Cố HT. Thích Minh Châu: Nhà hoạch định hướng phát triển cho Phật Giáo Việt Nam
PHKH – Nhân ngày Đại tường cố Hòa thượng Minh Châu, môn đồ của Ngài cho ra mắt tập kỷ yếu với nội dung ghi lại những kỷ niệm vui buồn của môn đồ, của người thân đối với vị Thầy khả kính của mình.
Người viết vốn không phải là đệ tử của Hòa thượng, cũng không phải là tông môn tổ đình Tường Vân, nhưng lại có vinh hạnh được sống gần bên Hòa thượng trong nhiều năm. Từ năm 1984 đến năm 1988 tôi là tăng sinh khóa I Trường Cao cấp Phật học, sau khi tốt nghiệp, tôi thao tác cho Viện Nghiên cứu Phật học Nước Ta, cho đến năm 1994, tôi mới rời Vạn Hạnh đi du học ở Đài Loan. Trong khoảng chừng thời hạn 10 năm ấy, tôi sống tại thiền viện Vạn Hạnh, học được rất nhiều điều hay từ nếp sống đến cách suy tư và thao tác của cố Hòa thượng. Có thể nói, những gì mà tôi thành tựu được như ngày ngày hôm nay là thọ ân giáo dưỡng của Ngài rất nhiều. Với tư cách là học trò, qua đây tôi xin khái quát điểm lại một vài sự nghiệp mà cố Hòa thượng quan tâm đã nỗ lực triển khai việc kiến thiết xây dựng nền Phật học Nước Ta .Có thể nói, cuộc sống và sự nghiệp của cố Hòa thượng quả là điểm son cho lịch sử vẻ vang Phật giáo Nước Ta. Cố Hòa thượng là vị tiên phong khai mở con đường du học cho tăng ni sinh Nước Ta, là vị tu sĩ Phật giáo Nước Ta tiên phong tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Phật học. Ngài có công trong việc khai sáng Đại học Vạn Hạnh, Viện Nghiên cứu Phật học, điểm điển hình nổi bật nhất là cố Hòa thượng, người có công vận động và di chuyển Kinh tạng Pāli sang tiếng Việt, đã để lại cho Phật giáo Nước Ta một kho tàng văn hóa truyền thống học thuật vô giá. Vậy động lực nào đã thôi thúc Hòa thượng có sự góp phần to lớn như thế ? Tôi xin nghiên cứu và phân tích như dưới đây :
Cố Hòa thượng sinh năm 1918, trong một gia đình khoa bản tri thức, lại rất thuần tín Tam bảo. Năm 1940 đỗ Tú tài tại trường Khải Định, nay là trường Quốc Học – Huế. Sau khi tốt nghiệp, Ngài từng đảm nhiệm chức vụ thư ký cho Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Trong khoảng thời gian này, ngoài công việc làm thư ký, cố Hòa thượng nỗ lực tìm hiểu Phật học và tham gia phong trào chấn hưng Phật giáo. Có lẽ Ngài sớm cảm nhận cuộc đời vốn tạm bợ, sự nghiệp công danh gì đi nữa, cuối cùng rồi cũng trở về với cát bụi nên Ngài có ý tưởng xuất gia học đạo. Vào năm 1946 Ngài đến tổ đình Tường Vân thành phố Huế, xin xuất gia với Hòa thượng Tịnh Khiết (Đức Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN). Sau khi xuất gia, Ngài dốc lòng học Phật, đồng thời tiếp tục tham gia phong trào chấn hưng Phật giáo. Ngài có nhiều hoạt động tích cực và viết nhiều bài có giá trị mang tính xây dựng. Tuy nhiên, bản thân Ngài tự mình cảm thấy có cái gì đó khiếm khuyết trong việc cải cách chấn hưng Phật giáo…, vì ai cũng hiểu rằng, Phật giáo vào thời bấy giờ, kinh sách Phật học rất hạn chế, chỉ có một số kinh điển Đại thừa, và một số sách Phật học bằng tiếng Hán không là ngôn ngữ phổ cập ở Việt Nam, thế thì làm thế nào để cho chánh pháp được hưng thịnh trong xã hội Việt Nam. Nếu cuộc canh tân chấn hưng đó có thành công đi chăng nữa, cũng chỉ là cuộc chấn hưng mô phỏng theo Trung Quốc thì điều đó có phù hợp với tình hình thực tế ở nước ta không? đây là một vấn đề cần phải suy nghĩ và có lẽ đó cũng chính là nhân tố thôi thúc vị Tỷ kheo trẻ tri thức Thích Minh Châu chọn con đường du học ở Sri Lanka chớ không phải Trung Quốc. Ước muốn du học của cố Hòa thượng được Giáo hội đồng tình, bổn sư cũng hứa khả nên vào năm 1952, Ngài lên đường sang du học tại Sri Lanka với mục đích tìm hiểu nguồn gốc của Phật pháp. Tại đây, Ngài thấy rõ, muốn thấu hiểu Phật pháp, việc đầu tiên là phải học cổ ngữ Pāli mới có thể trực tiếp duyệt đọc nguyên bản kinh tạng Nam truyền, dĩ nhiên cũng cần phải trao dồi Anh ngữ, để giao tiếp với thế giới và viết luận văn. Vì lẽ đó, Ngài đã nỗ lực học hai ngôn ngữ này. Sau khi tốt nghiệp Cao học ở đây vào năm 1954, Ngài tiếp tục du học ở Ấn Độ với chương trình tiến sĩ ngành Phật học tại trường Đại học Nalanda. Năm 1961 tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Phật học với luận án “The Chinese Madhyamaîgama and the Pāli Majjhima NikŒya – A Comparative Study” (So sánh Kinh Trung Bộ thuộc Pāli và Kinh Trung A hàm thuộc Hán tạng). Có thể nói đây là một công trình nghiên cứu mang tính chuyên nghiệp, trước tiên đòi hỏi người nghiên cứu phải thông thạo cả hai cổ ngữ Pāli và Hán cổ mới có thể tiến hành so sánh đối chiếu được. Kết quả của sự so sánh này chính là câu trả lời chính xác nhất về sự tương đồng và dị biệt giữa hai nguồn tư liệu Pāli và Hán cổ, từ đó mới đánh giá phê bình và lý giải nguyên nhân tại sao có sự tương đồng và dị biệt giữa hai nguồn tư liệu này. Luận văn của Ngài đã được giới nghiên cứu Phật học đánh giá cao về nội dung nghiên cứu và giá trị học thuật. Ngang qua nội dung nghiên cứu của luận văn, có thể nói đây là tác phẩm mang tính định hướng giáo dục và phương pháp hoằng dương Phật pháp của Hòa thượng, nghĩa là người học Phật trước tiên phải học tập kinh điển Nguyên thủy sau đó mới tìm hiểu tư tưởng bộ phái và cuối cùng là tư tưởng Đại thừa, không thể vượt thứ lớp. Đồng thời, cũng ngang qua luận văn này, chúng ta cũng có thể xem đây là lời giải đáp cho lý do tại sao cố Hòa thượng xuất gia trong Tổ đình có truyền thống tu học theo Phật giáo Đại thừa nhưng khi về nước Hòa thượng chỉ hoằng dương Phật giáo Nam truyền, cụ thể là dịch kinh điển Nam truyền sang Việt ngữ và giảng dạy các kinh điển này, hoàn toàn không đề cập dù chê hay khen tư tưởng Phật giáo Đại thừa, nhất là Phật giáo Trung Quốc, ví dụ như khi Hòa thượng dạy thiền cho Tăng ni sinh khóa I, Hòa thượng nói: “Trong Phật giáo có hai loại thiền là Như Lai thiền và Tổ sư thiền. Ở đây tôi không hiểu về Tổ sư thiền, chỉ giới thiệu về Như Lai thiền”. Sự không hiểu này của Hòa thượng mang ý nghĩa gì? chỉ có Hòa thượng mới rõ nhưng có một điều chúng ta cần lưu ý, dựa theo các bài vị Tổ đình Tường Vân, thì Tường Vân thuộc phái thiền Lâm Tế, mặc dù cố Hòa thượng xuất gia ở đây, nhưng sống ở đây chỉ có 6 năm (là thời gian mới xuất gia), từ khi đi du học (1952) cho đến ngày viên tịch (2012), trong khoảng thời gian 60 năm tròn ấy, Hòa thượng không chỉ tu học mà ngay cả tư tưởng đều theo tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy, nhưng khi Hòa thượng viên tịch bài vị mà môn đồ thờ Hòa thượng lại ghi: “Từ Lâm Tế chánh tông, tứ thập nhị thế…Minh Châu…”, có nghĩa là cố Hòa thượng Thích Minh Châu là vị được truyền thừa đời thứ 42 thuộc dòng phái chánh tông là Lâm Tế…”. Nếu đứng từ mặt Phật học mà xét, tư tưởng Phật học của Hòa thượng Minh Châu mang tính thuần túy Phật học, không xen tạp những loại tư tưởng văn hóa khác, còn tư tưởng Lâm Tế là sản phẩm mang tính đặc thù kiểu Phật giáo Trung Quốc[1], hơn nữa công trình phiên dịch kinh điển của cố Hòa thượng có thể so sánh với Huyền Trang, La Thập mang tính khai sáng. Nếu giới Phật giáo Trung Quốc xem Huyền Trang là người có công mang hệ thống Abhidharma (pháp tướng tông) từ Ấn Độ về Trung Quốc, thì Phật giáo Việt Nam cũng cần phải có niềm tự hào được cố Hòa thượng Minh Châu mang hệ thống kinh tạng Nikàya (Nguyên thủy) về Việt Nam và dịch sang tiếng Việt, vậy tại sao lại xem Hòa thượng là cháu chắt nhiều đời của Lâm Tế? trong khi đó quá trình hình thành và phát triển phái thiền ở Trung Quốc có khá nhiều vấn đề tranh luận trong giới nghiên cứu[i]. Do vậy việc xem Lâm Tế là chánh tông, như vậy có phải chúng ta tự xác nhận quan điểm và con đường hoằng pháp của Hòa thượng là tà? Tại sao chúng ta lại tình nguyện xin Hòa thượng làm môn đồ cháu chắt đời thứ 42 của Lâm Tế? Do vậy chúng ta cần phải suy nghĩ và thảo luận vấn đề này. Đây chỉ là ý kiến riêng của tác giả.
Sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ về nước, năm 1964 Giáo hội Phật giáo Nước Ta Thống nhất xây dựng Đại học Vạn Hạnh, mời ngài làm Viện trưởng ( trường này hoạt động giải trí cho đến năm 1975 là chấm hết ), trong quá trình này dưới sự chỉ huy của Hòa thượng, viện Đại học Vạn Hạnh đã trình làng Phật giáo như thể một tôn giáo hoạt động giải trí theo xu thế tri thức hơn là tín ngưỡng. Đáng tiếc, sau khi thống nhất quốc gia gặp nhiều khó khăn vất vả nên Đại học Vạn Hạnh ngưng hoạt động giải trí. Trước tình hình đó, Phật giáo sẽ lâm vào trường hợp nguy hại nếu không có giáo dục, cho nên vì thế sau khi xây dựng Giáo hội Phật giáo Nước Ta, với tư cách là Tổng thư ký, Hòa thượng cùng Giáo hội yêu cầu xin nhà nước được cho phép Phật giáo xây dựng mạng lưới hệ thống giáo dục Phật giáo, từ sơ trung cho đến Đại học, nhằm mục đích đào tạo và giảng dạy Phật học cho Tăng ni sinh. Quan điểm này được nhà nước gật đầu, năm 1984 hình thành Trường Cao cấp Phật học Nước Ta, cơ sở I đặt tại chùa Quán Sứ – TP. Hà Nội, cơ sở II đặt tại Thiền viện Vạn Hạnh, TP. TP HCM, cả hai đều do Hòa thượng làm Viện trưởng, như vậy sự nghiệp cải cách Phật giáo bằng con đường giáo dục lại liên tục. Sau đó một vài năm, cố Hòa thượng lên kế hoạch xây dựng Viện Nghiên cứu Phật học, nhằm mục đích tập trung chuyên sâu giới tri thức điều tra và nghiên cứu Phật học, ngang qua đó xây dựng Hội đồng phiên dịch Đại tạng kinh Nước Ta, nhằm mục đích thực thi phiên dịch chỉnh sửa và biên tập bộ Đại tạng kinh Nước Ta, hoàn toàn có thể nói đây là trách nhiệm quan trọng của Giáo Hội, của Tăng già Nước Ta. Thử nghĩ một quốc gia tự hào có chiều dài gần 2000 năm lịch sử vẻ vang Phật giáo, nhưng cho đến nay vẫn chưa có bộ Đại tạng kinh bằng tiếng Việt. Đây là điều mà bất kể người lãnh đạo Phật giáo nào cũng cần phải tâm lý và tìm cách xử lý. Dẫu rằng, khi Hòa thượng ra đi Bộ Đại tạng kinh Nước Ta vẫn chưa triển khai xong, nhưng đó chỉ mang tính khuynh hướng cho người sau thừa kế thực thi .
Ngoài những chức vụ vừa đề cập cố Hòa thượng còn giữ nhiều chức vụ không kém phần quan trọng khác nữa, như phó quản trị ABCP quốc tế kiêm quản trị Trung tâm ABCP Việt Nam …
Chúng ta cần hiểu rằng, ở đây đề cập những chức vụ của cố Hòa thượng không đồng nghĩa xem chuyện chức quyền là niềm vinh hạnh tự hào, chỉ xem nó như là phương tiện để thực hiện định hướng phát triển Phật giáo của Hòa thượng mà thôi. Quan điểm này chúng ta có thể thấy rõ qua sự nghiệp phiên dịch kinh điển, hình thành các cơ sở giáo dục, viện nghiên cứu để làm hướng đi cho sự phát triển của Phật giáo.
Xem thêm: Phật pháp vô biên : 14 lời Phật dạy
Có người hỏi, cố Hòa thượng giữ nhiều chức vụ quan trọng như thế thì giờ đâu mà dịch tầm cỡ. Vấn đề này được chính Hòa thượng dạy cho chúng tôi khi còn là học viên của trường, ngài nói : “ Mặc dù đời sống của ‘ chúng tôi ’ bộn bề việc làm điều hành quản lý Đại học Vạn Hạnh, nhưng ‘ chúng tôi ’ không bỏ giờ tọa thiền vào buổi khuya, và 2 giờ dịch kinh sau giờ tọa thiền mỗi ngày, do vậy việc phiên dịch kinh của ‘ chúng tôi ’ không bị trở ngại hoặc gián đoạn … ”. Đó là thực sự, là kinh nghiệm tay nghề thao tác của cố Hòa thượng, vì khi tôi sống tại Vạn Hạnh thường thấy, cứ 4 giờ sáng học tăng chúng tôi đi Công phu khuya thì Hòa thường thức dậy tọa thiền, sau đó Ngài phiên dịch tầm cỡ. Nếu ta nhẫm tính cứ mỗi ngày bỏ ra 2 giờ dịch kinh, làm như vậy suốt vài chục năm thì 5 bộ Nikàya được Ngài dịch sang tiếng Việt cũng là điều tất yếu. 5 bộ Nikàya được Ngài dịch sang tiếng Việt là : “ Trường Bộ Kinh ” ( Dighanikàya ), “ Trung Bộ Kinh ” ( Majjhimanikàya ), “ Tương Ưng Bộ Kinh ” ( Sa × yuttanikŒya ), “ Tăng Chi Bộ Kinh ” ( Aºguttaranikàya ) và “ Tiểu Bộ Kinh ” ( Khuddakanikàya ). Ở đây cần quan tâm, “ Tiểu Bộ Kinh ” gồm nhiều tập, trong đó phần Jakaka do Trần thị Phương Lan dịch từ bản tiếng Anh, không phải do đích thân Hòa thượng dịch. Tại sao Hòa thượng lại không tự dịch ? Phải chăng Hòa thượng quá bận việc không có thời hạn hay do sức khỏe thể chất yếu ? Theo tôi cả hai nguyên do này không đúng. Lý do mà Hòa thượng đắng đo không dịch chính là nội dung tư tưởng của bản kinh này, những câu truyện tiền thân Phật rõ ràng Open tương đối trễ, chịu tác động ảnh hưởng tư tưởng của những tôn giáo khác, có lẽ rằng đó là nguyên do mà Hòa thượng không dịch bản kinh này. Có lẽ đây cũng chính là nguyên do tại sao nguồn tư liệu Bắc truyền ‘ Kinh A-hàm ’ chỉ có 4 bộ : “ Trường A-hàm ” ( 長阿含 ), “ Trung A-hàm ” ( 中阿含 ), “ Tạp A-hàm ” ( 雜阿含 ), “ Tăng nhất A-hàm ” ( 增壹阿含 ), không xếp phần “ Bổn Sanh ”, “ Bổn Sự ” vào Kinh A hàm, thành 5 bộ A hàm như Nam truyền. Như vậy, 4 ( hay 5 ) bộ Nikàya mà cố Hòa thượng dịch là tư tưởng cơ bản của Phật giáo Nam truyền, Thượng tọa bộ gọi đó là tầm cỡ Nguyên thủy, là lời đức Phật giảng dạy. Riêng phần luận tạng Hòa thượng chỉ dịch “ Thắng Pháp Tập Yếu Luận ” ( Abhidhammatthasangaha ), là tác phẩm với nội dung chuyên nghiên cứu và phân tích mối quan hệ giữa sắc pháp và tâm pháp, nhằm mục đích làm rõ lộ trình hình thành và chấm hết của những phiền não. Nội dung tác phẩm này nhằm mục đích làm rõ, tổng hợp và nghiên cứu và phân tích lộ trình tu tập đã được đức Phật giảng dạy trong 5 bộ Nikàya. Đồng thời, đứng trước thế kỷ văn minh vật chất tăng trưởng, xã hội quay cuồn trong sự tận hưởng dục vọng, có khuynh hướng phủ nhận đời sống tương lai, xem thường luật nhân quả, nên Hòa thượng đã viết tác phẩm “ Milindapannha And Ngasenabhikhustra – A comparative study ” ( Tiếng Việt ? ). Nội dung tác phẩm này nhằm mục đích làm rõ sự tương tục giữa đời sống này và đời sống tiếp nối, được Tỷ kheo Na Tiên ví như ngọn lửa của bó đuốc, khi sắp hết nguyên vật liệu, nó lại được liên kết sang một bó đuốc khác, những bó đuốc tuy có sinh diệt khác nhau, nhưng ngọn lửa vẫn tương tục, không chấm hết. Cũng vậy mạng người cũng thế, thân tứ đại này đến trăm tuổi tứ đại sẽ tan rã, nhưng tâm thiện ác một khi đã tạo nhân ắt hẳn phải thọ quả, nhân quả đó sẽ nối nhau sống sót, tiếp nối từ đời này đến đời khác. Có thể nói, đây là yếu tố tranh cãi giữa Phật giáo với ngoại đạo, giữa bộ phái này với bộ phái khác trong Phật giáo, nhất là xã hội của thế hệ trẻ, không tin nhân quả tội phước. Có lẽ đây chính là nguyên do Hòa thượng muốn mượn ý tứ của Na Tiên Tỷ kheo gợi ý cho thế hệ trẻ, cần tâm lý lại cách tư duy của mình, nhằm mục đích đổi khác cách sống không lành mạnh trong đời hiện tại, để kiến thiết xây dựng đời sống tốt đẹp ở tương lai .
Cuối cùng, có hai tác phẩm rất quan trọng không hề không đề cập là “ Huyền Trang, nhà chiêm bái và học giả ” ( Hsuan T’sang, The Pilgrim and Scholar ), và trong tác phẩm “ Pháp Hiển, nhà chiêm bái nhã nhặn ” ( Fa-Hsien, The Unassuming Pilgrim ), hoàn toàn có thể nói đây là hai tác phẩm mà Hòa thượng muốn gởi một thông điệp cho những nhà lãnh đạo Phật giáo Nước Ta, muốn Phật giáo Nước Ta tăng trưởng, Phật pháp càng hưng thịnh, hãy lấy chủ trương giáo dục làm đầu, xem việc du học của Tăng ni sinh như thể từng viên đá để thiết kế xây dựng cho sự tăng trưởng Phật pháp trong lòng dân tộc bản địa. Đồng thời Ngài muốn nhắn nhủ Tăng Ni sinh cần phải nỗ lực học tập Phật pháp, noi gương niềm tin cầu học như Ngài Pháp Hiển và Huyền Trang, bằng mọi cách tìm đường du học, tích lũy kiến thức và kỹ năng Phật học, học tập cách sưu tập tìm tòi tư liệu như Huyền Trang, để làm hành trang cho việc điều tra và nghiên cứu chính mình, đồng thời cung ứng tư liệu cho người nghiên cứu và điều tra Phật học trong nước. Thiết nghĩ đây chính là động cơ Ngài viết hai tác phẩm này, tất cả chúng ta là người xuất gia, là trưởng tử Như Lai, phải xem sự tồn vong của Phật pháp là nghĩa vụ và trách nhiệm của mình, thế thì sự gợi ý của Ngài, đáng được tất cả chúng ta suy gẫm .
Những tác phẩm còn lại của Hòa thượng có lẽ xuất hiện trong nhiều yếu tố nhân duyên khác nhau, trong ấy có một vài điểm cần thảo luận làm rõ tác phẩm nào do Hoa thượng viết và tác phẩm nào do thư ký chấp bút.
Qua những tác phẩm điều tra và nghiên cứu và dịch thuật của cố Hòa thượng cho thấy : 1. Hòa thượng là một nhà nghiên cứu trình độ, nhà giáo dục chân chính ; 2. Nếu như Phật giáo Trung Quốc tự hào Huyền Trang là Tam tạng pháp sư, có công dịch những bộ luận của Hữu bộ thì Phật giáo Nước Ta nên tự hào Hòa thượng Minh Châu là vị có công phiên dịch 5 bộ Nikaya từ cổ ngữ Pali sang tiếng Việt và trình làng tư tưởng bộ kinh này cho Tăng ni Phật tử Nước Ta biết Phật giáo Nguyên thủy ; 3. Hòa thượng Minh Châu là vị có công trong việc hình thành những cơ sở giáo dục, điều tra và nghiên cứu và phiên dịch tầm cỡ cho Phật giáo Nước Ta .
[ 1 ] Lữ Trừng ( Hạnh Bình dịch ), “ Lịch sử Tư tưởng Phật học Trung Quốc ”, ‘ Phần Dẫn luận ’, Nxb Phương Đông, 2013, trang 16 .
[ i ] Lữ Trừng ( Hạnh Bình dịch ), “ Lịch sử Tư tưởng Phật học Trung Quốc ”, ‘ Phần Thiền tông ’, Nxb Phương Đông, 2013, trang 675 – 694 .
Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp