BÀN VỀ KHÁI NIỆM “VĂN HÓA TÂM LINH”

Tác giả: Nguyễn Hữu Đổng

Văn hoá là gì ? Tâm linh là gì ? Văn hoá tâm linh là gì ? Đây là những khái niệm chưa được giới điều tra và nghiên cứu làm rõ về học thuật. Văn hoá tâm linh bộc lộ thực ra tri thức về mối liên hệ giữa những mặt hầu hết như sau : sự sống chưa thật của những nhóm trong hội đồng người ; sức sống không thật của những cá thể trong nhóm ; cuộcsống chân thực của những cá thể, nhóm, hội đồng trong vương quốc, xã hội loài người. Từ cách nhận thức khoa học, tác giả bài viết nghiên cứu và phân tích thực ra, đưa ra định nghĩa, nhận thức không đúng khái niệm văn hoá tâm linh và khuyến nghị giải pháp khắc phục .

Thực chất, định nghĩa khái niệm văn hoá tâm linh

Khái niệm văn hoá tâm linh được tạo thành bởi các khái niệm ‘văn hoá’ và ‘tâm linh’.Khái niệm văn hoá được tạo thành bởi các thuật ngữ ‘văn’ và ‘hoá’. Trong Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (Nxb Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, 2005), thuật ngữ văn được hiểu là “việc văn chương, chữ nghĩa”; tức là, văn nói về “chữ viết” – khái niệm biểu hiện bản chất vật thể, vật chất sống chưa thật, chưa sáng tạo ra chữ viết của các nhóm (tập thể) trong cộng đồng người. Thuật ngữ hoá được hiểu là “hoá thành thần, thánh, Phật chứ không phải chết đi”; tức là, hoá nói về “tiếng nói” – khái niệm biểu hiện tính chất phi vật thể, tinh thần sống không thật, không sáng tạo ra tiếng nói của các cá nhân (cá thể) trong nhóm. Thuật ngữ văn và hoá có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành “văn hoá” – khái niệm biểu hiện thực chất vật thể, phi vật thể, thực thể, vật chất, tinh thần, ý thức sống chân thật, sáng tạo ra tiếng nói, chữ viết, ngôn ngữ, pháp luật,khoa học, giáo dục, tôn giáo, văn học, nghệ thuật của các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong quốc gia, xã hội loài người. Tức là, khái niệm văn hoá biểu hiện thực chất ý thức sống chân thật, sáng tạo ra giá trị vật chất, tinh thần, ngôn ngữ, pháp luật, khoa học, giáo dục, tôn giáo, văn học, nghệ thuật của các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong quốc gia, xã hội loài người. Cá nhân, nhóm, cộng đồng nào sống thiếu văn hoá, tức là cá nhân, nhóm, cộng đồng đó thiếu ý thức sống chân thật và sáng tạo.

Khái niệm tâm linh được tạo thành bởi những thuật ngữ ‘ tâm ’ và ‘ linh ’. Trong Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ tâm được hiểu là “ mặt tình cảm, ý chí của con người ” ; tức là, tâm nói về vật chất sống ở bên trong quốc tế – tri thức chưa khoa học ; thuật ngữ linh được hiểu là “ hồn người chết ” ; tức là, linh nói về niềm tin sống ở bên ngoài quốc tế – tri thức không khoa học. Thuật ngữ tâm và linh có mối liên hệ ngặt nghèo với nhau, tạo thành “ tâm linh ” – khái niệm nói về “ ý thức sống sống sót ở giữa bên ngoài, bên trong quốc tế ” 1 – tri thức khoa học. Vật chất sống biểu lộ sự sống chưa thật ; niềm tin sống bộc lộ sức sống không thật ; còn ý thức sống bộc lộ đời sống chân thực. Theo đó, khái niệm tâm linh biểu lộ thực ra đời sống chân thực của những cá thể, nhóm, hội đồng trong vương quốc, xã hội loài người. Tức là, cá thể, nhóm, hội đồng nào sống không chân thực thì cá thể, nhóm, hội đồng đó sống không có tâm linh hay sống vô tâm, vô cảm với nỗi đau của đồng loại .
Văn hoá và tâm linh có mối liên hệ ngặt nghèo với nhau, hình thành nên văn hoá tâm linh. Trong mối liên hệ giữa chúng, văn hoá nói về sự sống chưa thật của những nhóm trong hội đồng người ; tâm linh nói về sức sống không thật của những cá thể trong nhóm ; còn văn hoá tâm linh nói về đời sống chân thực của những cá thể, nhóm, hội đồng trong vương quốc, xã hội loài người. Tức là, khái niệm văn hoá tâm linh biểu lộ tri thức về những mặt đa phần như sau : sự sống chưa thật của những nhóm trong hội đồng người ; sức sống không thật của những cá thể trong nhóm ; đời sống chân thực của những cá thể, nhóm, hội đồng trong vương quốc, xã hội loài người. Mô hình cấu trúc của văn hoá tâm linh được biểu lộ như sau : sự sống chưa thật của những nhóm – đời sống chân thực của những cá thể, nhóm, hội đồng – sức sống không thật của những cá thể. Theo đó, văn hoá tâm linh được nhìn nhận là khái niệm biểu lộ thực ra đời sống chân thực của những cá thể, nhóm, hội đồng trong vương quốc, xã hội loài người. Nói cách khác, văn hoá tâm linh là nói về con người sống chân thực trong quốc tế tự nhiên và xã hội. Từ khái niệm này cho thấy rằng, cá thể, nhóm, hội đồng, dân tộc bản địa, vương quốc nào sống không chân thực, tức là cá thể, nhóm, hội đồng, dân tộc bản địa, vương quốc đó không có văn hoá tâm linh .

Nhận thứckhông đúngkhái niệmvăn hoá tâm linh

1. Văn hoá tâm linh là khái niệm được giới khoa học đặc biệt quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên,trên thế giới, văn hoá tâm linh không được nhận thức đúng đắn. Từ thời cổ xưa, nhiều người coi tâm linh là phần“hồn” không chỉ của con người mà của mọi sự vật tồn tại; tức là, tâm linh biểu hiện sự sống nơi ‘thiên đàng’, hay ‘hồn ma’ dưới ‘địa ngục’ trần gian. Giới tôn giáo thì cho rằng, tâm linh gắn liền với thần thánh, ‘đấng tối cao’, như: ‘Thánh Ala’, ‘Thiên Chúa’, ‘Thượng đế’ mà khoa học không thể khám phá, nhận thức được.Vào thời kỳ khai sáng, thế kỷ 19, 20, một số người nghiên cứu gắn văn hoá, tâm linh với nội dung vật thể – vật chất, hình thức phi vật thể – tinh thần, chứ không gắn với nguyên lý thực thể -ý thức tồn tại ở giữa vật thể, vật chất và phi vật thể, tinh thần.

Nhận thức không đúng khái niệm văn hoá tâm linh được nhìn nhận là nguyên do hầu hết làm cho công dân, giới chỉ huy, điều tra và nghiên cứu không nhận thức, phân biệt rõ thế nào là “ vật chất sống ” ( sự chưa sống ) – tri thức chưa khoa học ; thế nào là “ ý thức sống ” ( sự không sống ) – tri thức không khoa học ; thế nào là “ ý thức sống ” ( sự sống ) – tri thức khoa học. Đây còn là nguyên do làm cho nhiều công dân, người chỉ huy, điều tra và nghiên cứu không nhận ra cái “ sai ” 2 ( giả dối ) trong thuyết tiến hoá của Darwin ; không hiểu được thế nào là ‘ Chúa ’, ‘ Phật ’, ‘ thần linh ’ ; hay không hiểu được tại sao một tuần lễ lại chỉ có 7 ngày chứ không phải 6 hay 8 ngày ? Đặc biệt, cho đến nay, giới nghiên cứu và điều tra vẫn chưa làm sáng tỏ nguồn gốc thật của sự sống những loài vật, trong đó có loài người .

2. Ở Việt Nam, khái niệm văn hoá tâm linh cũng không được nhận thức đúng đắn. Trong Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (2005), văn hoá chỉ được nhìn nhận là “tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”, chứ không nhìn nhận cụ thể là ý thức sống chân thật, sáng tạo ra giá trị vật chất, tinh thần, ngôn ngữ, pháp luật, khoa học, giáo dục, tôn giáo, văn học, nghệ thuậtc ủa các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong quốc gia, xã hội loài người; còn tâm linh chỉ được nhìn nhận là “tâm hồn, tinh thần” hay “khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với mình, theo quan niệm duy tâm”, chứ không nhìn nhận cụ thể là cuộc sống chân thật của các cá nhân, nhóm, cộng đồng trong quốc gia, xã hội loài người.

Nhận thức không đúng khái niệm văn hoá và tâm linh đã làm cho công dân, giới chỉ huy, nghiên cứu và điều tra không nhận thức rõ thế nào là văn hoá tâm linh ; không nhận thức rõ mối liên hệ giữa “ sự không sống ” ( sai ) ở bên ngoài quốc tế, “ sự chưa sống ” ( chưa đúng ) ở bên trong quốc tế, “ sự sống ” ( đúng ) sống sót ở giữa bên ngoài, bên trong quốc tế. Tức là, nhiều người ở Nước Ta không nhận thức rõ thực ra những khái niệm ‘ thực sự ’, ‘ sự sống ’, ‘ số phận ’ ( số mệnh ), hay sự “ rất linh ” 3 của số 7 trong dãy chữ số tự nhiên ; không hiểu rõ tại sao thân nhiệt của con người lại xê dịch ở 37 ℃ mà không phải là 36 ℃ hay 38 ℃ ? Hiện nay, nhiều người cũng không hiểu được rằng, tại sao một tuần lễ lại chỉ có 7 ngày ? Vì sao người theo đạo Phật ở Nước Ta lại cúng tuần 35 ( 5 × 7 ) và 49 ( 7 × 7 ) ngày so với người thân trong gia đình sau khi mất ? Đặc biệt, nhiều người, kể cả người điều tra và nghiên cứu khoa học cũng không nhận thức rõ sự sai lầm đáng tiếc trong thuyết tiến hoá của Darwin ; không nhận thức rõ nguồn gốc của sự sống .
Nhận thức không đúng khái niệm văn hoá tâm linh được nhìn nhận là nguyên do dẫn đến thiếu vắng sự chân thực của những cá thể, nhóm, hội đồng trong vương quốc. Chẳng hạn, nhìn từ mặt hình thức, nội dung cho thấy rằng, di sản văn hoá vật thể ( vật chất sống ), phi vật thể ( ý thức sống ) được UNESCO công nhận ngày càng nhiều về số lượng kể từ khi mở màn thay đổi ( 1986 ), nhưng nhìn từ mặt nguyên tắc tổng lực cho thấy rằng, di sản văn hoá thực thể ( ý thức sống ), hay đời sống chân thực của những cá thể, nhóm, hội đồng lại suy giảm nghiêm trọng. Điều đó được biểu lộ đơn cử, như : thực trạng suy thoái và khủng hoảng về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống ; sự giả dối, thiếu văn hóa trong chỉ huy, kiến thiết xây dựng, thực thi chủ trương, pháp lý của đội ngũ chỉ huy, công chức, viên chức ; thực trạng thiếu trung thực trong hoạt động giải trí xuất bản, báo chí truyền thông, thông tin, thao tác, học tập, nghiên cứu và điều tra khoa học của nhiều tri thức, văn nghệ sĩ ; tệ nạn cửa quyền, hách dịch, quan liêu, tham nhũng, tiêu tốn lãng phí của nhiều người có thẩm quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong cỗ máy chính quyền sở tại, vương quốc ; tệ nạn “ trục lợi tâm linh ” 4, trục lợi từ những hành vi “ cúng bái ”, “ gọi hồn ”, ‘ đốt vàng mã ’, “ cúng sao hóa giải ”, “ tìm tro cốt liệt sĩ ”, hay góp vốn đầu tư kiếm doanh thu bất chính trong những dự án Bất Động Sản “ du lịch tâm linh ” 5 của nhiều công dân trong xã hội nói chung, hoạt động giải trí sản xuất, kinh doanh thương mại, dịch vụ nói riêng, v.v. .

Giải pháp khắc phục nhận thức không đúng khái niệmvăn hoá tâm linh

Để khắc phục nhận thức không đúng khái niệm văn hoá tâm linh, theo tác giả bài viết, công dân nói chung, giới chỉ huy, điều tra và nghiên cứu trên quốc tế và ở Nước Ta nói riêng cần phải đổi khác ‘ cách nhận thức ’. Cách nhận thức bao hàm ba mặt đa phần sau đây : cách nhận thức hình thức “ bên ngoài ” – cách nhận thức không khoa học ; cách nhận thức nội dung “ bên trong ” – cách nhận thức chưa khoa học ; cách nhận thức nguyên tắc tổng lực mọi mặt sống sót “ ở giữa bên ngoài, bên trong ” – cách nhận thức khoa học. Mô hình cấu trúc mối liên hệ giữa ba mặt của nhận thức được biểu lộ như sau : cách nhận thức chưa khoa hoc học – cách nhận thức khoa học – cách nhận thức không khoa học. Cách nhận thức không khoa học biểu lộ sự nhận thức thiên lệch về hình thức bên ngoài ; cách nhận thức chưa khoa học bộc lộ sự nhận thức thiên lệch về nội dung bên trong ; còn cách nhận thức khoa học biểu lộ sự nhận thức tổng lực về nguyên tắc sống sót ở giữa bên ngoài, bên trong của yếu tố. Điều đó có nghĩa là, công dân, giới chỉ huy, nghiên cứu và điều tra cần phải biến hóa cách nhận thức chưa khoa học, không khoa học lúc bấy giờ sang cách nhận thứck hoa học để nhận thức đúng đắn khái niệm nói chung, văn hoá tâm linh nói riêng. Dưới đây, bài viết đưa ra ví dụ cách nhận thứck hoa học một số ít thuật ngữ, khái niệm tương quan đến văn hoá tâm linh như sau :
Cách nhận thức khoa học khái niệm ‘ sự sống ’. Sự sống gắn liền với “ văn hoá tâm linh ” – khái niệm bộc lộ thực ra đời sống chân thực của con người. Tuy nhiên, lúc bấy giờ khái niệm sự sống không được giới nghiên cứu và điều tra làm rõ những mặt hầu hết của nó như sau : quy luật tăng trưởng của sự vật, vật thể, vật chất sống ( sự chưa sống ) ở bên trong quốc tế ; hiện thực khách quan của hiện tượng kỳ lạ phi vật thể, ý thức sống ( sự không sống ) ở bên ngoài quốc tế ; quy luật, hiện thực tăng trưởng khách quan của sự vật, hiện tượng kỳ lạ thực thể, ý thức sống ( sự sống ) sống sót ở giữa bên ngoài, bên trong quốc tế. Mô hình cấu trúc của sự sống được biểu lộ như sau : sự chưa sống – sự sống – sự không sống. Tức là, khái niệm sự sống biểu lộ thực ra quy luật, hiện thực tăng trưởng khách quan của sự vật, hiện tượng kỳ lạ thực thể, ý thức sống sống sót ở giữa bên ngoài, bên trong quốc tế. Nói cách khác, sự sống bộc lộ tri thức khoa học về ý thức sống của con người. Khái niệm sự sống gắn liền với sự sống sót của loài người ; không có loài người thì không hề có khái niệm sự sống .

Cách nhận thức khoa học khái niệm ‘sự thật’.Sự thật gắn liền với “cuộc sống chân thật của con người” –văn hoá tâm linh. Tuy nhiên, hiện nay khái niệm sự thật không được giới nghiên cứu làm rõ các mặt chủ yếu của nó như sau: thuật ngữ sự biểu hiện bản chất quy luật phát triển của sự vật, vật thể, vật chất sống (sự sống chưa thật) ở bên trong thế giới – chưa đúng sự thật; thuật ngữ thật biểu hiện tính chất hiện thực khách quan của hiện tượng phi vật thể, tinh thần sống (sức sống không thật) ở bên ngoài thế giới – không đúng thật sự; khái niệm sự thật biểu hiện thực chất quy luật, hiện thực phát triển khách quan của sự vật, hiện tượng thực thể, ý thức sống (cuộc sống thật) tồn tại ở giữa bên ngoài, bên trong thế giới – đúng thật. Mô hình cấu trúc của sự thật được biểu thị như sau: chưa đúng sự thật–đúng thật–không đúng thật sự. Tức là, khái niệm sự thật biểu hiện thực chất quy luật, hiện thực phát triển khách quan của sự vật, hiện tượng thực thể, ý thức, sự sống tồn tại ở giữa bên ngoài, bên trong thế giới.Nói cách khác, sự thật biểu hiện thực chất thật về ý thức, sự sống của con người.Khái niệm sự thật gắn liền với sự tồn tại của con người; không có con người thì không thể có khái niệm sự thật.

Cách nhận thức khoa học khái niệm ‘ Thiên Chúa ’. Khái niệm Thiên Chúa ( God ) gắn liền với văn hoá tâm linh, như mừng “ Lễ Giáng sinh ” – Lễ Thiên Chúa giáng sinh ( Noel, Christmas ). Tuy nhiên, lúc bấy giờ khái niệm Thiên Chúa không được giới nghiên cứu và điều tra làm rõ những mặt đa phần của nó như sau : thuật ngữ Thiên ( thiên địa ) biểu hiện vật chất sống ( phần xác – quốc gia ) gắn với thời hạn hoạt động tuyệt đối ở bên trong quốc tế ; thuật ngữ Chúa bộc lộ niềm tin sống ( phần hồn – khí trời ) gắn với khoảng trống bất động tương đối ở bên ngoài quốc tế ; còn khái niệm Thiên Chúa bộc lộ ý thức sống ( sự sống – con người ) gắn với trần gian vừa hoạt động tuyệt đối, vừa bất động tương đối sống sót ở giữa bên ngoài, bên trong quốc tế. Do đó, cách nhận thức khoa học khái niệm Thiên Chúa phụ thuộc vào vào sự hiểu biết rõ thực chất thời hạn ( sự chưa sống ) ở bên trong quốc tế ; đặc thù khoảng trống ( sự không sống ) ở bên ngoài quốc tế ; thực ra trần gian ( sự sống ) sống sót ở giữa bên ngoài, bên trong quốc tế. Tức là, Thiên Chúa gắn liền với sự sống con người ; không có con người thì cũng không hề có khái niệm Thiên Chúa. Thiên Chúa giáng sinh bộc lộ thực ra sự sống con người “ được hình thành là do quỹ đạo toàn cầu tự quay vòng xung quanh nó và quay xung quanh mặt trời sống sót ở giữa bên ngoài, bên trong thiên hà hệ mặt trời ” 6 .
Cách nhận thức khoa học thuật ngữ ‘ Tết ’. Thuật ngữ Tết gắn liền với văn hoá tâm linh, như lễ mừng đón năm mới ( Tết âm lịch, Tết dương lịch, Tết truyền thống ) của những dân tộc bản địa, vương quốc trên quốc tế. Tuy nhiên, lúc bấy giờ thuật ngữ Tết chưa được những người nghiên cứu và điều tra làm rõ những mặt hầu hết của nó như sau : năm cũ biểu lộ thực chất sự sống độc lập của vương quốc ; năm mới biểu lộ đặc thù sức sống tự docủa con người ; giao thời giữa năm cũ và năm mới bộc lộ thực ra đời sống niềm hạnh phúc của con người, vương quốc, quốc tế ( xã hội loài người ). Do đó, cách nhận thức khoa học thuật ngữ Tết phụ thuộc vào vào sự hiểu biết rõ đặc thù sức sống tự do ; thực chất sự sống độc lập ; thực ra đời sống niềm hạnh phúc của con người, vương quốc, quốc tế trong quốc tế tự nhiên và xã hội. Điều đó có nghĩa, thuật ngữ Tết bộc lộ tri thức khoa học về đời sống niềm hạnh phúc không chỉ của con người, mà của cả vương quốc và quốc tế ; tức là, “ không có con người niềm hạnh phúc sẽ không hề có vương quốc niềm hạnh phúc ; không có vương quốc niềm hạnh phúc sẽ không hề có quốc tế niềm hạnh phúc ” 7. Từ những nghiên cứu và phân tích cho thấy rằng, thuật ngữ Tết gắn liền với đời sống chân thực của con người. Con người sống không chân thực với chính bản thân mình, với đồng loại trong quốc tế tự nhiên và xã hội thì con người không hề có Tết, niềm vui và đời sống niềm hạnh phúc thật sự .

Kết luận

Khái niệm văn hoá tâm linh biểu lộ thực ra tri thức khoa học vềcuộc sống chân thực của con người trong quốc tế tự nhiên và xã hội. Cuộc sống của xã hội loài người không hề sống sót lâu dài hơn nếu không có văn hoá tâm linh. Tức là, những cá thể, nhóm, hội đồng không sống chân thực, thân thiện, nhân văn trong vương quốc, xã hội loài người thì đời sống trên toàn cầu này sẽ ngày càng bị huỷ diệt. Nhận thức đúng khái niệm văn hoá tâm linh là yếu tố cấp thiết ở những vương quốc trên quốc tế ; cơ sở khoa học để công dân hoàn toàn có thể hiểu rõ thực ra những khái niệm, như thực sự, sự sống, con người, niềm hạnh phúc, nguồn gốc thật của sự sống những loài vật, trong đó có loài người. Nhận thức không đúng khái niệm văn hoá tâm linh về thực ra là do thiếu sự liêm chính học thuật của con người, dẫn đến hậu quả xấu đi so với sự tăng trưởng. Do vậy, để vương quốc, quốc tế tự nhiên và xã hội loài người tăng trưởng bền vững và kiên cố, tức là bảo vệ “ sự cân đối, cân đối, hài hoà lâu bền về môi trường tự nhiên sống của những thành viên, tập thể, xã hội loài vật trong quốc tế tự nhiên, sự công minh, bình đẳng công lý vững chãi về quyền hạn, giá trị, ý thức của những cá thể, nhóm, hội đồng, vương quốc trong xã hội loài người ” 8, trước hết, mỗi công dân nói chung, giới chỉ huy, nghiên cứu và điều tra nói riêng cần phải đổi khác cách nhận thức chưa khoa học, không khoa học lúc bấy giờ sang cách nhận thức khoa học ; thực thi ngay từ khâu tiên phong là hiểu biết rõ cách nhận thức khoa học về khái niệm, đặc biệt quan trọng là khái niệm văn hoá tâm linh .

Tại liệu trích dẫn:

1, 8. Nguyễn Hữu Đổng. Bàn về khái niệm học thuật. https://thevesta.vn/ban-ve-khai-niem-hoc-thuat/. Truy cập ngày 15/09/2021 .
2. LX tổng hợp và vận động và di chuyển. 9 nguyên do chứng tỏ thuyết tiến hóa của Darwin sai. https://trithucvn.org/khoa-hoc/9-ly-do-chung-minh-thuyet-tien-hoa-cua-darwin-sai.html. Truy cập ngày 14/10/2018 .
3. Nguyễn Hữu Đổng. Giải mã điều rất thiêng số 7 trong ngày Thương binh Liệt sĩ. https://kienthuc.net.vn/kho-tri-thuc/giai-ma-dieu-linh-thieng-cua-so-7-trong-ngay-thuong-binh-liet-si-712859.html. Truy cập ngày 16/07/2016 .
4. Bùi Hoài Sơn. Chấn hưng văn hoá đi chùa : Làm sao dẹp nạn trục lợi tâm linh ? https://tuoitre.vn/chan-hung-van-hoa-di-chua-lam-sao-dep-nan-truc-loi-tam-linh-2019021808364236.htm. Truy cập ngày 18/02/2019 .
5. Lê sáng. Nở rộ dự án Bất Động Sản du lịch tâm linh ( Kỳ III ) : Giới chuyên viên nói gì ? https://diendandoanhnghiep.vn/no-ro-du-an-du-lich-tam-linh-ky-iii-gioi-chuyen-gia-noi-gi-183700.html. Truy cập ngày 07/10/2020 .

6. Nguyễn Hữu Đổng. Con gà hay quả trứng gà có trước? https://thevesta.vn/con-ga-hay-qua-trung-ga-co-truoc/. Truy cập ngày 04/08/2021.

7. Nguyễn Hữu Đổng. Không có con người niềm hạnh phúc không hề có vương quốc niềm hạnh phúc. https://vietnamnet.vn/vn/goc-nhin/khong-co-con-nguoi-hanh-phuc-khong-the-co-quoc-gia-hanh-phuc-436774.html. Truy cập ngày 20/03/2018 .

Share this:

Source: https://thevesta.vn
Category: Tâm Linh