Có nên cho trẻ em nghe kinh, chú, hoặc tham dự khóa tu chung với người lớn?

Con có một con trai 4 tuổi và trước khi ngủ cháu cũng thích nghe nhạc chú Đại Bi, đôi lúc con mở cả kinh và nhạc niệm Phật. Có khi con mở cả ngày. Con không biết liệu mở nhạc niệm Phật, kinh và chú Đại Bi nhiều như vậy, nhất là cho những em nhỏ như con của con có sao không ?

VẤN:

Thưa thầy ! Con rất thích niệm chú đại bi, nghe nhạc niệm Phật và thường cầu nguyện rất nhiều như thể mái ấm gia đình niềm hạnh phúc, thành đạt, giàu sang, con cháu hiếu thuận, học giỏi, mọi người khoẻ mạnh, không bệnh tật. Con tu hành mà cầu nguyện nhiều như vậy có gọi là bị tham không ?

Con cũng có một con trai 4 tuổi và trước khi ngủ cháu cũng thích nghe nhạc chú đại bi, có lẽ nghe từ con nên con mở cho cháu nghe, thỉnh thoảng cả mở kinh và nhạc niệm Phật. Có khi con mở cả ngày.

Con không biết liệu mở nhạc niệm Phật, kinh và chú đại bi nhiều như vậy nhất là cho những em nhỏ như con của con có sao không ? Con nên dạy bé niệm thay việc nghe hay cả hai được không ? Con nghe nói kinh chú không nên mở cả đêm vì như thế dễ chiêu cảm cảnh giới xung quanh, rằng mỗi khi kinh mở ra là chư thiên, những cảnh giới khắp nơi câu hội về, kể cả âm cảnh, như thế là không tốt. Nhưng nghe nhạc nghe kinh con ngủ rất an lành dù một vài lần thức dậy có cảm xúc nhức đầu. Trẻ con nghe kinh nghe nhạc chú đại bi nhiều có tốt không thầy ? Xin thầy chỉ dạy cho con được rõ. Con cũng có một con trai 4 tuổi và trước khi ngủ cháu cũng thích nghe nhạc chú đại bi, có lẽ nghe từ con nên con mở cho cháu nghe, thỉnh thoảng cả mở kinh và nhạc niệm Phật. Có khi con mở cả ngày.

Con cũng có một con trai 4 tuổi và trước khi ngủ cháu cũng thích nghe nhạc chú đại bi, có lẽ nghe từ con nên con mở cho cháu nghe, thỉnh thoảng cả mở kinh và nhạc niệm Phật. Có khi con mở cả ngày.

ĐÁP:

Những cách tu niệm đúng cách

Niệm Phật, niệm chú, cầu nguyện, nghe niệm Phật … tổng thể đều có công đức khôn lường. Tuy nhiên, tụng kinh là để thúc liễm thân tâm trau giồi giới thân huệ mạng, trau giồi trí tuệ tiến đến giải thoát, giúp cho người tụng kinh có niềm tin tụng kinh thoát nạn, tụng kinh giải nạn tai. Thật vậy ý nghĩa tụng kinh giải nạn tai trở thành ý tưởng sáng tạo thực dụng. Tụng kinh Phật vâng lời Phật dạy, tụng kinh Phật lánh xa những điều ác, tụng kinh Phật nguyện làm những viện lành, tụng kinh Phật hay làm lành lánh dữ. Do làm lành lánh dữ là nhân lành, nhân lành thì hưởng quả lành, nhân ác thì hưởng quá ác. Chân lý là như vậy, không thể nào đổi khác được. Người trong quốc tế ta bà tu niệm Phật, có nhiều cách tu, có khi hành pháp bằng miệng, có khi hành pháp bằng tai, có khi hành pháp bằng mắt. Tu cách nào cũng được miễn sao chánh niệm niệm Phật là được.

Có nhiều cách tu niệm, người trong nhơn gian tu cách nào cũng chứng đắc, các nào cũng an lạc, chủ yếu là giữ cho thân khẩu ý chánh niệm, chánh niệm thì thanh tịnh. Thanh tịnh chính đó là thiền, thiền niệm, huệ lực sẽ sanh, tam muội xuất hiện hiện tiền, tương lai thấy Phật và thành Phật.

Niệm Phật khởi xướng từ tâm, tâm tịnh thì Phật độ tịnh, chính đó là quốc tế Cực lạc phương tây của hành giả niệm Phật. Một tiếng niệm Phật, một tiếng tâm Phải tín thâm tâm Phật lại thâm Mắt mộng chưa khai tình kéo dẫn Từ quang thường chiếu dạ trầm trầm Một tiếng niệm Phật, xuất phát từ tâm, trong đó có ba ngàn oai nghi, tám mươi ngàn tế hạnh đều gồm thâu trong một niệm tâm. Niệm tâm thường trụ mà chu biến khắp cả pháp giới chúng sanh đều tác động ảnh hưởng đến tấm lòng, liền tỉnh giấc nam kha mà quay về nẻo giác, làm thánh chúng thượng thiện nhơn, vượt khỏi nghi thành thai cung, giữ trọn niệm tin ở nội thành của thành phố của hoàng cung quốc tế Đức Phật A Di Đà. Ở quốc tế Cực lạc phương Tây mọi người vẫn tu hành, ngàn người như một, ngàn Phật như một Phật. Một quốc tế thường tịch mà thường chiếu, tịch chiếu man mác như ánh sáng buổi chiều thu, lần lượt trôi đi vào trong cô tịch của thiền định thẳm sâu. Xin nói về quốc tế tu của pháp môn Tinh độ, xưa thì ngang dọc lễ Phật lễ Pháp lễ Tăng, nay thì do quốc tế nhiều hiệu ứng, cần phải đối phó nên cách tu có khác, một cách tu nhanh gọn để sẳn sàng vượt qua mọi ồn ào náo nhiệt của thời hạn. Có người không rảnh để gieo năm vóc đảnh lễ từ phụ Thế Tôn, không có thời hạn đảnh lễ Tam Bảo, không có thời hạn để đọc lại những lời dạy của Phật, nên chỉ có niệm Phật là duy nhất. Niệm Phật có 48 cách niệm Phật, làm thế nào cho thân khẩu ý hướng về miền an tịnh. Nay theo thời đại mới vẫn phải tu, nhưng có những cách tu sao cho gọn, đồng thời rút gọn còn 3 cách nhằm mục đích giúp cho chư Phật tử để tu, dễ niệm. Tu bằng miệng toàn bộ những lời tụng ( chúc tụng ) đọc lại những lời kinh Phật, tán ( tán dương, xưng tán ), ca tụng khen Tặng Ngay, dùng những lời nói hay lời nhạc ca tụng lời Phật, nguyện ( cầu nguyện ) tức là đưa ra sáng tạo độc đáo tốt, một lòng khởi niệm làm tăng nguồn năng lượng cho ý tưởng sáng tạo mới của mình. Niệm ( nhép miệng ), niệm tưởng, xướng kệ gọi chung là “ niệm ” tức là tưởng niệm Đức Phật, tưởng niệm Đức Bồ tát, tưởng niệm đề mục, chú ý quan tâm vào một ý tưởng sáng tạo xâu xa cao nghều, mọi người tôn vinh. Niệm xuất phát từ “ khẩu nghiệp ”, nghiệp của khẩu xuất phát từ sự động tịnh, pháp thiện, pháp bất thiện nên gọi là khẩu nghiệp. Gọi tịnh khẩu nghiệp chân ngôn, lâu nay người tu lầm tưởng là nín lặng gọi là tịnh khẩu nghiệp. Theo Đức Tôn sư Thiện Phước Nhựt Ý dạy thì tịnh khẩu nghiệp, tức là người tu hành nói lời nói thiện, nói ra như hoa sen nở, nói ra làm mát lòng người, nói ra làm quyền lợi cho trăm họ. Lời nói của người tu là lời nói chơn thật nghĩa, chơn thật ý, chơn thật ngữ nói ra từ miệng mình phải bảo vệ lời nói mình có khối lượng. Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Pháp Sư Công Đức, vị Pháp sư dùng lưỡi tán thán kinh Pháp Hoa sẽ được một ngàn hai trăm công đức. Tịnh khẩu nghiệp là lời nói có mực thước, lời nói có cân lượng, lời nói có chất lượng, lời nói mình là pháp lành là hoa nở giữa mùa xuân lợi làm ích nhơn thiên.

Đối với người tu Tịnh độ niệm Phật, thì niệm Phật tức là chánh niệm. Có 3 cách niệm làm sao giữ cho chánh niệm, “niệm Phật và niệm tâm là một”. Ba cách niệm Phật như sau: một là cao thinh trì, hai là kim cang trì, ba là mặc trì.

Cao thinh trì: tức là niệm Phật, tụng kinh bằng miệng, niệm lớn tiếng, chủ yếu làm cho tiếng niệm lấn át mọi âm thanh ngoại cảnh xung quanh, âm thanh ngoại cảnh như không còn bởi chỉ nghe tiếng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm mười phương Tam Bảo.

Kim Cang trì: là tiếng niệm Phật bằng miệng nhưng không ra tiếng, niệm thì thầm không có âm thanh xen đan lẫn nhau, đôi môi đánh vào nhau mà thôi.

Niệm kim cang trì: là niệm vững chắc trong tất cả niệm, dù chỉ nhép miệng nhưng phép niệm nầy làm cho một tiếng niệm Phật một tiếng tâm có vẻ đồng bộ hơn, có nhiều năng lượng hỗ trợ cho phép niệm Phật không bị xen tạp niệm. Ông bà xưa dường như tu pháp nầy gần cả thế kỷ, tu độc thân, độc thiện, một mình quán chiếu khắp sơn hà đại địa vẫn không khiếp trước những ngũ dục lạc chốn phú ba.

Mặc trì tức là không niệm lớn tiếng bằng thiệt thức, cũng không niệm nhỏ tiếng bằng âm thanh mà niệm bằng vô thanh nhưng vững vàng như thành đồng vách sắt sừng sững giữa vùng núi non thiêng liêng hùng vĩ. Mặc trì là niệm bằng ý thức, ý căn thì mưu trí, do mưu trí mà sáng suốt trong những ý tưởng sáng tạo nảy sanh từ vô ý thức. “ Mặc ” là trần tư trong quốc tế vô cùng sôi động, linh động trong mọi trường hợp, từ đó trong lúc niệm Phật có nhiều trở ngại, luôn xây trở một cách tự nhiên, làm cho dễ bị rối lọan tâm tưởng. Mặc trì ít có sự tưởng niệm mà đương nhiệm khởi niệm, nên tiến niệm Phật luôn bồng bềnh trong quốc tế trầm mặc, là cho người đang tu khó trấn áp. Khi mở màn niệm thì phải đợi đến 10 phút sau mới điều phục được tâm niệm. Trong những pháp môn tu, pháp tu niệm bằng miệng còn có điểm đặc biệt quan trọng là dành cho người có sức khỏe thể chất, tươi tắn hằng ngày tinh tấn tu hành, dũng mãnh tụng kinh niệm Phật không thối chuyển. Tụng niệm bằng miệng được phước báo sắc tốt, sống lâu thân an, miệng trào phúng, nước cam lộ luôn rịn nhuần tắm mát cõi nhân gian. ( Ý tưởng trong 48 phép niệm Phật của Giang Đô Trịnh Vy An ) Người tu hành nói lời nói thiện, nói ra như hoa sen nở, nói ra làm mát lòng người, nói ra làm lợi ích cho trăm họ.

Người tu hành nói lời nói thiện, nói ra như hoa sen nở, nói ra làm mát lòng người, nói ra làm lợi ích cho trăm họ.

Tu bằng tai trong Kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Phân biệt Công đức thì nhìn nhận tai có 1200 công đức, tức là tai nghe xa, thâm thấu xuyên suốt pháp giới mười phương, bức xả của tai sẽ xuyên thủng những chướng ngại như núi non, thành trì, khoảng trống, thời hạn, những trở ngại vật đều phóng xả trong gang tấc, nhường cho nhĩ thức nghe suốt một chiều dài thiên niên kỳ. Tai xuyên suốt đến thiên đình, trải qua những tầng trời từ Tứ thiên vương đến Đạo Lợi thiên tai nghe suốt những âm điệu của thành thần ở trần gian, tà thần thổ địa, nghe được những tiếng kêu trầm thống của con người và hoàn toàn có thể đến đó để cứu vớt họ. Tu bằng tai, tức là nghe tiếng niệm Phật, từ miệng mình niệm, tai mình nghe, nghe từ tiếng mọi người niệm mà tĩnh giác, nghe từ tiếng pháp mầu mà giác ngộ tu hành. Những cái nghe như vậy dành cho những người còn có sức khỏe thể chất, những người có nghị lực, những người tinh tấn mà tu hành, gọi là tu bằng tai. Tai phải thanh tịnh, khi nghe tiếng chửi, nghe tiếng khen đều bất động chính đó là tu bằng tai. Trong khóa lễ tu tập mọi người cùng nghe niệm Phật với nhau trở thành một âm thanh mầu nhiệm. Tiếng niệm Phật không xa rời, chánh niệm hiện tiền, hiện tiền đạo lực uy nghiêm, đưa người tu đến tĩnh giác thực thụ khi niệm Phật bằng tai .. Người tu bằng tai cũng hoàn toàn có thể là do thân yếu ớt bị xói mòn theo năm tháng. Tu bằng mắt : Theo kinh đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa kinh, phẩm Phân biệt công đức, thì mắt có tám trăm công đức. Mắt hoàn toàn có thể thấy phía trước, nhưng không thấy phía sau. Mắt thấy xa trong trong thực tiễn chỉ có mười cây số vưông, mắt không hề nhìn xuyên thấu những bức tường, những cao ốc, núi non. Tuy nhiên, mắt chiêm ngưỡng và thưởng thức Phật, những đồ vật đơn cử, những hiện tượng kỳ lạ hiện thực, thấy được tướng hảo của Tam bảo xuất thế gian, tam bảo trần gian. Mặt hoàn toàn có thể quán tượng niệm Phật hay quán tượng niệm Phật, hoàn toàn có thể chiêm ngưỡng và thưởng thức ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật. Nhân rộng ra thì mắt có Bồ tát Thiên Thủ, Thiên Nhãn, hộ trì làm cho mắt hoàn toàn có thể thấy được tam giới là trống không thanh tịnh hay quốc tế nầy uế trược như quốc tế ta bà. Tu bằng mắt, tức là niệm Phật bằng mắt. Người tu chiêm ngưỡng và thưởng thức tượng Phật trên bàn thờ cúng, sau đó trở về nơi liêu phòng ngồi bán già nhớ nghĩ thành tượng mà niệm Phật. Người có căn miệng không tốt, thân yếu ớt chỉ còn có cách mắt trông nhìn tượng Phật, trông nhìn đó tức là niệm Phật. Đây là phần đa phần của hạnh tu bằng mắt Tu bằng thân tức là lễ Phật, xưng tán Phật, chúc tụng Phật, đảnh lễ niệm Phật, lạy sám hối hồng thương hiệu Phật, lạy đứng hay ngồi, hoặc quỳ mà niệm, đi kinh hành, chứ không nằm mà niệm. Nằm niệm chỉ dành cho những người già cả yếu ớt, hơi tàn sức cạn, không còn năng lực đảnh lễ Phật, niệm Phật nữa nên thân nằm niệm. Theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa thị thân có tám trăm công đức mặc dầu thân đỡ đần nhiều việc làm. Thân hoàn toàn có thể lấp sông, phá núi, san bằng những gò nổi tạo thành mảnh đất bát ngát tươi đẹp cho ngàn hoa đua nở. Thân tu tức là dùng thân niệm Phật, tụng kinh dùng thân làm những Phật sự. Thân tuy là phương tiện đi lại lớn trong đường tu niệm, vì có thân, nên có thọ quy giới, có hộ giới, có pháp tu thập nhân thọ, chánh pháp Phật trụ thế. Tuy nhiên, thân cũng có trở ngại, khi mang thân tứ đại, máu thịt gân xương, hơi nóng, hơi thở, nước do là uế trược, nên không hề thuyết pháp trên những cõi trời cấu nhiễm ở Dục giới, Sắc giới, chỉ trừ khi nào đắc đạo xả báo thân mới đến cõi vô hình dung mà độ chúng. Tu thân, miệng, ý kỹ càng Làm cho tâm ý rỗi nhàn bổn căn Cho Tây phương ấy sinh sang Quê hương Cực lạc gió ngàn mát tâm Tu miệng, tu thân, tu mắt, tu tai là những phương tiện đi lại tu ở trần gian những người mới vừa biết đạo, đang thực tập. Mọi người thấy có tu có chứng có đắc, thực dụng, đơn cử như vậy, nên có quả vị, có niết bàn. Những cách tu trên tuy đơn thuần dành cho những người mới tập tu, nhưng chắc như đinh làm sáng tỏ cho Ánh Đạo của Đức từ Phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Lẽ dĩ nhiên quy trình tụng niệm với quy cách cầu an, những bạn có quyền cầu nguyện, nguyện cho bản thân, cho mái ấm gia đình, cho con cháu, cho chúng sanh, cho nhơn loại, cho quốc tế, cho thiên hạ hái bình thịnh trị, không có gì phải lỗi lầm. Nói đến cầu siêu thì nguyện theo hướng cầu siêu độ … Mỗi mỗi thời tụng niệm để có những sở nguyện mà Bạn phải lo liệu. Tuy nhiên, nếu bạn tu hành chân thực và quyết tâm thì đã an nhàn rồi còn gì phải nguyện ước cho nhiều, nguyện càng nhiều càng nặng nề lắm ! Vả lại người tụng niệm nhiều, nguyện nhiều là người tăng trưởng lòng tham lam ích kỷ, muốn việc gì mình cũng được hết, chẳng lẽ mọi người phải chịu khổ hết hay sao ? Cho nên người tụng niệm nhiều nhiều lúc cũng là người có túi tham không đáy. Với tâm địa ấy dù người có niệm Phật nhiều cũng vô ích, vì người đó chưa tu hành chi cả !

Khi nghe kinh, pháp, tụng, niệm, phải ngồi một nơi nào thật trang nghiêm

Trước khi nói đến quyền lợi việc tụng niệm, nghe kinh chú, Sư nói đến việc bất lợi trong việc nằm nghe kinh chú, ru con ngủ bằng kinh chú, mở băng nghe pháp không giờ khắc, không ngồi trang nghiêm nghe pháp. Việc mở băng pháp phải có giờ có thời giờ khuôn thước, đặt thời dụng biểu khi nào mở máy nghe pháp thì mở, khi nào không mở thì không mở. Khi mở pháp để nghe thì không nên nằm nghe pháp, hoặc vừa thao tác nhà vừa nghe pháp, vừa công tác làm việc xã hội vừa nghe pháp. Khi nghe kinh, pháp, tụng, niệm, phải ngồi một nơi nào thật trang nghiêm để nghe pháp, hoặc phải mặc áo tràng vào chánh điện ngồi bán già thật nghiêm chỉnh để nghe. Không nên ngồi tréo chân nghe pháp, ngồi nằm trên ghế xích đu nghe pháp, không nên nằm võng, nằm trên ván để nghe pháp dù đó là những lời thuyết giảng bằng băng đĩa. Khi nghe kinh, pháp, tụng, niệm, phải ngồi một nơi nào thật trang nghiêm để nghe pháp, hoặc phải mặc áo tràng vào chánh điện ngồi bán già thật nghiêm chỉnh để nghe.

Khi nghe kinh, pháp, tụng, niệm, phải ngồi một nơi nào thật trang nghiêm để nghe pháp, hoặc phải mặc áo tràng vào chánh điện ngồi bán già thật nghiêm chỉnh để nghe.

Như thế chứng tỏ ta là người con Phật thao tác gì dứt khoát việc đó. Làm việc cho mình, thao tác cho người phải làm cho đến nơi đến chốn, không nên có tâm ý nửa vời, việc nào cũng không xong. Việc ta chưa xong làm gì có cơ sở giúp người đế nơi đến chốn. Người xưa thường nói, nhất là Đức Tôn sư thường dạy : Trong đời Không gì quý bằng Khi ta tự mình Thảnh thơi Ăn hết bát cơm Uống hết bát nước

Nói cạn lời nói Giúp người Đến nơi đến chốn Người xưa tu hành kỹ hơn người thời nay, vậy mà lắm lúc có những điển tích để lại nghe mà rùn mình vì sự khinh lờn mà sa đọa vào loài cầm thú. Một Thầy Sa di nghe trống công phu, tiếng chuông công phu khuya mà không ngồi dậy để đi tụng niệm sau khi mạng chung sẽ thành rắn. Rắn nằm dài nghe kinh ( Thiền sư Nước Trung Hoa – Thích Thanh Từ ). Trong sách Thiền cũng nói một Hòa thượng quở Thầy Sa di đến giờ công phu khuya, không chiu ngồi dậy công phu cho tráng lệ ngươi chết thành con “ rắn ”. Công phu mà còn chấp nê, chết thành “ con cóc ”. ( Thiền sư Nước Trung Hoa – Đệ tử ngài Đức Sơn – HT Thích Thanh Từ ). Thiện tai giải thóat phục Bát tra lễ sám y Ngã kim đảnh đới thọ Thế thế thường đắc phi Nam mô Ca sa tràng Bồ tát ma ha tát

Lợi ích tụng niệm Phật

Tụng kinh hay cúng kinh là việc quyền lợi cho những người Phật tử, người xưa làm những việc dâng hương, cúng nước, điểm chuông. Những việc làm nầy gọi là Phật sự giúp cho người Phật tử tăng cường tánh nhu mì, nết na đầm thấm. Người Phật tử có dâng hương, cúng 3 chun nước sẽ được có ích tăng trưởng tánh khiêm cung, nhã nhặn và quảng đại. Những đức tánh nầy làm cho người Phật tử Open lòng từ bi như Đức Phật, trong đạo Phật chỉ có lòng từ bi là sáng tạo độc đáo lớn nói lên lời nói của Phật. Chỉ có Đức Phật mới đủ lòng từ bi chí đức mà tha thứ những lỗi lầm cho con người, cho những người nghịch ý mình. Nhân lòng từ bi nầy mà Đức Phật ban bố niềm tin vô úy vị tha, giúp cho mọi người qua cơn họan nạn. Tụng kinh là việc khiêm cung Tán tụng niệm Phật sống cùng một gia Đạo Thích chung ở một nhà Tinh thần vô úy chan hòa trần gian Dâng hương là cử chỉ hạnh lành vi tế làm cho người trở nên khiêm cung, biết phát huy tánh khiêm nhường, hay nhường bước cho thiên hạ đi qua những lúc gặp khó khăn vất vả. Tinh thần khiêm cung làm cho con người trở nên đại hoan hỷ, không câu mâu cau có trước những đối phương sát cánh trong sa mạc tình thương. Dâng hương làm cho mùi thơm lan tỏa khắp nơi đem lại những ánh hào quang bản hạnh nguyện trong chốn rừng thiền. Dâng hương là việc nhà thiên Cúng nước là việc tiên phong phải làm Khi đến bàn Phật tận tâm Đảnh lễ năm vóc mê lầm vượt qua.

Gia đình đồng tu là hạnh phúc

Bài liên quan

Những giải pháp tu tập của Phật giáo làm cân bằng đời sống vật chất và tinh thầnNăm 1960 Đức Tôn sư thường giảng cho những người dưới thế lên núi cầu nguyện cho nhà cửa, cho mái ấm gia đình định cư lạc nghiệp, những người cầu tu. Tôn sư nói : “ ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, bất tu bất đắc ”. Căn cứ vào kinh Tiểu bổn A Di Đà, thì chư Thượng Thiện Nhơn bên quốc tế Cực Lạc phương Tây rất nhiều vô số, tuy nhiều nhưng tâm vẫn một. Lý do là vì mỗi người đều lo tu, tự tu, tiếp tục làm những Phật sự hằng ngày, buổi sáng đi hái hoa, buổi trưa được tham gia buổi cúng dường trai phạn và thọ thực, thọ thực xong rồi đi kinh hành. Trong kinh Địa Tạng, Phật dạy việc làm của người sống so với người chết, người con báo hiếu cho cha mẹ khi qua đời : “ .. người sống thao tác phước để hồi hướng cầu siêu độ cho người thân trong gia đình qua đời, thì người chết chỉ được hưởng một phần còn lại người sống hưởng bảy phần, kinh cho tất cả chúng ta thất việc tu di tu nấy đắc chứ không tu dùm được … ” ! ( kinh Địa Tang Vương Bố tát – bản dịch Đoàn Trung Còn ). Tức là mỗi người mỗi tu, mỗi người tự tu, dù đang sống trong quốc tế có chủ trương tu theo tha lực, nhờ sức mạnh của Phật Di Đà nhiếp thọ, tiếp dẫn được vãng sanh. Theo thiền ý của Sư, pháp tu Tịnh độ có cả tự lực và tha lực, chứ không phải chỉ có tha lực tiếp dẫn nhưng có tha lực của Phật hộ trì. Trường hợp người kia suốt đời gây tội ác, khi lâm chung có kết hôn với Phật, rước Thấy đến tụng kinh siêu độ thì được “ đới nghiệp vãng sanh ”, đây chi là trường hợp đặc biệt quan trọng cứu vớt người cùng khổ. Người tu niệm Phật như đi thuyền qua sông, nếu người không muốn đi ( tự lực ) thì dù cho thuyền có to lớn bao nhiêu ( đại nguyện tha lực ) cũng không hề chở người kia qua sông được. Cho nên người tu Tịnh độ phải tu đủ hai môn tự lực và tha lực, không ai tu dùm ai được, thiếu một vẫn không tác dụng. Mặc khác, nói tu Tịnh độ có tha lực hộ trì như qua sông nhờ có ghe thuyền. Tuy nhiên, do chúng sanh nghiệp lực quá nặng, không tỉnh thức cùng đi với mọi người qua sông, thì ông lái đó vẫn phải chịu phép không hề đưa người kia qua sông cùng mình. Tụng chú Đại bi phải có giờ khắc, được phân theo thời dụng biểu hằng ngày, mấy giờ tụng chú, mấy giờ làm việc. Không nên vừa làm việc vừa tụng chú, thành ra vọng động, bị động trong vùng tâm thức, tức là tụng chú Đại bi vô ích, ma lực tinh tấn đang ngự trị trong Bạn!

Tụng chú Đại bi phải có giờ khắc, được phân theo thời dụng biểu hằng ngày, mấy giờ tụng chú, mấy giờ làm việc. Không nên vừa làm việc vừa tụng chú, thành ra vọng động, bị động trong vùng tâm thức, tức là tụng chú Đại bi vô ích, ma lực tinh tấn đang ngự trị trong Bạn!

Tu trì chú Đại bi nhiều rất tốt, nhưng đừng nên lạm phát kinh tế trong việc tu niệm, giờ nào tụng chú thì tụng chú, giờ nào thao tác thì thao tác. Không nên vừa thao tác vừa tụng chú, thành ra vọng động, bị động trong vùng tâm thức, tức là tụng chú Đại bi vô ích, ma lực tinh tấn đang ngự trị trong Bạn ! Tụng chú Đại bi phải có giờ khắc, được phân theo thời dụng biểu hằng ngày, mấy giờ tụng chú, mấy giờ thao tác. Làm việc thì thao tác, tụng chú thì tụng chú, không xen tạp giữa chú Đại bi và việc làm. Vì bạn không hề tu hành trong lúc thao tác, thao tác không có thời hạn rỗi rảnh tụng chú, nếu tụng gọi là vọng niệm, vọng niệm thì tụng chú như không tụng ! Tha lực tự lực pháp tu Niệm Phật Tịnh độ công phu cho bền Niệm Phật tiếp điển ơn trên Tự lực tha lực xây nền Phật gia.

Lợi ích gia đình

Gia đình là đơn vị chức năng xã hội, có tổ chức triển khai, tu hành cũng có tổ chức triển khai, xấp xỉ trước sau như một, cầu có sự đồng nhất khi quy y tam bảo, đừng để so le người ý nầy người ý khác, lắm bộn bề trong đời sốg hằng ngày cũng như việc trăm năm. Tuy nói ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, bất tu bất đắc, nhưng trong hội đồng cần có sự động viên xem xét lẫn nhau sống trong quốc tế nhà Phật. Sự xem xét lẫn nhau đó là niềm tin sống chung được bộc lộ rõ tình mái ấm gia đình, tình yêu hội đồng. Một gia đình quy y, tức là gia đình đó có Phật ngự. Mỗi tối, cả nhà cùng đến bàn thờ ngôi Tam bảo, phát tâm tụng niệm cho có lực hộ.

Một gia đình quy y, tức là gia đình đó có Phật ngự. Mỗi tối, cả nhà cùng đến bàn thờ ngôi Tam bảo, phát tâm tụng niệm cho có lực hộ.

Bài liên quan

Lời Phật dạy về đạo nghĩa trong gia đìnhMột mái ấm gia đình quy y, tức là mái ấm gia đình đó có Phật ngự, mỗi lần ông bà xích mích lẫn nhau không ai đám mạt sát nhau nữa, vì ông mạt sát bà, tức là mạt sát Đức Bồ tát Quan Âm, bà mạt sát ông, tức là bà mạt sát Phật Thích Ca Mâu Ni rồi. Từ đó tất cả chúng ta có Đức Phật ngự trong nhà tất cả chúng ta, niềm hạnh phúc tràn trề đến với mái ấm gia đình. Mỗi tối, cả nhà cùng đến bàn thờ cúng ngôi Tam bảo, phát tâm tụng niệm cho có lực hộ không nên xé lẻ người tụng trước tụng sau. Người tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, người tu Thiền, người niệm Phật, người tụng chú Đại bi, người theo Pháp Luân công, người theo vô thượng sư … làm mất đi thắm tình đạo vị ngay tại mái ấm gia đình. Cũng có những lúc khai kinh bộ tụng kinh Phổ Hiền, kinh Pháp Hoa. Nghi thức tụng kinh xong, cùng nhau ăn bánh uống trà, luận đạo chỗ nào còn kém khuyết thì bổ trợ vào nơi đó, chỗ nào không thiếu thì phát huy thêm cho nguồn năng lượng tu hành ngày càng thâm thúy, hùng vĩ hơn. Tu tập đoàn lớn, tập thê tạo nên sức mạnh vô hình dung, giúp cho mọi người trong mái ấm gia đình có đời sống phấn khởi, vinh hạnh được sống trong mái ấm mái ấm gia đình Đạo Phật. Giữa đêm trừ tịch chốn môn đình Phá cảnh u trầm nói kệ kinh Mãn khóa Pháp Hoa rảnh rỗi việc Ché trà Long Tĩnh uống vơi bình. Tu tập đoàn lớn, tập thể chính là tính cách của hội đồng tha lực, hỗ tương cho nhau trong những lúc tối lửa tắt đèn, tương hỗ cho nhau khi hoạn nạn, giúp sức nhau lúc thiết yếu, tu kém tinh tấn. Cách tu theo tha lực Tịnh độ cũng là tu tập thể, như quốc tế Phật bên Tây phương, có Phật, hàng Bồ tát, chư Thinh văn, chư vị Thánh chúng Thượng thiện nhơn, khi nào cũng phần đông và chỉ nghe tiếng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Gia đình là xã hội chung

Vợ, chồng con cháu phải cùng chữ tu Hôm qua vướng áng mây mù Hôm nay tỉnh giấc một lòng tu chân

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp