‘Theo dấu chân Hồng Hạc’ – chuyện chưa kể về Thầy Huyền Diệu
‘Theo dấu chân Hồng Hạc’ – chuyện chưa kể về Thầy Huyền Diệu
Trong những chuyến hành hương đầu năm về đất Phật – Ấn Độ và Nepal, bất kỳ người Việt Nam nào cũng đều dành thời gian ghé thăm An Việt Nam Phật Quốc Tự – ngôi chùa Việt Nam đầu tiên trên đất Phật, ngôi chùa giản dị, ẩn mình giữa màu xanh của thiên nhiên. Một câu chuyện đầu năm, chúng tôi muốn chuyển đến quý vị và các bạn là hành trình không mệt mỏi nhưng cũng đầy nhân duyên để xây dựng 2 ngôi chùa này của Hòa thượng trụ trì, Thầy Huyền Diệu. Thầy cũng là Chủ tịch Liên đoàn Phật giáo thế giới tại Lâm Tỳ Ni (Lumbini) – Nepal và có những đóng góp to lớn tại đất nước này.
Video: Thầy Huyền Diệu chúc Tết 2020 tại An Việt Nam Phật Quốc Tự.
” Tôi một mực tin cậy rằng, nếu như tổng thể tất cả chúng ta biết yêu thương xứ sở của mình, biết thao tác phúc đức, biết tôi luyện ý chí để vươn tới thành công xuất sắc, biết nuôi dưỡng văn hóa truyền thống hiếu hòa trong tâm hồn thì xung quanh tất cả chúng ta sự màu nhiệm sẽ luôn lấp lánh lung linh, kì diệu và giật mình. Cũng giống như câu truyện mà loài chim quý và hiếm đã bay về ngôi chùa Việt Nam trên đất Phật làm bạn với tôi và mang lại cho tôi những bài học kinh nghiệm quý giá về đời sống “, Thầy Huyền Diệu – An Việt Nam Phật Quốc Tự Ấn Độ – Nepal ..
Gian nan xây chùa Việt Nam trên đất Phật
Sinh ra trong một mái ấm gia đình nghèo ở tỉnh Bến Tre, là nạn nhân chịu nhiều đau khổ của bệnh tật, đói nghèo và cuộc chiến tranh. Năm 8 tuổi, như một nhân duyên, Thầy Huyền Diệu được sư phụ Hoằng Nhơn tương hỗ và đưa tới ngôi chùa ở vùng Bảy núi Thất Sơn, giáp biên giới Miên – Việt .“ Hồi nhỏ tôi giống như bao đứa trẻ khác, say sưa với Tam Tạng thỉnh kinh. Lớn lên được đọc truyện của thầy Huyền Trang, tôi rất là xúc động. Thầy là một người khác thường, có một lý tưởng đặc biệt quan trọng, đã quyết tâm đi bộ từ Trung Quốc sang Ấn Độ. Khi đó tôi chỉ mơ ước trong cuộc sống của mình sẽ được theo dấu chân ngài. Khi lớn lên nữa, tôi được đọc đoạn kinh Maha Mangala Sutta thì còn thích nữa. Đức Phật khuyên trong đời những người đệ tử của Phật nên có một lần chiêm bái một trong tứ nhà thời thánh, tứ đồng tâm ”, Thầy Huyền Diệu san sẻ .
Thầy Huyền Diệu. |
Năm 1969, khi đang là sinh viên theo học Đại học Nantes và Sorbonne của Pháp, Thầy Huyền Diệu đặt chân đến Bồ Đề Đạo Tràng ở Ấn Độ. Quỳ dưới Kim Cang tọa, lòng thầy trào dâng một niềm xúc động bởi ước nguyện của cuộc sống mình đã thành thực sự. Chứng kiến những ngôi chùa của những nước hiện hữu trên nhà thời thánh Phật giáo, Thầy không khỏi chạnh lòng, đạo Phật đã đến Việt Nam trên 2 nghìn năm nhưng nơi đây lại không có bóng hình ngôi chùa của quê nhà xứ sở. Trong cảm hứng ấy, Thầy nhớ lại những lời Thẩy tổ Hoằng Nhơn đã dạy .“ Tôi nhớ lại mật pháp của sư phụ, khi nào mình được như mong muốn đến những nơi rất thiêng thì mình nên thành tâm, thành thật khấn nguyện, tham vọng rất nhiều điều. Trong đó, có 1 điều mà tôi lặp đi tái diễn rất nhiều lần là trước khi nhắm mắt, mong rằng được thấy hình ảnh ngôi chùa Việt Nam, chùa lá cũng được ở gần cõi Bồ Đề, gần nơi đức Phật đắc đạo giữa những chùa quốc tế ”, Thầy Huyền Diệu nói .Dành dụm từng đồng xu tiền đi dạy học và nhận được sự ủng hộ tích cực của những học trò Âu Mỹ. Nhiều năm sau đó, trải qua bao khó khăn vất vả trắc trở, Thầy mua được miếng đất 450 mét vuông, trong khi chùa của những nước rộng hàng ngàn mét do nhận được sự tương hỗ rất lớn của nhà nước .Việt Nam những năm đầu của thập kỷ 80, tình hình trong nước sau cuộc chiến tranh còn đói nghèo, Phật giáo chưa được chấn hưng, hội đồng người Việt ở Bồ Đề Đạo Tràng Ấn Độ khi ấy chỉ có một mình Thầy nên việc xây chùa khó khăn vất vả chưa từng thấy. Nhưng đã là nhân duyên thì mọi việc có vẻ như được sắp xếp, lần lượt những chủ đất xung quanh đã chấp thuận đồng ý bán lại cho Thầy, từ từ, diện tích quy hoạnh của ngôi chùa lên đến 30.000 mét vuông. Khi việc xây chùa còn đang dang dở thì một cơ duyên khác lại giật mình đến với Thầy .
Buổi nói chuyện, gặp mặt thân tình của Thầy Huyền Diệu với TW Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam và Tạp chí Kinh tế Môi trường. |
“ Sau khi chiêm bái Bồ Đề Đạo Tràng, tôi đến Lâm Tỳ Ni lúc đó đang còn tiêu điều, tôi bàng hoàng, trong sách mình đọc đây là nơi đức Phật rất là rất thiêng, đẹp mà rồi khi mình đến lại như thế này, nhưng khi nhìn lên thì thấy có 5 dòng chữ của vua A Dục ( Ashoka ) viết, đó là một trong những chữ cổ thì tôi mới biết đây là nơi đức Phật được sinh ra. Tôi cũng vận dụng mật pháp của sư phụ là mình khấn nguyện và tham vọng. Nếu chỗ này thực sự là nơi đức Phật giáng trần xin được nhìn thấy trước khi nhắm mắt, chỉ như vậy thôi .Tôi tốt nghiệp xong và đi dạy học những nơi thì tôi thường đem tâm sự, đây là nơi Phật giáng trần mà tại sao lại hoang phế điêu tàn như vậy thì chính những người tình cảm với tôi cũng như những học trò đã đem câu truyện này nói với vua Birendra ( Vua Nepal hồi đó ). Vua Birendra cũng rất cảm kích và nói mời Thầy đến thì sẽ cho đất ”, Thầy Huyền Diệu kể .Vì Thầy Huyền Diệu là người quốc tế tiên phong được cấp đất xây chùa tại nơi đức Phật đản sinh nên vua Nepal cho một chiếc máy bay đặc biệt quan trọng đưa Thầy xuống Lâm Tỳ Ni để chọn đất. Ngồi trên máy bay lựa chọn kỹ lưỡng nhưng khi đứng trước khu đất, Thầy tuyệt vọng não nề. Một vùng đất trũng sình lầy và toàn ao hồ sẽ khiến việc dựng chùa khó khăn vất vả chồng chất thêm khó khăn vất vả. Số tiền 60 USD còn lại trong túi của Thầy lúc ấy chỉ đủ dựng căn lều plastic và mua những đồ vật hoạt động và sinh hoạt .Là khởi nguồn của đạo Phật nhưng ở Ấn Độ và Nepal số người dân theo đạo Phật lại rất nhã nhặn, chính thế cho nên, Thầy Huyền Diệu hiểu rằng, ngôi chùa Việt Nam không hề sống sót độc lập ở nơi này nếu không hoạt động những nước Phật giáo trên quốc tế cùng thiết kế Lâm Tỳ Ni trở thành một quần thể. Và thế là Thầy bền chắc, kiên trì đến những nước thuyết phục .“ Số phận của tôi khổ hay sao đó, mấy chục kiến trúc sư và kĩ sư, sau cuối bỏ giữa chừng vì họ tò mò ra việc xây chùa này là không có tiền. Tôi cũng phải nói là như mong muốn khi gặp kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng và sau đó tôi tự làm lấy, tự mua sắt, xi-măng. Phải nói cụ Nguyễn Bá Lăng là một kiến trúc sư rất là có tâm ”, Thầy Huyền Diệu san sẻ .Ngôi chùa Một Cột, một trong những hình tượng kiến trúc độc lạ của Thăng Long, TP.HN đã được kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng trùng tu lại năm 1955. Và thật nhân duyên khi chính ông là người tái hiện hình tượng của Thăng Long trên đất Phật cùng kiến trúc đậm truyền thống văn hóa truyền thống Việt của ngồi chùa An Việt Nam Phật Quốc Tự .
Thầy Huyền Diệu chụp ảnh kỷ niệm cùng Lãnh đạo và PV, BTV Tạp chí Kinh tế Môi trường. |
Thầy Huyền Diệu cho biết : ” Tôi đọc lịch sử dân tộc Việt Nam thì thời Lý – Trần là một thời rất là đặc biệt quan trọng, có một tư tưởng rất độc lập về kiến trúc. Mái chùa thuần Việt Nam phải là mái chùa Một Cột, vừa nhu vừa cương. Hồi xưa, tôi muốn làm y hệt chùa ngoài Thành Phố Hà Nội nhưng không biết sao mà lúc đào móng và đúc lên thì mới thấy lớn hơn gấp 2,5 lần ngôi chùa ngoài Bắc. Ngôi chùa này tôi không sao chép giống ngôi chùa ngoài Bắc, tôi chế lại, thay vì ngoài Bắc có cây cầu thì tôi làm búp sen lên ” .Tự tay bẻ sắt, đúc móng làm chùa rồi tự tay trồng những bông sen, bông súng, tự tay đóng những đồ vật hoạt động và sinh hoạt. Thầy lấy sự giản dị và đơn giản, đơn sơ làm điều an vui cho cuộc sống mình. Chính sự đơn giản và giản dị ấy, đã làm nên hồn cốt cho ngôi chùa An Việt Nam Phật Quốc Tự giữa muôn vàn kiến trúc chùa chiền tại Lâm Tỳ Ni .
An Việt Nam Phật Quốc Tự – Ngôi chùa Việt Nam tại Nepal. |
Trong bước chân hành hương đầu năm tới Nepal, mảnh đất nơi đức Phật sinh ra, chiêm bái quần thể hơn 30 ngôi chùa mà Thầy đã dày công vận động những nước cùng xây đắp, lòng bạn sẽ không khỏi xúc động khi phát hiện hình ảnh của quê nhà rất đỗi yêu dấu sau cánh cổng bình dị .Là những bụi tre rợp bóng của làng quê, là hình ảnh giữa trưa hè yên ả của chú bé chăn trâu thổi sáo, là những đóa sen trắng muốt, thanh tao tỏa hương ngan ngát giữa một màu xanh của cây trái. Bạn sẽ thấy chốn nương náu cho tâm hồn mình giữa những tháng ngày nơi đất khách, bởi những gì từ trái tim sẽ chạm đến trái tim .Sinh ra trong những năm tháng quê nhà bị giày xéo bởi cuộc chiến tranh, trưởng thành và học tập xa quốc gia, Thầy Huyền Diệu luôn thương nhớ về những hình ảnh bình dị, quen thuộc đã ấp ôm mình thời thơ ấu. Trái tim yêu quê nhà quốc gia, tri ân cội nguồn ấy đã tạo nên một khoảng trống An Việt Nam Phật Quốc Tự bình yên, hiền hậu như vòng tay người mẹ. Điều bạn sẽ ấn tượng không hề quên khi đặt chân đến nơi này là hình ảnh của những tấm map Tổ quốc .“ Tôi ở đây có một mình thôi, thành ra chỗ nào tôi cũng để map để rủi tôi có chết thì không ai vào mà đổi được hết, ngay cả hành lang cửa số và chỗ nào cũng vậy. Chính vì thế mà tôi làm map Việt Nam để xác lập đây là chùa Việt Nam ”, Thầy Huyền Diệu vui tươi kể .Chị Nguyễn Thị Kim Anh ( Berlin – Đức ) cho biết : “ Chúng tôi là người Việt Nam sống xa xứ cũng đã lâu, hơn 10.000 km chúng tôi cũng đã đến được nơi đất Phật này. Khi chúng tôi bước chân vào ngôi chùa này, chúng tôi cảm thấy mình đang sống giữa một làng quê của Việt Nam. Nơi đây đã mang lại cho chúng tôi rất nhiều cảm hứng, tôi cảm thấy được thầy trụ trì đã rất yêu dấu quốc gia Việt Nam và luôn luôn hướng về quốc gia ” .
Chim Hồng Hạc bay về và tấm lòng Thầy Huyền Diệu đối với đất nước Nepal
Xem thêm: Phật tại tâm là gì?
Nhiều phật tử cũng được biết đến Thầy Huyền Diệu bởi những lần theo dấu chân Hồng Hạc sau khi đọc xong cuốn sách rất nổi tiếng của Thầy “ Khi Hồng Hạc bay về ”. Đó là câu truyện kể về loài chim quý và hiếm đã đáp cánh xuống An Việt Nam Phật Quốc Tự làm tổ trong những ngày Thầy cất chùa tại Nepal .Chị Nguyễn Thị Hà ( TP Hồ Chí Minh ) san sẻ : “ Cách đây 17 năm, vô tình tôi đọc được cuốn sách ‘ Khi Hồng Hạc quay về ’ của Thầy Huyền Diệu và trong tâm lý của tôi ước ao được một ngày đặt chân đến nơi đây. Và thời điểm ngày hôm nay tôi đã thực sự được đến đây, tôi thật sự ngỡ ngàng với bao khung cảnh mà Thầy đã dày công thiết kế xây dựng, bảo vệ loài chim quý và hiếm này ” .
Chim Hồng Hạc ở An Việt Nam Phật Quốc Tự tại Nepal. |
“ Vào buổi sáng khi tôi đang chuẩn bị sẵn sàng công chuyện thì tự nhiên thấy 2 con chim từ phương xa tới sà xuống, nó đứng cao hơn tôi. Phản ứng tiên phong của tôi là chạy vào căn chòi tranh, lấy cây gậy cầm trong tay để nếu nó tiến công thi tôi sẽ đánh nó. Nhưng sau khi quay ra thì thấy 2 con chim này nhìn tôi cũng rất tình cảm. Suốt từ đó tôi nghĩ rằng, trong cuộc sống làm gì có những con chim lạ lùng thế này, tôi đi vào thư viện Nhật Bản lục sách ra xem thì mới biết được tên là Sarus Crane. Tôi liên lạc điện thoại thông minh với mấy người bạn bên Mỹ tìm hội bảo vệ chim vì nó là một loại chim quý và hiếm. Sau đó, tôi hoạt động họ sang bên này và lập một ban về chim, tôi được họ bầu làm trưởng phòng ban ”, Thầy Huyền Diệu cười nói .Loài chim đó được Thầy Huyền Diệu gọi một cách yêu thương là Hồng Hạc, tên khoa học là Sarus Crane hay còn gọi là Sếu đầu đỏ có chiều cao trung bình 1,8 m. Kể từ ngày chim Hồng Hạc Open ở Lâm Tỳ Ni, Thầy lại thêm việc làm của một nhà bảo vệ môi sinh giữa những bộn bề của việc xây chùa. Thầy lặn lội xuyên qua những đầm lầy lau sậy, khám phá, quan sát những tập tính của Hồng Hạc .Tâm huyết hoạt động người dân địa phương cùng tham gia bảo vệ và nỗ lực ngăn ngừa những kẻ trộm trứng và săn bắt loài chim này. Từ chỗ chỉ có vài chục con sinh sống rải rác, đến nay đàn Hồng Hạc tại Lâm Tỳ Ni đã lên đến gần 380 con. Trong quy trình cùng những tổ chức triển khai quốc tế bảo vệ loài chim, khi đi qua một dòng sông, Thầy đau lòng tận mắt chứng kiến cảnh người dân phải lội dòng nước siết dâng cao, nhiều phụ nữ và trẻ nhỏ phải bỏ mạng. Lúc này, dù việc xây chùa đang dang dở, do kinh phí đầu tư hết sạch nhưng cứu một mạng người bằng xây 7 tòa tháp, thầy quyết định hành động đứng ra lôi kéo góp phần để kiến thiết xây dựng cây cầu mang tên “ Cây cầu tình thương Việt Nam ” .Ông Telak Ram, người dân địa phương Lumbini ( Nepal ) cho biết : “ Nhiều năm trước tôi sống và thao tác ở đây, trước khi Thầy kiến thiết xây dựng ngôi chùa ở đây thì làm gì có đường xá đâu. Mùa mưa nước ngập đến đầu người, nhiều người đã bị nước cuốn đi, Thầy thấy thương chúng tôi quá nên đã quyết định hành động trợ giúp, rồi thầy lôi kéo người dân ở ngôi làng này và nhiều ngôi làng lân cận, kêu gọi nhân công kiến thiết xây dựng cây cầu. Từ khi có cây cầu Việt Nam người dân chúng tôi cảm thấy vô cùng niềm hạnh phúc ” .Còn ông Chanta Ram – quản trị liên xã Lumbini ( Nepal ) thì cho biết : “ Lần đầu Thầy đến đây, chúng tôi đã kể cho Thầy nghe về sự hung tàn của con sông này. Ngày hôm sau Thầy tận mắt chứng kiến chúng tôi lặn lội vượt sông và thế là Thầy đã quyết định hành động giúp sức dân làng kiến thiết xây dựng cây cầu. Phải nói là việc làm này rất kì công và trải qua nhiều trở ngại. Cây cầu được kiến thiết xây dựng lên đã giúp chúng tôi rất nhiều, vượt qua những khó khăn vất vả hàng ngày. Tôi thay mặt đại diện người dân trong làng gửi lời tri ân đến Thầy và những người đã phát tâm góp phần. Thầy cũng mong ước xây một ngôi trường cho trẻ nhỏ nghèo, nếu điều đó thành hiện thực quả là điều kì diệu cho chúng tôi ” .Không chỉ là cây cầu nối 2 bờ sông mà đó thực sự còn là cây cầu nối tình yêu thương và lòng nhân ái giữa con người với con người .Chứng kiến cảnh những người dân, những đứa trẻ địa phương qua sông giữa bình an ngày ngày hôm nay, lòng ta cảm thấy lay động trước những điều thiết thực và ý nghĩa mà Thầy cùng những học trò quốc tế và những tấm lòng từ Việt Nam gửi tới .Ở vùng đất này, không ai là không biết tới Doctor Lâm, cái tên mà người dân gọi Thầy với tấm lòng trìu mến. Thương mảnh đất cằn và những con người nghèo khó, Thầy hoạt động những mái ấm gia đình cho con em của mình tới trường, khuyến học bằng những phần thưởng đơn cử .“ Các cháu phải nhớ rằng việc học là chìa khóa để hướng đến thành công xuất sắc. Nếu cháu nào tốt nghiệp được cấp 3, ông sẽ Tặng Ngay chiếc xe đạp điện. Cháu nào tốt nghiệp bác sĩ, kỹ sư, ông sẽ khuyến mãi chiếc xe máy. Và những cháu phải luôn biết ơn sức lực lao động nuôi dạy của cha mẹ mình ”, Thầy Huyền Diệu chuyện trò với trẻ nhỏ tại Lumbini .Là người ngoại bang đến sinh sống và thao tác trên quốc gia này, Thầy Huyền Diệu yêu quý Nepal như quê nhà thứ hai. Và khi cuộc chiến tranh Nepal nổ ra, tình yêu ấy đã thôi thúc Thầy thực thi một thiên chức cao quý, đó là góp thêm phần can đảm và mạnh mẽ trong việc chấm hết cuộc nội chiến đẫm máu làm chết hơn 14.000 người .“ Khi tôi đến đây thì quốc gia Nepal đang độc lập, đùng một cái có cuộc chiến tranh, khi đó hầu hết những chùa ở đây họ bỏ đi hết. Tôi nghĩ rằng, nếu ở lại thì mình phải làm gì và tôi đã ở lại vì tôi là người ưu chuộng tự do, ảnh hưởng tác động tư tưởng từ đức Phật là hận thù không trừ được hận thù chỉ có từ bi xóa được hận thù. Tôi là người kinh khủng lao vào, cũng gay go lắm. Cuối cùng những phe lâm chiến đã gặp nhau nhiều lần ở chùa mình, có một cuộc ra thăm ở Lâm Tỳ Ni và buông súng ”, Thầy Huyền Diệu san sẻ .Phát biểu tại buổi lễ trình làng sách “ Nepal – Hòa bình trong tầm tay của Thầy Huyền Diệu, Thủ tướng Nepal KP Sharma Oli san sẻ : “ Cuộc nội chiến tại Nepal lê dài suốt 10 – 12 năm nhưng từ đó đến nay, những cuộc xung đột đã được xử lý ổn thỏa. Việc trấn áp vũ khí hay những yếu tố khác đã được thực thi rất tốt. Chúng tôi đã có được một nền tự do, thịnh vượng. Tôi muốn cảm ơn Thầy Huyền Diệu vì tình cảm to lớn mà Thầy dành cho quốc gia Nepal. Xin cảm ơn tình cảm của những người bạn, những mái ấm gia đình đã yêu quý quốc gia chúng tôi ” .
Chiếc bàn nơi Thầy Huyền Diệu vận động các bên tham chiến ngừng bắn trong cuộc nội chiến của Nepal. |
Chiếc bàn này là nơi Thầy Huyền Diệu đã bí mật tiếp đón và tận nơi làm những bữa cơm để hoạt động những bên tham chiến ngừng bắn. Đây cũng là nơi để những bên ngồi lại với nhau trước khi có cuộc gặp chính thức ký kết những thỏa thuận hợp tác vãn hồi tự do cho quốc gia Nepal. Chiếc bàn giản dị giờ đây Thầy dành để dùng trà và tiếp đón những người bạn quý .Chính thành công xuất sắc trong cuộc hoạt động chấm hết nội chiến của Nepal đã là động lực để Thầy Huyền Diệu cho ra đời cuốn sách “ Vũ khí tình thương ” xuất bản bằng tiếng Anh và được Liên Hợp quốc ra mắt tới công chúng vào tháng 7/2015 tại Thụy Sĩ .Để có được ngôi chùa Việt Nam trên đất Phật ngày thời điểm ngày hôm nay, không riêng gì là sự lao vào, là mồ hôi và nước mắt của Thầy Huyền Diệu mà còn là sự sẵn sàng chuẩn bị đánh đổi cả tính mạng con người của Thầy cho đạo pháp và dân tộc bản địa .“ Khi còn vua Birendra, có lẽ rằng 1 số ít người ích kỉ, thiển cận không muốn đạo Phật tăng trưởng nên họ tổ chức triển khai ám sát tôi mấy lần. 9 lần không được nên quay ra giết thầy Nhật Bản ”, Thầy Huyền Diệu kể .Những thành phần đó đã không hề dùng cái chết của thầy Yutaka Nabatame để uy hiếp được lòng tự tôn kiến thiết xây dựng ngôi chùa Việt Nam, cũng như niềm tin mãnh liệt của Thầy dành cho Phật pháp. Mặc dù, nhà nước Nepal nhiều lần khuyên Thầy tạm lánh một thời hạn nhưng Thầy đã phủ nhận bởi sự bạo tàn từ xưa đến nay chưa khi nào khuất phục được ý thức người Việt, nhất là khi mảnh đất này là nơi an nghỉ của người bạn mà thầy vô cùng thương mến và gắn bó .“ Tôi rất tin luật nhân quả, khi quý vị nghĩ điều tốt, làm điều tốt sẽ có nhiều chuyện tới. Cũng như quý vị đưa bông hồng khuyến mãi cho người khác thì tiên phong tay mình đã có mùi thơm rồi, thành ra tôi thích quốc tế này ai cũng theo lời Phật dạy, ai cũng theo lời Chúa dạy và những người ưu chuộng độc lập thì sẽ có tình thương ” .
2 ngôi chùa Việt Nam đã mọc trên thánh địa Phật giáo Ấn Độ và Nepal. |
50 năm sau ngày Thầy phát nguyện khi lần đầu đặt chân đến đất Phật, 2 ngôi chùa Việt Nam đã mọc lên trên thánh địa Phật giáo Ấn Độ và Nepal. Lâm Tỳ Ni từ một vùng đất đầm lầy hoang vu đã trở thành một quần thể văn hóa Phật giáo không chỉ của Nepal mà của cả thế giới. Những ước nguyện tốt đẹp của Thầy qua bao khó khăn và thử thách của cuộc đời cuối cùng cũng đã trở thành hiện thực.
“ Ngày thời điểm ngày hôm nay được an vui, niềm hạnh phúc và thành công xuất sắc như thế này, tôi rất như mong muốn khi sinh ra ở Việt Nam, cha mẹ Việt Nam và gặp được ông thầy người Việt Nam. Ông thầy Việt Nam dạy rất nhiều điều, trong đó có một điều mà thầy nói rất ấn tượng : Khi nào con uống một chén nước, ăn một bát cơm là không được quyền quên ơn. Và nhờ triết học này mà cách đây trên 50 năm, tôi rời khỏi quốc gia Việt Nam chỉ có cái quần và 2 cái áo, tổng thể những gì mơ ước đều đạt được hết. Nhờ tri ân thầy tổ, nhờ tri ân quốc gia Việt Nam vì vậy mới làm được tác phẩm này. Nhờ tri ân ông thầy, nhờ tri ân đất Phật, đức Phật do đó tất cả chúng ta đã cứu được Lâm Tỳ Ni. Người nào mà tri ân cha mẹ, ông bà tổ tiên, tri ân quốc gia, thầy tổ là cuộc sống họ sẽ rất niềm hạnh phúc ”, Thầy Huyền Diệu san sẻ .Sự tri ân và lòng hiếu hòa của người con Việt Nam ấy đã lan tỏa một nguồn năng lượng an bình cho loài chim Hồng Hạc quý và hiếm tìm được đất lành nghỉ chân, trở thành câu truyện kể đầy nhân văn, truyền cảm hứng cho biết bao người sống có tham vọng, có lý tưởng và niềm tin vào đạo pháp .
Xuân Đoàn
Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp