Lược đọc bốn quyển sách của các nhà khoa học viết về tâm linh

Sự biến hóa thế giới quan đang diễn ra sẽ tiềm ẩn một sự biến hóa thâm thúy về giá trị ; thực tiễn là sự biến hóa từ tâm can – từ dự tính ngự trị và điều khiển và tinh chỉnh vạn vật thiên nhiên đến một thái độ hợp tác và bất bạo động1. CHÚNG TA THOÁT THAI TỪ ĐÂU (E-rơ-nơ Mun-đa-sep; giáo sư tiến sĩ y học (Nga), nhà bác học lớn quốc tế. Dịch giả: Hoàng Giang; NXB Thế Giới, 2009): 

* Người cổ xưa cho rằng, vật chất sinh ra từ khoảng không. Nhà vật lí thiên tài Nga Ghên-na-đi Si-pốp, người đã lập được phương trình (A. Anh-xtanh đã không lập được) mô tả vật lí chân không, tức Tịnh vô tuyệt đối hoặc Tuyệt đối, cũng cho như vậy. Cùng quan niệm này có cả thành viên đoàn thám hiểm chúng tôi, chuyên gia vật lí trường, phó tiến sĩ khoa học kĩ thuật Va-lê-ri Lô-ban-cốp.

Tôi và Va-lê-ri Lô-ban-cốp thảo luận nhiều về đề tài này. Dưới đây tôi xin trình bày kết quả của những cuộc thảo luận đó.

Tuyệt đối đó không đơn thuần là tịnh vô; đó là Khoảng Không có Cái gì đó. Trước mắt, khoa học chưa biết Cái gì đó. Theo G. Si-pốp, nguyên tử và phản nguyên tử phát sinh từ Tuyệt đối. Chúng sinh ra, đụng độ nhau và huỷ diệt nhau. Nhưng có một lần, cách đây nhiều tỉ năm, vào một thời điểm các nguyên tử và phản nguyên tử sau khi tạo thành trong không gian, đã tản đi. Vật chất phát sinh từ Tuyệt đối là như vậy.

Các trường xoắn và phản xoắn (xoắn theo cách khác) siêu tần số cùng phát sinh từ Tuyệt đối, chúng cùng huỷ diệt lẫn nhau và hỗ trợ Tuyệt đối. Nhưng cũng có thể xuất hiện thời điểm, khi các trường xoắn huỷ diệt nhau tản đi. Thế giới tế vi phát sinh từ Tuyệt đối là như vậy.

Theo giả thuyết của G. Sipốp: giữa các trường xoắn của thế giới tế vi và ý thức có mối liên hệ trực tiếp, bởi các trường xoắn là những chất chứa đu-sa và đu-khơ.

Từ đó suy ra từ Tuyệt Đối đã phát sinh hai thế giới – thế giới vật thể và thế giới tế vi.

Thế giới vật thể phức tạp dần. Xuất hiện sao, hành tinh, các hệ ngân hà v.v…

Thế giới tế vi bao gồm các trường xoắn khác nhau cũng phức tạp dần. Khó nói thế giới tế vi phức tạp và hoàn thiện dần bằng cách nào. Nhưng có thể nghĩ các trường xoắn của không gian-thời gian ngày một tích lượng thông tin nhiều hơn, tức có khả năng chứa đựng trong mình ngày một nhiều thông tin hơn. Có thể, đã xuất hiện những trường xoắn nhiều tầng, nhiều lớp hơn (nếu suy nghĩ trên quan điểm hình học), có thể quá trình phức tạp hoá các trường xoắn có tính chất khác nhau. Dần dà trong quá trình tiến hoá trong thế giới tế vi xuất hiện đu-khơ – là khối năng lượng tâm thần kết đông dưới dạng các trường xoắn có thể bảo toàn vĩnh cửu trong mình một khối lượng thông tin to lớn. Nhiều đu-khơ tạo thành giữa chúng những mối liên hệ thông tin và tạo ra Không gian thông tin toàn thể, tức Cõi kia (…).  

(…) Cùng với sự tạo ra con người bằng nỗ lực của thế giới tế vi (Cõi kia), các dạng sự sống đơn giản hơn cũng được tạo nên ở thế giới vật thể – con vật, côn trùng, cây cỏ v.v… Nguyên lí tạo thế giới thực vật và thế giới động vật vẫn như vậy – bằng cách cô đặc dần các dạng trường xoắn đơn giản hơn của Cõi kia.

Liệu con người trong thế giới vật thể có thể sống thiếu Cõi kia không? Sau khi tạo bộ gen và nhờ đó tiến hành quá trình tái tạo con người (sinh đẻ đứa trẻ) trên Trái đất, đu-khơ giữ lại cho mình chức năng tư duy chủ yếu.

Trong quan niệm tôn giáo, khi đứa bé chào đời đu-khơ nhập vào đứa trẻ và ấn định những năng lực tư duy chủ yếu của con người. Nghĩa là, chúng ta suy nghĩ chủ yếu nhờ vào đu-khơ sống ở thế giới tế vi. Nhờ năng lượng thế giới vật thể (ăn uống) não người có khả năng vặn các trường xoắn của thế giới tế vi và như vậy hỗ trợ đu-khơ trong quá trình tư duy.

Ngoài ra, não còn tạo các trường xoắn phụ hình thành đu-sa (sinh trường) ở dạng các thể thanh bai và các thể khác hỗ trợ cơ thể người hoạt động. Sau khi xác thân chết, nhiều bộ phận tạo thành đu-sa (các thể thanh bai) cũng bị phá huỷ, còn lại đu-khơ thì bay về Cõi kia và tiếp tục sống ở thế giới tế vi để rồi lúc nào đó lại bước vào kiếp mới. Vậy là con người, sau khi được tạo ra trong thế giới vật thể nhờ các “nỗ lực” của thế giới tế vi, là sự kết hợp các hình thái sự sống ở thế giới vật thể và thế giới tế vi.

Mọi người đều biết rõ khái niệm karma ( nghiệp ), tức là các “ vết tích ” của các tiền kiếp để lại trong đu-khơ. Giai đoạn trần gian ở quốc tế vật thể, đu-khơ hoàn toàn có thể hoàn thành xong mà cũng hoàn toàn có thể thoái hoá. ( … ) Chính con người độc lạ với con vật ở chỗ : cỗ máy tư duy của con người có trách nhiệm hoàn thành xong đu-khơ ( đưa vào đó nhiều thông tin thiết kế xây dựng ) và bằng cách đó, hoàn thành xong hình thái sự sống ở quốc tế tế vi. Nói cách khác, là đứa con thể xác của sự sống nơi quốc tế tế vi, con người có thiên chức trải qua quốc tế vật thể thôi thúc sự văn minh nơi quốc tế tế vi. Con người được tạo ra cũng là bởi lẽ đó .

Rõ ràng là, về tầm mức, hình thái sự sống nơi quốc tế tế vi ( Cõi kia ) cao hơn đáng kể so với sự sống ở quốc tế vật thể. Đu-khơ bất tử là một xác nhận. Nếu thể xác hoàn toàn có thể sống không phải 70-80 năm mà là 1000 – 2000 năm và lâu hơn thế, thì năng lực hoàn thành xong đu-khơ trải qua quốc tế vật thể nhiều hơn, bởi quy trình rời bỏ thân xác này và nhập vào thân thể khác gắn với thời kì tư duy ít năng động lê dài ( tuổi ấu thơ và già nua ). ( … ) .

Có cách nào để tăng tưổi thọ ? Câu vấn đáp có vẻ như như kì quặc – bằng cách tôn vinh điều thiện, bác ái và tri thức .

( … ) Sự sống và cái chết đổi khác luôn là để nhanh gọn thay con người gian ác, ích kỉ và hám danh bằng một người khác với hy vọng, sau khi con người ở Cõi kia bị thần linh “ trừng phạt ” sẽ đầu thai tái sinh trở thành người tốt hơn, thiện hơn. Vì vậy có lẽ rằng lịch sử một thời về âm ti và thiên đường có cơ sở .

* Khi điều tra và nghiên cứu yếu tố này tôi chưa biết là cơ sở chữa bệnh của các giải pháp đông y cổ đại ( bằng “ nội năng ” ) là giải phóng khung hình khỏi tâm năng xấu đi. Lúc đó tôi đâu đã phỏng đoán được rằng tình yêu thương và cảm thông, vẫn được tuyên truyền ở phương Đông, là thuốc giải độc không chỉ so với các đặc thù hung ác và hèn nhát, mà còn phòng ngừa được bệnh tật. Và tất yếu khi đó, ngay trong giấc mơ lịch sử một thời tôi cũng chẳng tưởng tượng được việc giải thoát khung hình khỏi tâm năng xấu còn hoàn toàn có thể dẫn đến kì quan đại định – thân thể khô cứng mà vẫn bảo toàn được sự sống hằng nghìn và hằng triệu năm ( trạng thái xô-ma-chi ) .

( … ) Không còn thiếu tín nhiệm gì nữa về ảnh hưởng tác động to lớn của nguồn năng lượng tinh thần tới khung hình con người ; mà có được trạng thái xô-ma-chi chính là nhờ tham thiền đấy thôi .

( … ) Thoạt nghe những từ ngữ “ tình cảm trong sáng ”, “ tâm hồn trong sáng ” như những khái niệm mờ mờ ảo ảo. Song tất cả chúng ta cùng nhớ lại, để nhập định sâu cần phải “ thanh lọc tâm hồn ”, tức phải giải phóng khỏi những trường xoắn xấu đi. Hiệu quả của sự thanh lọc tâm hồn cực kỳ lớn lao – thân thể con người có năng lực bảo toàn hàng nghìn và hàng triệu năm ở dạng sống .

( … ) Cụ thể là, nhờ tham thiền, sinh trường của tu sĩ ở trạng thái áp đảo quy trình tái sinh bệnh hoạn ( ung thư ), không thay đổi tính năng của các tế bào bệnh và kích thích các tế bào thông thường của khung hình tái sinh. Nói một cách khác, tuyệt kỹ trường thọ ở các môn đồ không phải vì chu kì sống của các tế bào ngày càng tăng, mà là sự sửa chữa thay thế các tế bào già nua bằng các tế bào mới và phòng ngừa suy biến thành ung thư .

( … ) Trên bước đường khoa học của mình, tôi luôn luôn đi theo cách thứ hai, nghĩa là từ cái chung đến cái riêng. Vì đã nhằm mục đích mục tiêu là xử lý những yếu tố y học cụ thể, thứ nhất là bệnh ung thư, muốn hay không chúng tôi cũng phải điều tra và nghiên cứu nguồn năng lượng tinh thần và những yếu tố liên can là nguồn gốc loài người và ngoài hành tinh .

* Thế giới vi tế tức quốc tế nguồn năng lượng tinh thần ( quốc tế tần số siêu cao ) phải có sự quy đổi qua lại, và có mối quan hệ tương hỗ với quốc tế vật thể theo kiểu nguồn năng lượng sóng chuyển sang dạng vật chất và ngược lại. Nói một cách khác, phải có vật chất hoá ý nghĩ và phi vật chất hoá vật thể thành ý nghĩ. Các nhà vật lí thường nhấn mạnh vấn đề ý nghĩ có tính vật chất, và hình như điều đó đúng .

( … ) Nền khoa học tân tiến đã đạt tới tầm mức nhận thức được tôn giáo và hiểu rằng, học thuyết con người phát sinh từ con khỉ của Đác-uyn quá thô thiển, còn tôn giáo chẳng là cái gì khác ngoài một cách trình diễn phóng dụ tri thức của các nền văn minh cổ đại .

( … ) Tôi tuyệt đối tin rằng sự sống vật thể trên toàn cầu đã được tạo ra bằng cách hồn cô đặc dần. Mọi học lí cho rằng, sự sống trên toàn cầu Open do những phân tử phức tạp tự phát sinh và cô đọng thành những khung hình sống, không vững vàng, xét cả trên ý niệm tôn giáo lẫn quan điểm vật lí học và hoá học tân tiến .

( … ) Trước mắt, nền văn minh của tất cả chúng ta còn chưa biết sử dụng nguồn năng lượng thiên hà. Mà nguồn năng lượng đó lại rất to lớn. Một số nhà vật lí học văn minh cho rằng, một mét khối Tuyệt đối có tiềm lực nguồn năng lượng bằng hiệu suất 40.000 tỉ quả bom hạt nhân. ( … ) Mà chỉ có con người mới nắm được nguồn năng lượng này, bởi con người chính là tiểu ngoài hành tinh của đại thiên hà .

Để nắm được nguồn năng lượng thiên hà, người Lê-mu-ri đã sử dụng các giải pháp vốn có ở Cõi kia. Cơ sở của các chiêu thức đó ( thời nay nghe thật lạ tai ) là các khái niệm giản đơn : “ thiện ” và “ yêu thương ” .

( … ) Vì vậy, để có một tâm hồn trong sáng, như lời các đạo sư, chỉ hoàn toàn có thể tu thân – một việc làm lớn lao, tự bộc lộ mình và thậm chí còn hi sinh, nhưng … nhất thiết phải để đạt tiềm năng chung nào đó của quả đât, chứ không đơn thuần chỉ để tự chứng minh và khẳng định mình .

( … ) Vì vậy, trong đời sống cần lắng nghe lương tâm của mình. Cái cảm xúc sâu lắng đó luôn luôn nói thực sự, còn nếu đã có lần xử sự trái với lương tâm, thì vét nhơ còn mãi trong tâm hồn .

( … ) ( Thầy Đa-ram nói : ) Năng lượng linh hồn là nguồn năng lượng ở ngoài electron và ngoài proton. Nhưng tâm năng can đảm và mạnh mẽ vô cùng, nó có năng lực ảnh hưởng tác động lên lực mê hoặc. Năng lượng của nhiều tâm có một sức mạnh lớn lao. Có tâm năng tích cực và tâm năng xấu đi, chúng gắn liền với nhau. ( … ) Tâm năng xấu đi ( xấu ác ) hoàn toàn có thể lôi cuốn các đối tượng người tiêu dùng phá phách của ngoài hành tinh, ảnh hưởng tác động lên vạn vật thiên nhiên. Bởi vậy, cùng với xung đột và cuộc chiến tranh, khá liên tục xảy ra động đất, rơi thiên thạch …

( … ) Chúng ta cần nhớ rằng, lòng thiện và tri thức sẽ thôi thúc quy trình hiện thực hoá dự báo tích cực về sự tăng trưởng của loài người ; còn cái ác và thói hám quyền hoàn toàn có thể dẫn đến thảm hoạ toàn thế giới trong tương lai, kể cả ngày tận thế, hoặc tạo điều kiện kèm theo tăng trưởng yếu tố thụt lùi, dẫn đến hoá hoang .

( … ) Tôi tin rằng, trong tương lai, những lực lượng tích cực trên Trái đất sẽ áp đảo lực lượng xấu đi và sẽ không có thảm hoạ toàn thế giới .

* * * * * * * * * * * * * * *

2. ĐẠO CỦA VẬT LÍ (Fritjof Capra; giáo sư vật lí ở các đại học danh tiếng Anh, Mĩ. Dịch giả: Nguyễn Tường Bách; NXB Trẻ, 1999):

* Hồi tôi mày mò ra những điều song hành giữa thế giới quan vật lí và đạo học, những điều đã được nhiều người mơ hồ cảm thấy nhưng chưa khi nào được điều tra và nghiên cứu cặn kẽ, tôi đã thấy rõ mình chỉ là người phát hiện một điều vốn đã rất rõ ràng, và điều đó sẽ thành kỹ năng và kiến thức chung trong tương lai ; và nhiều lúc, khi viết Đạo Của Vật Lí, thậm chí còn tôi có cảm xúc những gì được viết là trải qua tôi, chứ không phải do tôi viết ra. Những biến cố sau này đã khẳng định chắc chắn cảm nhận này .

( … ) May mắn thay thái độ đó đang được biến hóa. Vì tư tưởng phương Đông đang mở màn tạo được mối chăm sóc nơi 1 số ít lớn người và thiền định không còn bị nhìn với sự hoài nghi, đạo học đã được coi trọng, ngay cả trong cộng đồng khoa học .

( … ) Các góp phần của Heisenberg ( Nobel vật lí 1932 ) trong thuyết lượng tử mà tôi sẽ nói đến nhiều trong tác phẩm này, sẽ cho thấy rõ là ý niệm cổ xưa về tính khách quan trong khoa học sẽ không còn được duy trì lâu hơn nữa, và do đó mà vật lí văn minh cũng đang xét lại lịch sử một thời của một nền khoa học siêu giá trị. Những cấu trúc mà nhà khoa học quan sát được trong vạn vật thiên nhiên thực ra liên hệ rất ngặt nghèo với cấu trúc của tâm ý họ ; với khái niệm, tư tưởng và hệ giá trị của họ. Do đó, hiệu quả khoa học mà họ thu được và sự ứng dụng kĩ thuật mà họ tìm hiểu và khám phá sẽ rất tuỳ thuộc vào khuôn khổ tâm thức của họ. Dù nhiều nghiên cứu và điều tra đơn lẻ hoàn toàn có thể không nhờ vào rõ ràng vào mạng lưới hệ thống giá trị của họ, nhưng khung cảnh to lớn trong đó các điều tra và nghiên cứu được triển khai cũng không khi nào siêu giá trị. Thế nên, nhà khoa học phải chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về khu công trình điều tra và nghiên cứu của mình, không những chỉ về tri thức, mà cả về mặt đạo lí .

Từ cái nhìn này, mối liên hệ giữa vật lí và đạo học không những rất mê hoặc mà còn rất là quan trọng. Nó chỉ ra rằng, hiệu quả của nền vật lí văn minh đã mở ra hai con đường khác nhau để nhà khoa học đi theo. Chúng hoàn toàn có thể đưa ta – dùng những từ cực đoan – đến với đức Phật hay trái bom, và điều này đặt ra cho mỗi nhà khoa học quyết định hành động chọn lấy con đường .

( … ) Hơn thế nữa, giờ đây tôi thấy có cơ sở vững hơn nhiều với những vấn đề của mình, vì sự song hành giữa đạo học phương Đông không những chỉ Open trong vật lí mà cả trong sinh học, tâm lí học và các ngành khoa học khác .

( … ) Đối với tôi khi nào cũng rõ, và tôi đã nói trong Đạo Của Vật Lí, rằng sự tương đương theo cách tôi thấy giữa vật lí và đạo học phương Đông cũng hoàn toàn có thể rút ra từ các truyền thống lịch sử đạo học phương Tây .

* ( … ) Mặc dù các phe phái đạo học phương Đông khác nhau về nhiều chi tiết cụ thể, nhưng tổng thể đều nhấn mạnh vấn đề đến tính nhất thể của ngoài hành tinh, đó là điểm TT của mọi giáo pháp. Mục đích cao nhất của kẻ tầm đạo – không kể Ấn Độ giáo, Phật giáo hay Lão giáo – là luôn luôn tỉnh giác về sự nhất thể và về mối đối sánh tương quan của mọi pháp, vượt lên khái niệm về một cái ngã độc lập, và tự hoà mình vào “ thực tại ở đầu cuối ” đó. Sự tỉnh giác này – có khi gọi là “ giác ngộ ” – không phải chỉ là một tiến trình hiểu biết mà là một kinh nghiệm tay nghề tự nếm trải, kinh nghiệm tay nghề này chiếm hàng loạt thân tâm hành giả và do đó có đặc thù tôn giáo .

( … ) Điều mà tất cả chúng ta nghe và thấy không khi nào là bản thân hiện tượng kỳ lạ, mà chỉ là hệ quả của nó. Bản thân quốc tế của nguyên tử và của các hạt hạ nguyên tử thì nằm bên kia năng lực phân biệt của tất cả chúng ta ( nhà khoa học ) .

( … ) Những đơn vị chức năng hạ nguyên tử là một cấu trúc trừu tượng, với thuộc tính hai mặt. Tuỳ theo tất cả chúng ta nhìn nó như thế nào mà chúng Open khi là hạt, khi khác là sóng ; ánh sáng cũng Open hai mặt, khi là sóng điện từ, khi thì Open như hạt .

Tính chất này của vật chất và ánh sáng thật là kì quặc. Xem ra không hề đồng ý được một cái gì đó vừa là hạt, tức là một cơ cấu tổ chức có kích cỡ rất nhỏ, đồng thời vừa là sóng, là một cái gì hoàn toàn có thể toả rộng trong khoảng trống. Đối với nhiều người, xích míc này là một sự nghịch lí, tựa như như công án, ở đầu cuối nó dẫn đến sự phát biểu thuyết lượng tử .

( … ) Thế nên thuyết lượng tử trình diễn cho thấy thể thống nhất của ngoài hành tinh. Nó cho ta thấy rằng không hề chia chẻ quốc tế ra từng hạt nhỏ rời rạc độc lập với nhau. Khi nghiên cứu và điều tra sâu về vật chất, ta sẽ biết vạn vật thiên nhiên không cho thấy những “ hạt cơ bản ” riêng không liên quan gì đến nhau, mà nó Open như một tấm lưới phức tạp chứa toàn những mối liên hệ của những thành phần trong một toàn thể. Những mối liên hệ này gồm luôn cả người quan sát. Con người quan sát chính là mắt xích ở đầu cuối của một chuỗi quy trình quan sát, và đặc thù của một vật thể nguyên tử chỉ hoàn toàn có thể hiểu được trong mối quan hệ giữa vật được quan sát và người quan sát. Điều đó có nghĩa là tưởng tượng cổ xưa về một sự miêu tả khách quan quốc tế tự nhiên không còn giá trị nữa .

( … ) Trong nền vật lí văn minh, ngoài hành tinh được thấy như một cái toàn thể năng động, tự tính của nó là luôn luôn gồm có cả người quan sát. Nơi đây thì những khái niệm truyền thống cuội nguồn như khoảng trống, thời hạn, vật thể độc lập, nguyên nhân-kết quả đã mất ý nghĩa. Kinh nghiệm này rất tương tự như với kinh nghiệm tay nghề của đạo học phương Đông .

* Mặc dù với trình độ tri thức cao của nền triết lí, Đại thừa Phật giáo không khi nào đánh mất mình trong tư duy trừu tượng. Như trong mọi mạng lưới hệ thống đạo học phương Đông, óc suy luận chỉ được xem là một phương tiện đi lại mở đường đi đến những thực chứng siêu hình, điều mà Fan Hâm mộ Phật giáo gọi là giác ngộ. Tính chất của kinh nghiệm tay nghề này là ở chỗ, phải vượt qua biên giới của trí suy luận phân biệt và những đối cực, để đạt tới quốc tế của bất khả tư nghì, không hề dùng tư duy mà tới, trong đó thực tại hiện ra bất khả phân, một quốc tế như-nó-là .

( … ) Nội dung TT của Hoa Nghiêm là sự nhất thể và mối quan hệ nội tại của mọi sự và mọi biến cố, một ý niệm không chỉ là cốt tuỷ của quốc tế quan phương Đông mà còn là một trong những yếu tố chủ chốt của thế giới quan ngành vật lí văn minh. Do đó người ta sẽ thấy Kinh Hoa Nghiêm, bộ kinh tôn giáo cổ này, góp sức những mối tương đương điển hình nổi bật nhất với các quy mô và lí thuyết của vật lí tân tiến .

* Tri kiến tâm linh không khi nào nhờ quan sát mà đạt được ; mà là nhờ sự tham gia toàn vẹn với tổng thể đặc thù của mình. ( … ) .

Tất nhiên nền vật lí văn minh thao tác trong khuôn khổ trọn vẹn khác và không hề đi xa như vậy trong việc xác nhận tính nhất thể của mọi sự. Nhưng trong vật lí nguyên tử, nó đã đi một bước dài về hướng của quốc tế quan phương Đông. ( … ) .

Nền vật lí này bây giờ đã thấy vũ trụ là một mạng lưới với những liên quan vật chất và tâm linh chằng chịt, mà các phần tử chỉ được định nghĩa trong mối tương quan với cái toàn thể.

( … ) Ngày nay vật lí văn minh đã tăng trưởng một thái độ rất khác. Nhà vật lí đã nhìn nhận rằng, toàn bộ lí thuyết của họ về hiện tượng kỳ lạ tự nhiên, kể cả những quy luật mà họ miêu tả, toàn bộ đều do đầu óc con người phát minh sáng tạo ra ; toàn bộ là đặc thù của tưởng tượng của chính tất cả chúng ta về thực tại, chứ không phải bản thân thực tại .

( … ) Trong vật lí lượng tử, người quan sát và vật bị quan sát không hề chia cắt, nhưng hai cái đó liên tục bị phân biệt. Còn trong đạo học, trong sự thiền định sâu xa thì sự phân biệt giữa người quan sát và vật bị quan sát trọn vẹn xoá nhoà, trong đó người và vật hoà nhập làm một .

( … ) Sự biến hóa thế giới quan đang diễn ra sẽ tiềm ẩn một sự đổi khác thâm thúy về giá trị ; trong thực tiễn là sự đổi khác từ tâm can – từ dự tính ngự trị và điều khiển và tinh chỉnh vạn vật thiên nhiên đến một thái độ hợp tác và bất bạo động .

( … ) Nền y học truyền thống của Trung Quốc cũng đặt cơ sở trên sự điều hoà của Âm-Dương trong thân thể con người, và mỗi căn bệnh có nghĩa là thế cân đối đó bị lung lay. Thân người gồm có các phần thuộc âm và dương. Nhìn chung thì các phần nội tạng thuộc dương, phần bên ngoài thuộc âm ; sống lưng là dương, ngực là âm. Thế cân đối giữa các phần đó được một luồng khí chạy luân lưu giữ vững, khí đó chạy dọc theo một mạng lưới hệ thống kinh lạc, trên đó là các huyệt. Mỗi đường kinh liên hệ với mỗi cơ quan thân thể nhất định theo nguyên lí kinh dương thì nối với cơ quan âm và ngược lại. Mỗi khi mối luân lưu giữa âm khí và dương khí bị gián đoạn thì thân thể bị đau ốm. ( … ) .

* * * * * * * * * * * * * * * *

3. TRÍ TUỆ NỔI TRỘI (Karen Nesbitt Shanor; tiến sĩ sinh học. Dịch giả: Vũ Thị Hồng Việt; NXB Tri Thức, 2007):

* Các điều tra và nghiên cứu tại trường Đại học Stanford đã chỉ ra rằng trải qua tâm lý, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể gây tác động ảnh hưởng tới huyết áp và nhịp tim của một người ở cách xa tất cả chúng ta. Còn các nhà khoa học tại trường Đại học Princeton đã chứng tỏ được quy trình trao đổi thông tin giữa hai người ở cách xa nhau hàng nghìn dặm .

( … ) Khoảng khoảng trống to lớn chiếm trên 99 % diện tích quy hoạnh mỗi nguyên tử hầu hết không có ý nghĩa gì. Tuy nhiên, 1 số ít nhà khoa học văn minh lại tin rằng khoảng chừng khoảng trống đó, khoảng chừng không mà trong quốc tế phương Tây tất cả chúng ta coi là một mớ vô dụng, lại rất có ý nghĩa. Nó chính là nguồn năng lượng, sự hiểu biết và trên thực tiễn nó hoàn toàn có thể là thực chất của ý thức .

( … ) Và chính bới phần sâu trong tâm hồn được coi là nguồn chữa bệnh, nên một trong những người khởi xướng ra Phòng y học sửa chữa thay thế tại viện Y học Quốc gia, Tiến sĩ John Spencer và tôi đã mày mò ra mối liên hệ giữa trí tuệ và khung hình – ý thức và y học .

( … ) Thông qua cuốn sách này, chúng tôi phát hiện ra được năng lượng của ý thức sâu kín và cách khai thác nguồn nguồn năng lượng khổng lồ, tình yêu thương và sự uyên bác. Ý thức sâu kín được mọi người biết đến là phần trí tuệ sâu nhất. Nó được gọi với nhiều tên : quan sát viên giấu mặt, nhà tư tưởng phía sau những tâm lý, trí tuệ quản lý, người chỉ huy, chứng nhân, khoảng chừng khoảng trống giữa những tâm lý ( … ) .

( … ) Những phát hiện khoa học mới gần đây và những kinh nghiệm tay nghề tâm linh đã từng có lúc hoà hợp với nhau. Đây là điều tốt cho kỉ nguyên mới. Khoa học có sự liên hệ với thực chất tâm linh của trái đất sẽ hoàn toàn có thể bỏ xa khoa học công nghệ tiên tiến của quá khứ trong việc góp phần vào sự phồn vinh của trái đất .

( … ) Các nghiên cứu và điều tra đang được triển khai, về phương pháp tâm lý của tất cả chúng ta tác động ảnh hưởng tới quốc tế xung quanh hay tới một nơi xa xôi nào đó, sẽ hoàn toàn có thể khẳng định chắc chắn rằng tâm lý của tất cả chúng ta không chỉ biểu lộ mà còn tạo ra được thực tế vật chất .

( … ) Các nhà khoa học cũng đang quay lại và hướng sự tập trung chuyên sâu vào việc tìm hiểu và khám phá phương pháp tâm lý và trạng thái của tất cả chúng ta thực sự tác động ảnh hưởng đến lực từ trường bên trong và xung quanh tất cả chúng ta. ( … ) Những phát hiện này hoàn toàn có thể chứng tỏ cho công bố từ lâu của những người luyện thiền và những người tập luyện yoga, rằng những sự rèn luyện này thực sự làm tăng sinh khí cho tất cả chúng ta và tiếp thêm nguồn năng lượng cho ta .

( … ) Nhiều nghiên cứu và điều tra khoa học đã khiến cho melatonin ngày càng được biết đến với giá trị như một phân tử chống ung thư. ( … ) Thú vị là việc luyện thiền được coi là một hành vi kích thích tuyến tùng và giúp tạo ra được đủ lượng melatonin thiết yếu .

* ( Viết chung với John Spencer, tiến sỹ y học khét tiếng ) : Các chiêu thức thiền khuyến khích sự thở sâu từ cơ hoành, được biết đến với tính năng nuôi dưỡng các cơ quan thiết yếu và làm tăng các mức độ nguồn năng lượng, tăng tỉ lệ trao đổi chất và tái sinh các khu vực ngưng trệ của khung hình .

( … ) Trong bài báo “ Bí mật bệnh ung thư ” đăng trên tờ Newsday xuất bản năm 1998, Delthia Ricks đã đưa ra năng lực về năng lượng chữa bệnh ung thư của những lời cầu nguyện .

( … ) Cũng khoảng chừng thời hạn đó, tạp chí Forbes đã cho xuất bản một bài báo của John Christy với tiêu đề “ Lời cầu nguyện là một phương thuốc ”. Christy đã phân phối vật chứng cho thấy “ những người hay cầu nguyện và chú tâm vào các buổi lễ tôn giáo thì sống khoẻ mạnh hơn những người ở cùng độ tuổi nhưng có thái độ không tin ”, dựa trên sự xác nhận rằng sức khoẻ bị ảnh hưởng tác động bởi trạng thái trí não, mà trạng thái trí não lại hoàn toàn có thể bị tác động ảnh hưởng bởi các tín ngưỡng tôn giáo. Ta hoàn toàn có thể thấy một ví dụ trong các tỉ lệ sống sót cao hơn ở những ca phẫu thuật tim và huyết áp tâm trương thấp liên tục ở những bệnh nhân có niềm tin tôn giáo can đảm và mạnh mẽ .

( … ) Một nghiên cứu và điều tra xuất sắc nhìn nhận vai trò của sự cầu nguyện ( cho người khác ) trong việc chữa bệnh do bác sĩ chuyên khoa tim Randolph Byrd triển khai đã khuyến khích rất nhiều các nghiên cứu và điều tra sau đó. ( … ) Các nhóm tôn giáo khác nhau được cử đến để cầu nguyện cho các bệnh nhân trong nhóm được cầu nguyện ( bệnh nhân không biết ). ( … ) Các bệnh nhân trong nhóm được cầu nguyện ở 1 số ít khu vực so sánh với những người trong nhóm không cầu nguyện : Họ dùng thuốc kháng sinh ít hơn năm lần ; họ ít bị mắc chứng phù ở phổi hơn ba lần ; không ai trong số họ cần đến ống thở ( … ) ; và có rất ít bệnh nhân trong nhóm được cầu nguyện bị chết .

( … ) Chúng ta chỉ mới đang khởi đầu giáo dục về điều này cho những bác sĩ. Mới đây Hội đồng giáo dục y tế chính thức thực thi hai nhu yếu đặc biệt quan trọng tương quan đến tôn giáo .

( … ) 20 năm trước khi chúng tôi ý kiến đề nghị các bệnh nhân tập thiền để có sức khoẻ, chúng tôi thường gặp phải những thái độ thiếu tín nhiệm. Giờ đây người ta đến các khoá học thiền ngày càng đông. Một khu công trình điều tra và nghiên cứu mang tính bước ngoặt của Benson và Wallace cũng như hàng nghìn các nghiên cứu và điều tra khoa học đã cho thấy các quyền lợi vật chất và ý thức của thiền và đặt nó ở một vị trí tuyệt vời, như một câu nói của người Scotland như sau “ nó tốt cho những gì làm bạn đau đớn ” mà không có tính năng phụ nào cả. Bên cạnh đó, sự thiền định còn phân phối cho người ta thêm nguồn năng lượng và khiến họ tâm lý tốt hơn, tăng cường năng lực ghi nhớ, tập trung chuyên sâu và nâng cao tính phát minh sáng tạo .

* * * * * * * * * * * * * *

4. SỰ SỐNG SAU CÁI CHẾT: GÁNH NẶNG CHỨNG MINH (Deepak Chopra; tiến sĩ y học; được tạp chí Time bình chọn là một trong 100 anh hùng và biểu tượng của thế kỉ XX. Dịch giả: Trần Quang Hưng; NXB Văn Hoá Sài Gòn, 2010):

* Sự biến hoá là điều thần kì nhất trong thời thơ ấu của tôi. Bản thân cái chết được xem như một điểm dừng ngắn ngủi trên hành trình dài vô tận của linh hồn, hoàn toàn có thể biến anh nông dân thành một ông hoàng và ngược lại. Với năng lực có vô vàn kiếp sống, linh hồn hoàn toàn có thể chứng nghiệm hàng trăm cõi thiên đường và chốn âm ti .

( … ) Vũ trụ mà tôi và bạn thể nghiệm giờ đây, với cây cối, nhà máy sản xuất, con người, nhà cửa, xe cộ, hành tinh và các thiên hà, chính là ý thức bộc lộ ở một tần số đặc biệt quan trọng nào đó. Đâu đó trong thời không có những bình diện khác nhau đồng thời sống sót .

( … ) Các bình diện sống sót khác nhau tương ứng với các tần số ý thức khác nhau. Thế giới vật chất chỉ là biểu lộ của một tần số nhất định .

( … ) Thế kỉ 20, khoa học phương Tây tìm hiểu và khám phá ra rằng mọi vật thể rắn thực ra đều được tạo nên bởi những rung động vô hình dung .

( … ) Cũng đúng như các bình diện khác nhau của vật chất, ý thức cũng có những bình diện khác nhau .

( … ) Nếu Trái đất là bình diện ý thức đậm đặc, thì chắc như đinh phải có những bình diện ý thức cao hơn, chúng tôi gọi là Loka, mà giới thần bí học phương Tây biết đến như “ bình diện siêu hình ”. Các bình diện siêu hình có số lượng có vẻ như vô tận này chia ra thành các quốc tế siêu hình cao hơn và thấp hơn, và thậm chí còn quốc tế thấp nhất cũng rung động với tần số cao hơn quốc tế vật chất .

( … ) Vì nhục thể rữa nát khi chết, linh hồn rời đi nhập vào giới siêu hình tương ứng với sự sống sót của nó ở bình diện vật chất, vào tần số tương ứng với đời sống cũ của nó nhất. ( … ) Quá trình biến hóa sau cái chết không phải là sự chuyển dời đến một nơi chốn khác hay thời hạn khác ; nó chỉ là sự đổi khác về chất sự chú tâm của tất cả chúng ta. Bạn chỉ hoàn toàn có thể nhìn thấy những gì có rung động tương ứng với bạn .

( … ) Khi những tri giác thường thì trở nên mờ nhạt thì những tri giác tinh xảo lại trở nên thính nhạy hơn. Chúng ta vẫn nhìn và nghe được sau khi chết, nhưng lúc đó đối tượng người dùng không còn là vật chất nữa. Chúng gồm có bất kể cái gì ta muốn thấy trong cõi siêu hình : nào thiên cảnh, thiên âm, nào quần tiên, nào hào quang chói lọi. Ở trạng thái sắp chết, mặt, giọng nói, hoặc một biểu cảm khác là những bộc lộ đặc trưng nhất. Trong các nền văn hoá khác người ta hoàn toàn có thể chờ đón cuộc chạm trán với ma quỷ hoặc súc vật. Người đang chết thường cảm thấy cái gì đó phảng phất quanh mình – một hơi ấm, một hình ảnh mờ nhạt hoặc âm thanh nào đó trước khi rời khỏi thể xác. Bằng cách nào đó những điều này liên thông với tần số rung động của người đang chết. ( … ) Một khao khát bất thành hoặc không được phép, trở nên xấu đi. Một ham muốn tận hưởng cũng khiến hồn khó siêu thoát .

( … ) Các bậc thánh nhân và hiền nhân có độc quyền hiện hữu đi đó đây tự do trong các cõi siêu hình mà không bị hạn chế bởi các ham muốn. Những linh hồn bấn loạn mắc kẹt giữa hai quốc tế, và nếu những người yêu dấu bị bỏ lại cứ cầu nguyện gọi hồn, cứ đau khổ, hoặc toan tính tiếp xúc với người đã mất, linh hồn sẽ liên tục xốn xang .

( … ) Cuối cùng câu hỏi “ Cái gì xảy ra sau khi tất cả chúng ta chết ? ” trở thành “ Cái gì xảy ra sau khi tôi chết ? ”. Vấn đề thành ra có tính cá thể, duy cảm và không hề phớt lờ .

* Bất kể chuyện gì xảy ra lúc chết, tôi tin rằng nó xứng danh được gọi là phép mầu. Mà phép mầu, trớ trêu thay, chính là ở chỗ tất cả chúng ta không chết. Sự dừng lại của khung hình là ảo ảnh, và giống như nhà ảo thuật vén lên một bức màn, linh hồn tò mò ra điều gì nằm ở bên kia. Các nhà tu thần bí đã biết nỗi vui sướng của khoảnh khắc này từ lâu .

( … ) Vì là phép mầu vô hình dung, cái chết cực kỳ khó nẳm bắt. Nhưng tất cả chúng ta có những manh mối mê hoặc là những gì nằm “ phía bên kia ” thực ra cực kỳ thân thiện với tất cả chúng ta giờ đây. ( … ) .

( … ) Trước Big Bang thời hạn chưa trôi : mỗi giây tương ứng với vĩnh cửu. Chúng ta ước đoán thế vì vật lí lượng tử xuyên qua ảo ảnh thời hạn, tách khỏi đồng hồ đeo tay nguyên tử để đi sâu hơn vào xí nghiệp sản xuất Tự nhiên. Rung động dừng lại tại mức độ sâu nhất. Đáy của thiên hà giống như bộ não chết. Tuy nhiên biểu lộ của cái chết là ảo giác, vì biên giới nơi mọi hoạt động giải trí chấm hết ghi lại sự mở màn một vùng mới, gọi là thực tại ảo – nơi vật chất và nguồn năng lượng sống sót dưới dạng tiềm năng thuân tuý. Cơ sở của thực tại ảo rất phức tạp nhưng nói một cách đơn thuần nhất, vùng phi vật chất phải sống sót để sinh ra thiên hà vật chất. Vùng này trống rỗng nhưng không hề hư vô. Như khi bạn ngủ gật trên giường, trí óc bạn trống nhưng hoàn toàn có thể tỉnh ngay cho vô số lựa chọn của ý nghĩ, thực tại ảo tỉnh giấc cho vô số thực tại của các sự kiện mới. Sáng tạo nhảy vọt từ trống rỗng lên đầy tràn, cũng như vĩnh cửu nhảy vọt từ phi thời hạn sang đầy tràn thời hạn .

Nếu vĩnh hằng đang cùng với ta giờ đây, làm cơ sở cho hàng loạt sống sót vật chất, nó phải làm cơ sở cho tôi và bạn. Ảo giác thời hạn nói rằng bạn và tôi bị phóng theo đường thẳng từ Sinh đến Diệt, trong khi thực ra tất cả chúng ta ở trong cái khủng hoảng bong bóng bị vĩnh cửu buông xuôi .

Thực ra sự kiện chết chưa khi nào xa xôi thế, và biên giới cố định và thắt chặt giữa sống và chết không phải là không hề vượt qua. ( … ) Sai lầm không phải ở chỗ ta sợ chết mà là ta không tôn trọng nó như một phép mầu .

( … ) Tiến sĩ Lommel, người chỉ huy chương trình kinh nghiệm tay nghề cận tử ( … ) thẩm tra 344 người bệnh loạn tim trong bệnh viện ( tim đáng lẽ đập thông thường thì lại co thắt hỗn loạn ). Tiến sĩ Lommel chuyện trò với họ trong vòng vài ngày trong khi họ sống lại và phát hiện ra việc gây mê và các loại thuốc không gây ảnh hưởng tác động kinh nghiệm tay nghề của họ. Tuy nhiên ông kinh ngạc hơn cả với các báo cáo giải trình về ý thức trong khi não không hoạt động giải trí. Nhiều năm sau nghịch lí này vẫn khiến ông sợ hãi : “ Vào thời gian đó những người này không chỉ có ý thức ; ý thức của họ thậm chí còn bao quát hơn khi nào hết. Họ hoàn toàn có thể tư duy rất là sáng suốt, có trí nhớ về tuổi thơ xa nhất và thể nghiệm sự link ngặt nghèo với mọi người, mọi vật xung quanh. Và bộ não trọn vẹn không có một chút ít bộc lộ hoạt động giải trí nào ”. ( … ) Có thể là ý thức không nằm trong bộ não. Đó là một năng lực gây sửng sốt, nhưng tương thích với truyền thống cuội nguồn tâm linh cổ đại nhất quốc tế .

( … ) Khoa học trong thời đại vật lí lượng tử không phủ nhận sự sống sót của các quốc tế vô hình dung. Hoàn toàn ngược lại .

( … ) Không thể chớp lấy Vĩnh hằng bằng trí óc trong trạng thái tỉnh thức thường thì của tất cả chúng ta. Trạng thái tỉnh thức của tất cả chúng ta bị thời hạn khống chế trong khi Vĩnh hằng thì không .

( … ) Tiếp theo, như người chết đuối nhìn thấy cả cuộc sống mình trôi qua trước mắt, nghiệp của một người bung ra như chỉ gỡ khỏi suốt, và các sự kiện của cuộc sống này diễu ngược lại qua màn ảnh của tâm lý. Bạn thể nghiệm lại tổng thể các thời gian trọng đại từ khi sinh ra, chỉ có điều lúc này rất sinh động và rõ ràng khiến bạn nhìn thấy đúng chuẩn từng thời gian có nghĩa gì. Cái đúng và sai cũng hiển hiện rõ ràng, không có sự tha thứ hay những lý giải duy lí. Bạn chịu nghĩa vụ và trách nhiệm cho mọi điều đã làm .

( … ) Những người hoài nghi năng lực tâm linh đặc dị làm ngơ trước vô số những nghiên cứu và điều tra cho thấy ý nghĩ thường thì hoàn toàn có thể thực sự tác động ảnh hưởng đến quốc tế. Điều này đặc biệt quan trọng quan trọng nếu tâm lý là trường .

( … ) Trường ý thức là cơ sở của mọi hiện tượng kỳ lạ trong tự nhiên chính do khe hở sống sót giữa mọi electron, mọi ý nghĩ, mọi khoảnh khắc thời hạn. Khe hở là điểm khống chế, sự yên bình ở tâm của phát minh sáng tạo, nơi ngoài hành tinh link mọi sự kiện .

Tuệ Thiền Lê Bá Bôn tổng hợp
Chú thích (*) là lời của các tác giả trong các quyển sách được đề cập

( E-rơ-nơ Mun-đa-sep ; giáo sư tiến sỹ y học ( Nga ), nhà bác học lớn quốc tế. Dịch giả : Hoàng Giang ; NXB Thế Giới, 2009 ) : * Người cổ xưa cho rằng, vật chất sinh ra từ khoảng chừng không. Nhà vật lí thiên tài Nga Ghên-na-đi Si-pốp, người đã lập được phương trình ( A. Anh-xtanh đã không lập được ) diễn đạt vật lí chân không, tức Tịnh vô tuyệt đối hoặc Tuyệt đối, cũng cho như vậy. Cùng ý niệm này có cả thành viên đoàn thám hiểm chúng tôi, chuyên viên vật lí trường, phó tiến sĩ khoa học kĩ thuật Va-lê-ri Lô-ban-cốp. Tôi và Va-lê-ri Lô-ban-cốp tranh luận nhiều về đề tài này. Dưới đây tôi xin trình diễn tác dụng của những cuộc bàn luận đó. Tuyệt đối đó không đơn thuần là tịnh vô ; đó là Khoảng Không có Cái gì đó. Trước mắt, khoa học chưa biết Cái gì đó. Theo G. Si-pốp, nguyên tử và phản nguyên tử phát sinh từ Tuyệt đối. Chúng sinh ra, đụng độ nhau và huỷ diệt nhau. Nhưng có một lần, cách đây nhiều tỉ năm, vào một thời gian các nguyên tử và phản nguyên tử sau khi tạo thành trong khoảng trống, đã tản đi. Vật chất phát sinh từ Tuyệt đối là như vậy. Các trường xoắn và phản xoắn ( xoắn theo cách khác ) siêu tần số cùng phát sinh từ Tuyệt đối, chúng cùng huỷ diệt lẫn nhau và tương hỗ Tuyệt đối. Nhưng cũng hoàn toàn có thể Open thời gian, khi các trường xoắn huỷ diệt nhau tản đi. Thế giới tế vi phát sinh từ Tuyệt đối là như vậy. Theo giả thuyết của G. Sipốp : giữa các trường xoắn của quốc tế tế vi và ý thức có mối liên hệ trực tiếp, bởi các trường xoắn là những chất chứa đu-sa và đu-khơ. Từ đó suy ra từ Tuyệt Đối đã phát sinh hai quốc tế – quốc tế vật thể và quốc tế tế vi. Thế giới vật thể phức tạp dần. Xuất hiện sao, hành tinh, các hệ ngân hà v.v … Thế giới tế vi gồm có các trường xoắn khác nhau cũng phức tạp dần. Khó nói quốc tế tế vi phức tạp và hoàn thành xong dần bằng cách nào. Nhưng hoàn toàn có thể nghĩ các trường xoắn của không gian-thời gian ngày một tích lượng thông tin nhiều hơn, tức có năng lực tiềm ẩn trong mình ngày một nhiều thông tin hơn. Có thể, đã Open những trường xoắn nhiều tầng, nhiều lớp hơn ( nếu tâm lý trên quan điểm hình học ), hoàn toàn có thể quy trình phức tạp hoá các trường xoắn có đặc thù khác nhau. Dần dà trong quy trình tiến hoá trong quốc tế tế vi Open đu-khơ – là khối nguồn năng lượng tinh thần kết đông dưới dạng các trường xoắn hoàn toàn có thể bảo toàn vĩnh cửu trong mình một khối lượng thông tin to lớn. Nhiều đu-khơ tạo thành giữa chúng những mối liên hệ thông tin và tạo ra Không gian thông tin toàn thể, tức Cõi kia ( … ). ( … ) Cùng với sự tạo ra con người bằng nỗ lực của quốc tế tế vi ( Cõi kia ), các dạng sự sống đơn thuần hơn cũng được tạo nên ở quốc tế vật thể – con vật, côn trùng nhỏ, cây cối v.v … Nguyên lí tạo quốc tế thực vật và quốc tế động vật hoang dã vẫn như vậy – bằng cách cô đặc dần các dạng trường xoắn đơn thuần hơn của Cõi kia .

Source: https://thevesta.vn
Category: Tâm Linh