Người mắc bệnh hiểm nghèo là gì? Chế độ cho người mắc bệnh hiểm nghèo?
Người mắc bệnh hiểm nghèo ( A person with a fatal disease ) là gì ? Người mắc bệnh hiểm nghèo tiếng Anh là gì ? Chế độ cho người mắc bệnh hiểm nghèo ?
Nguy cơ bệnh tật và tử trận tại Nước Ta ngày càng có khuynh hướng ngày càng tăng mặc cho những cố gắng nỗ lực cải tổ và phòng ngừa của cả xã hội và cơ quan quản trị. Các thói quen xấu của người Việt như hút thuốc lá, sử dụng rượu bia vượt mức, chính sách dinh dưỡng thiếu hài hòa và hợp lý, ít hoạt động giải trí thể lực … liên tục là những yếu tố số 1 đe doạ đến sức khoẻ của người dân. Với những người mắc bệnh hiểm nghèo sẽ được hưởng những chính sách khám, chữa bệnh theo pháp luật của Nhà nước, hỗ trợ những đối tượng người dùng thuộc hộ nghèo có thực trạng đặc biệt quan trọng khó khăn vất vả. Vậy, người mắc bệnh hiểm nghèo là gì và chính sách cho người mắc bệnh hiểm nghèo như thế nào ?
* Căn cứ pháp lý
– Bộ luật Lao động năm 2019 ; – Luật Bảo hiểm xã hội năm năm trước ; – Văn bản hợp nhất 46 / VBHN-VPQH ngày 10 tháng 12 năm 2018 hợp nhất Luật Bảo hiểm Y tế ; – Nghị định 76/2003 / NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 Quy định và hướng dẫn đơn cử việc vận dụng giải pháp đưa vào cơ sở giáo dục ; – Nghị định 125 / 2008 / NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 Sửa đổi, bổ trợ một số ít điều của Nghị định số 76/2003 / NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 Về lao lý và hướng dẫn việc vận dụng giải pháp đưa vào cơ sở giáo dục ; – Nghị định 65/2013 / NĐ-CP ngày 27 tháng 06 năm 2013 Quy định chi tiết cụ thể một số ít điều của Luật thuế thu nhập cá thể và Luật sửa đổi, bổ trợ 1 số ít điều của Luật thuế thu nhập cá thể ; – Thông tư 26/2014 / TT-BQP ngày 20 tháng 5 năm năm trước Ban hành hạng mục bệnh hiểm nghèo, hạng mục bệnh cần chữa trị dài ngày để thực thi chính sách, chính sách trong quân đội ; – Nghị định số 134 / năm nay / NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm năm nay của nhà nước Quy định cụ thể một số ít điều và giải pháp thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ; – Nghị quyết số 02/2018 / NQ-HĐTP ngày 15 tháng 05 năm 2018 Hướng dẫn vận dụng Điều 65 của Bộ luật HÌnh sự về án treo ; – Thông tư liên tịch 02/2013 / TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn thi hành pháp luật về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù so với phạm nhân.
1. Người mắc bệnh hiểm nghèo là gì ?
Tại Khoản 3 Điều 8 Nghị định 76/2003/NĐ-CP định nghĩa:
Người mắc bệnh hiểm nghèo là người đang bị mắc một trong những căn bệnh nguy hại đến tính mạng con người như ung thư, bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong hủi, lao nặng, nhiễm HIV đã chuyển sang quy trình tiến độ AIDS và những bệnh khác theo lao lý của Bộ Y tế.
Tại Điểm đ Khoản 2 Phần II Hướng dẫn 211/HĐTVĐX ngày 4/6/2010 của Hội đồng tư vấn đặc xá có ghi:
Người mắc bệnh hiểm nghèo là người mắc một trong những bệnh sau : ung thư, bại liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng ; suy tim độ III hoặc suy thận độ IV trở lên ; nhiễm HIV đã chuyển tiến trình AIDS đang có những nhiễm trùng thời cơ và có tiên lượng xấu. Tại Khoản 4 Điều 4 Thông tư liên tịch 02/2013 / TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn thi hành pháp luật về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù so với phạm nhân do Bộ Công an – Bộ Quốc phòng – Tòa án nhân dân tối cao – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phát hành có pháp luật về người mắc bệnh hiểm nghèo như sau : Mắc bệnh hiểm nghèo là người đang bị mắc một trong những bệnh như : Ưng thư quá trình cuối, liệt, lao nặng kháng thuốc, xơ gan cổ chướng, suy tim độ III trở lên, suy thận độ IV trở lên, nhiễm HIV đã chuyển tiến trình AIDS đang có nhiễm trùng thời cơ, không có năng lực tự ship hàng bản thân và có tiên lượng xấu, rủi ro tiềm ẩn tử trận cao hoặc mắc một trong những bệnh khác được Hội đồng giám định y khoa, bệnh viện cấp tỉnh hoặc cấp quân khu trở lên Tóm lại là bệnh hiểm nghèo, nguy hại đến tính mạng con người.
2. Người mắc bệnh hiểm nghèo tiếng Anh là gì ?
Người mắc bệnh hiểm nghèo tiếng Anh có nghĩa là : A person with a fatal disease. A person with a fatal disease is a person suffering from one of the following diseases : cancer, polio, drug-resistant severe tuberculosis, cirrhosis of the liver ascites ; heart failure grade III or kidney failure grade IV or higher ; HIV infection has progressed to AIDS, has opportunistic infections and has a poor prognosis.
3. Chế độ cho người mắc bệnh hiểm nghèo?
Đối với người tham gia bảo hiểm y tế
Theo Điều 22 Luật Bảo hiểm y tế quy định: Người tham gia bảo hiểm y tế khi khám bệnh, chữa bệnh thì được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong phạm vi được hưởng như sau:
– 100 % ngân sách khám bệnh, chữa bệnh so với sĩ quan, hạ sĩ quan nhiệm vụ và sĩ quan, hạ sĩ quan trình độ, kỹ thuật đang công tác làm việc trong lực lượng Công an nhân dân ; Người có công với cách mạng ; Trẻ em dưới 6 tuổi ; – 100 % ngân sách khám bệnh, chữa bệnh so với trường hợp ngân sách cho một lần khám bệnh, chữa bệnh thấp hơn mức do nhà nước pháp luật và khám bệnh, chữa bệnh tại tuyến xã ; – 95 % ngân sách khám bệnh, chữa bệnh so với người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng ; người thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hằng tháng theo lao lý của pháp lý ; người thuộc hộ mái ấm gia đình nghèo ; người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kèm theo kinh tế tài chính – xã hội khó khăn vất vả, đặc biệt quan trọng khó khăn vất vả ; – 80 % ngân sách khám bệnh, chữa bệnh so với những đối tượng người dùng khác. Trường hợp một người thuộc nhiều đối tượng người tiêu dùng tham gia bảo hiểm y tế thì được hưởng quyền hạn bảo hiểm y tế theo đối tượng người tiêu dùng có quyền lợi và nghĩa vụ cao nhất.
Bên cạnh đó, người lao động đang làm việc tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được hưởng chế độ ốm đau. Mức hưởng chế độ ốm đau theo quy định tại Điều 23, Điều 25 Luật Bảo hiểm xã hội.
Đối với người nghèo
Ngày 1/3/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 14/2012/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về khám, chữa bệnh cho người nghèo.
Đối tượng được hưởng chính sách khám, chữa bệnh theo Quyết định này gồm người thuộc diện hộ nghèo theo lao lý hiện hành của nhà nước ; đồng bào dân tộc thiểu số, đang sinh sống ở những xã, phường, thị xã thuộc vùng khó khăn vất vả ; người thuộc diện được hưởng trợ cấp xã hội theo pháp luật của pháp lý và người đang được nuôi dưỡng tại những cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước ; người mắc bệnh ung thư, những bệnh hiểm nghèo khác gặp khó khăn vất vả không đủ năng lực chi trả viện phí. Theo đó, người nghèo theo lao lý hiện hành về chuẩn hộ nghèo và nhân dân những xã có điều kiện kèm theo kinh tế tài chính – xã hội đặc biệt quan trọng khó khăn vất vả được : – Hỗ trợ tiền ăn khi điều trị nội trú tại những cơ sở y tế của Nhà nước từ tuyến huyện trở lên với mức tối thiểu 3 % mức lương tối thiểu chung / người bệnh / ngày. – Hỗ trợ tiền đi lại từ nhà đến bệnh viện, từ bệnh viện về nhà và chuyển bệnh viện khi điều trị nội trú tại những cơ sở y tế của Nhà nước từ tuyến huyện trở lên, những trường hợp cấp cứu, tử trận hoặc bệnh quá nặng và người nhà có nguyện vọng đưa về nhà nhưng không được bảo hiểm y tế hỗ trợ. Trường hợp không sử dụng phương tiện đi lại luân chuyển của cơ sở y tế Nhà nước : Thanh toán ngân sách luân chuyển một chiều đi cho người bệnh theo mức bằng 0,2 lít xăng / km cho một chiều đi tính theo khoảng cách luân chuyển và giá xăng tại thời gian sử dụng. Cơ sở y tế chỉ định chuyển bệnh nhân giao dịch thanh toán ngân sách luân chuyển cho người bệnh, sau đó giao dịch thanh toán với Quỹ khám, chữa bệnh cho người nghèo.
– Hỗ trợ một phần chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế mà các đối tượng phải cùng chi trả theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế và các văn bản hướng dẫn Luật đối với người bệnh phải cùng chi trả từ 100.000 đồng trở lên.
Người mắc bệnh ung thư, chạy thận tự tạo, mổ tim hoặc những bệnh khác gặp khó khăn vất vả do ngân sách cao mà không đủ năng lực chi trả viện phí được hỗ trợ giao dịch thanh toán một phần viện phí so với người bệnh phải chi trả cho cơ sở y tế Nhà nước từ 1 triệu đồng trở lên. Trường hợp người bệnh tự lựa chọn cơ sở khám, chữa bệnh thì giao dịch thanh toán viện phí theo pháp luật hiện hành.
Đối với cán bộ quân đội đã nghỉ hưu
Ngày 15/8/2011, Bộ Quốc phòng đã ban hành Thông tư số 158/2011/TT-BQP về thực hiện một số chế độ, chính sách góp phần chăm sóc đối với cán bộ quân đội nghỉ hưu.
Tại Điều 6 Thông tư này quy định chế độ chăm sóc cán bộ quân đội nghỉ hưu mắc bệnh hiểm nghèo như sau: Cán bộ quân đội nghỉ hưu nếu mắc một trong các bệnh thuộc danh mục bệnh hiểm nghèo (quy định tại phụ lục số 1 ban hành kèm theo Thông tư này), được Ban chỉ huy quân sự cấp tỉnh ký quyết định công nhận cán bộ bị mắc bệnh hiểm nghèo thì được trợ cấp hàng quý, cán bộ từ trần thì thôi hưởng trợ cấp từ quý tiếp theo.
Chế độ trợ cấp bệnh hiểm nghèo được thực thi từ ngày cấp có thẩm quyền quyết định hành động và được hưởng trợ cấp cả quý đó, mức trợ cấp 1 người / quý bằng 1 tháng tiền lương tối thiểu chung theo pháp luật của nhà nước tại thời gian chi trả. Cán bộ quân đội nghỉ hưu mắc bệnh hiểm nghèo điều trị tại những bệnh viện quân đội được hưởng chênh lệch giữa tiền ăn bệnh lý và tiền ăn cơ bản do bệnh viên giao dịch thanh toán.
Đối với người tham gia bảo hiểm xã hội
Theo Điều 2 của Luật Bảo hiểm xã hội lao lý đối tượng người dùng ( là công dân Nước Ta ) được hưởng trợ cấp của Nhà nước khi ốm đau gồm có : – Người thao tác theo hợp đồng lao động không xác lập thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên ; – Cán bộ, công chức, viên chức ; – Công nhân quốc phòng, công nhân công an ; – Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân ; sĩ quan, hạ sĩ quan nhiệm vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan trình độ kỹ thuật công an nhân dân ; người làm công tác làm việc cơ yếu hưởng lương như so với quân đội nhân dân, công an nhân dân.
Điều 22 của Luật Bảo hiểm ã hội quy định điều kiện hưởng chế độ ốm đau như sau:
– Bị ốm đau, tai nạn thương tâm rủi ro đáng tiếc phải nghỉ việc và có xác nhận của cơ sở y tế. Trường hợp ốm đau, tai nạn đáng tiếc phải nghỉ việc do tự huỷ hoại sức khoẻ, do say rượu hoặc sử dụng ma tuý, chất gây nghiện khác thì không được hưởng chính sách ốm đau. – Có con dưới bảy tuổi bị ốm đau, phải nghỉ việc để chăm nom con và có xác nhận của cơ sở y tế.
Điều 23 của Luật Bảo hiểm xã hội quy định về thời gian hưởng chế độ ốm đau:
– Thời gian tối đa hưởng chính sách ốm đau trong một năm so với người lao động pháp luật tại những điểm a, b và c khoản 1 Điều 2 của Luật này tính theo ngày thao tác không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần và được lao lý như sau : + Làm việc trong điều kiện kèm theo thông thường thì được hưởng ba mươi ( 30 ) ngày nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới mười lăm ( 15 ) năm ; bốn mươi ( 40 ) ngày nếu đã đóng từ đủ mười lăm năm ( 15 ) đến dưới ba mươi ( 30 ) năm ; sáu mươi ( 60 ) ngày nếu đã đóng từ đủ ba mươi ( 30 ) năm trở lên ; + Làm nghề hoặc việc làm nặng nhọc, ô nhiễm, nguy hại thuộc hạng mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế phát hành hoặc thao tác tiếp tục ở nơi có phụ cấp khu vực thông số từ 0,7 trở lên thì được hưởng bốn mươi ( 40 ) ngày nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới mười lăm ( 15 ) năm ; năm mươi ( 50 ) ngày nếu đã đóng từ đủ mười lăm ( 15 ) năm đến dưới ba mươi ( 30 ) năm ; bảy mươi ( 70 ) ngày nếu đã đóng từ đủ ba mươi ( 30 ) năm trở lên. – Người lao động mắc bệnh thuộc Danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày do Bộ Y tế phát hành thì được hưởng chính sách ốm đau như sau : + Tối đa không quá một trăm tám mươi ( 180 ) ngày trong một năm tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần ; + Hết thời hạn một trăm tám mươi ( 180 ) ngày mà vẫn liên tục điều trị thì được hưởng tiếp chính sách ốm đau với mức thấp hơn. – Thời gian hưởng chính sách ốm đau so với người lao động lao lý tại điểm d khoản 1 Điều 2 của Luật này tuỳ thuộc vào thời hạn điều trị tại cơ sở y tế thuộc quân đội nhân dân và công an nhân dân.
Điều 25 của Luật Bảo hiểm xã hội quy định về mức hưởng chế độ ốm đau như sau:
– Người lao động hưởng chính sách ốm đau theo lao lý tại khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 23 ( và Điều 24 ) của Luật này thì mức hưởng bằng 75 % mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc. – Người lao động hưởng tiếp chính sách ốm đau pháp luật tại điểm b khoản 2 Điều 23 của Luật này thì mức hưởng được lao lý như sau : + Bằng 65 % mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc nếu đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ ba mươi ( 30 ) năm trở lên ; + Bằng 55 % mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc nếu đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ mười lăm ( 15 ) năm đến dưới ba mươi ( 30 ) năm ; + Bằng 45 % mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới mười lăm ( 15 ) năm. – Người lao động hưởng chính sách ốm đau theo lao lý tại khoản 3 Điều 23 của Luật này thì mức hưởng bằng 100 % mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc. – Mức hưởng chính sách ốm đau tính theo lao lý tại khoản 2 Điều này nếu thấp hơn mức lương tối thiểu chung thì được tính bằng mức lương tối thiểu chung.
Điều 26 của Luật Bảo hiểm xã hội quy định về chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau khi ốm đau:
– Người lao động sau thời hạn hưởng chính sách ốm đau theo lao lý tại Điều 23 của Luật này mà sức khoẻ còn yếu thì được nghỉ dưỡng sức, phục sinh sức khoẻ từ năm ngày đến mười ngày trong một năm. – Mức hưởng một ngày bằng 25 % mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục sinh sức khoẻ tại mái ấm gia đình ; bằng 40 % mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, hồi sinh sức khoẻ tại cơ sở tập trung chuyên sâu. Và để được hưởng những chính sách này, người lao động phải có rất đầy đủ sách vở xác nhận của cơ quan chức năng ( cơ sở khám chữa bệnh, cơ quan quản trị lao động ) về thực trạng sức khỏe thể chất, thời hạn điều trị ( đơn cử do bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế nhu yếu ).
Source: https://thevesta.vn
Category: Cộng Đồng