Như thật tôi nghe, một thời Đức Phật ở thành Câu-thi-na. Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên những tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số những loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ. Thế tôn yên bình, ngài không nói một lời và hào quang không Open. Ngài A-nan cung kính đảnh lễ và hỏi : “ Bạch Thế tôn, từ trước đến nay khi nào Thế tôn thuyết pháp, ánh sáng oai nghi của Thế tôn đều tự nhiên Open, nhưng thời điểm ngày hôm nay trong đại chúng, không thấy ánh hào quang ấy từ Thế tôn tỏa ra nữa, chắc rằng có nhân duyên gì, chúng con mong ước nghe Đức Thế tôn giảng giải. ” Đức Phật vẫn lạng lẽ không vấn đáp, cho đến khi A-nan cầu thỉnh đến ba lần, lúc đó Đức Phật mới bảo A-nan : “ Sau khi Như Lai nhập niết-bàn, khi giáo pháp khởi đầu suy yếu, trong đời ngũ trược ác thế, ma đạo sẽ rất thông dụng, ma quỷ biến thành sa-môn, xuyên tạc phá hoại giáo pháp của ta. Chúng mặc y phục thế tục, ưa thích y phục đẹp tươi, cà sa sặc sỡ ; uống rượu, ăn thịt ; giết hại sinh vật tham đắm mùi vị ; không có lòng từ, thường mang sân hận, đố kỵ lẫn nhau. “ Vào lúc ấy, sẽ có những vị Bồ-tát, Bích-chi Phật, A-la-hán rất là tôn kính, siêng năng tu đức, được mọi người kính trọng tiếp đãi., họ đều giáo hóa bình đẳng. Những người tu đạo này thường tương hỗ kẻ nghèo, chăm sóc người già, tương hỗ người gặp cảnh nghèo cùng khốn ách. khuyến khích mọi người thờ phượng, hộ trì kinh tượng. Họ thường làm công đức, hết lòng từ bi làm lành, không hại kẻ khác. quyết tử giúp sức không tự lợi mình, thường nhẫn nhục nhân hòa. “ Nếu có những người như vậy, thì những tỷ-khưu tà ma đều ganh ghét họ, ma quỷ sẽ nổi ác phỉ báng, xua đuổi trục xuất những vị tỷ-khưu chân chính ra khỏi tăng viện. Sau đó, những tỷ-khưu ác ma này không tu đạo đức, chùa chiền tu viện sẽ bị hoang vắng, cỏ dại mọc đầy. Do không chăm nom bảo dưỡng, chùa chiền trở thành hoang phế và bị quên lãng, những tỷ-khưu ác ma sẽ chỉ tham lam tài vật tích chứa vô số của cải không chịu buông bỏ, không tu tạo phước đức. “ Vào lúc đó những ác ma tỷ-khưu sẽ kinh doanh nô tỳ để cày ruộng, chặt cây đốt phá núi rừng, sát hại chúng sanh không chút từ tâm. Những nam nô trở thành những tỷ-khưu và nữ tỳ thành tỷ-khưu ni không có đạo đức, dâm loạn dơ bẩn, không cách biệt nam nữ. Chính những người này làm đạo suy yếu phai dần. Những người chạy trốn lao lý sẽ tìm đến quy y trong đạo của ta, xin làm sa-môn nhưng không tu giới luật. Giữa tháng cuối tháng tuy có tụng giới, nhưng chỉ là trên danh nghĩa. Do lười biếng và phóng dật, không còn ai muốn nghe nữa. Những ác sa-môn này sẽ không muốn tụng toàn văn bản kinh, tóm tắt đoạn đầu và cuối bản kinh theo ý của họ. Chẳng bao lâu, việc tụng tập tầm cỡ cũng sẽ chấm hết. Cho dù vẫn còn có người tụng kinh, nhưng họ lại không hiểu câu văn. vẫn khăng khăng cho họ là đúng, tự phụ, kiêu căng mong cầu danh tiế ng, ra vẻ thanh nhã để mong cúng dường. Khi mạng căn của những ma ác tỷ-khưu này chấm hết, thần thức của họ liền đọa vào âm ti A-tỳ. Đã phạm phải 5 tội trọng, nên họ phải tái sinh liên tục chịu khổ trong loài quỷ đói và súc sinh. Họ sẽ nếm những nỗi thống khổ trong vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng. Khi tội hết, họ sẽ tái sinh ở những vùng biên địa, nơi không có Tam bảo lưu hành. “ Khi chánh pháp sắp biến mất, phụ nữ sẽ trở nên tinh tấn và thường thao tác công đức. Đàn ông sẽ trở nên lười biếng và sẽ không còn ai giảng pháp. Những vị sa-môn chân chính sẽ bị xem như đất phân và không ai tin ở những vị ấy nữa. Khi chánh pháp sắp suy tàn, chư Thiên sẽ mở màn mếu máo, sông sẽ khô cạn và năm thứ cốc loại không chín ( mất mùa, đói kém ). Bệnh dịch tiếp tục xảy ra, cướp đi vô số mạng người. Dân chúng phải thao tác cực khổ, quan chức địa phương mưu tính lợi riêng, không thuận theo đạo lý, đều ưa thích rối loạn. Người ác ngày càng tăng nhiều như cát dưới biển, người thiện rất ít, phần nhiều chỉ có được một hoặc hai người. “ Khi kiếp sắp hết, vòng xoay của mặt trời và mặt trăng trở nên ngắn hơn và mạng sống của con người giảm lại. Bốn mươi tuổi đầu đã bạc. Đàn ông dâm dục, hết sạch tinh dịch nên sẽ chết trẻ, thường là trước 60 tuổi. Khi mạng sống của phái mạnh giảm, thì mạng sống cuả phái đẹp tăng đến 70, 80, 90 hoặc đến 100 tuổi. « Những dòng sông lớn sẽ dâng cao không bình thường không đúng với chu kỳ luân hồi tự nhiên, nhưng con nguời không chú ý hoặc không chăm sóc. Khí hậu khắc nghiệt được xem là điều thông thường. Người những chủng tộc lai tạp lẫn nhau không phân quý tiện, chìm đắm, trôi nổi như cá rùa kiếm ăn. « Lúc đó những vị Bồ-tát, Bích-chi Phật, A-la-hán bị chúng ma xua đuổi trục xuất không còn cùng dự trong chúng hội. Giáo lý Tam thừa vẫn được lưu hành ở vùng hẻo lánh, những người tu tập vẫn tìm thấy sự an nhàn và thọ mạng lê dài. Chư thiên sẽ bảo vệ và mặt trăng sẽ chiếu sáng họ, giáo pháp Tam thừa sẽ có dịp hòa nhập và chính nghĩa sẽ hưng thịnh. Tuy nhiên, trong năm mươi hai năm, kinh Thủ-lăng-nghiêm và Kinh Bát-chu Tam-muội sẽ bị sửa đổi thứ nhất rồi biến mất. Mười hai bộ kinh sau đó sẽ từ từ bị tiêu trầm cho đến khi hoại diệt trọn vẹn và không khi nào Open lại nữa. Văn tự tầm cỡ sau đó trọn vẹn không được biết đến, giới y của sa-môn sẽ tự bị biến thành màu trắng. « Khi giáo pháp của ta sắp biến mất, cũng giống như ngọn đèn dầu tỏa sáng lên trong chốc lát trước khi tàn lụi, chánh pháp cũng bừng sáng rồi suy tàn. Từ đó về sau khó nói chắc được điều gì sẽ xảy ra. « Thời kỳ này sẽ lê dài suốt mười triệu năm. Khi Đức Di-lặc sắp thị hiện ở trần gian để thành vị Phật tiếp theo, những cõi nước đều được trọn vẹn an vui. Khí độc sẽ bị tiêu tán, mưa nhiều và đều đặn, n ăm thứ cốc loại xanh tươi, cây cối sum suê to lớn, và loài người sẽ cao đến tám trượng ( hơn 24 mét ) tuổi thọ trung bình của con người sẽ đến 84.000 năm, chúng sanh được độ khó hoàn toàn có thể tính đếm được. » Ngài A-nan thưa thỉnh Đức Phật : « Bạch Thế tôn, chúng con nên gọi Kinh này là gì, và làm thế nào để phụng trì kinh ấy ? » Đức Phật bảo : « Này A-nan, kinh này gọi là Pháp Diệt Tận. Hãy dạy cho mọi người truyền bá thoáng rộng kinh này. Những ai truyền bá kinh nầy, công đức của những người ấy không hề nghĩ bàn, không thể nào tính đếm được. » Khi bốn chúng đệ tử nghe nói kinh này rồi, họ đều rất đau lòng và buồn tủi, mỗi người đều phát tâm tu đạo để đạt đến quả vị Thánh tối thượng, họ cung kính đảnh lễ Đức Phật rồi lui ra.

HẾT

Nguồn gốc bản kinh: https://thevesta.vn/a12148/duc-phat-thuyet-kinh-phap-diet-tan

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp