Nhìn lại 10 năm thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững
Nhìn lại chặng đường 10 năm ( 2011 – 2020 ), công tác làm việc giảm nghèo đã đạt được nhiều hiệu quả tích cực và điển hình nổi bật. Hệ thống chính sách, chính sách về giảm nghèo được phát hành và tổ chức triển khai tiến hành đồng điệu trên các nghành nghề dịch vụ ( y tế, giáo dục, nhà tại, tín dụng thanh toán khuyễn mãi thêm, tương hỗ tiền điện, tăng trưởng sản xuất, tạo việc làm ; tương hỗ góp vốn đầu tư hạ tầng … ). Cơ chế, chính sách được thanh tra rà soát, sửa đổi, bổ trợ theo hướng giảm dần các chính sách tương hỗ trực tiếp, cho không, tăng cường tương hỗ có điều kiện kèm theo cho hộ nghèo vươn lên thoát nghèo bền vững và kiên cố ; tăng cường phân cấp, trao quyền cho cơ sở, người dân, phát huy vai trò của hội đồng, khuyến khích các sáng tạo độc đáo giảm nghèo bền vững và kiên cố do hội đồng yêu cầu, triển khai, nhất là khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đặc biệt là năm năm ngoái, Việt Nam đã quy đổi chiêu thức tiếp cận thống kê giám sát nghèo từ đơn chiều sang đa chiều, với tiềm năng không chỉ bảo vệ thu nhập tối thiểu mà còn tương hỗ để cải tổ mức độ tiếp cận của người nghèo so với các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nhà tại, nước sạch và vệ sinh, thông tin .
Trong 10 năm qua, công tác giảm nghèo đã đạt nhiều kết quả nổi bật
Bạn đang đọc: Nhìn lại 10 năm thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững
Các tác dụng triển khai tiềm năng, chỉ tiêu giảm nghèo đều đạt và vượt tiềm năng, chỉ tiêu Quốc hội, nhà nước đề ra. Việt Nam đã hoàn thành xong tiềm năng thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo trước 10 năm và được hội đồng quốc tế nhìn nhận là hình mẫu giảm nghèo hiệu suất cao. Năm 1993, tỷ suất hộ nghèo của Việt Nam là 58,1 % ; năm năm ngoái : 9,88 % ; năm 2020 : 2,75 %. Chỉ tính riêng quá trình năm nay – 2019, số hộ nghèo giảm 58,12 % so với tổng số hộ nghèo đầu quá trình với hơn 6 triệu người thoát nghèo, hơn 2 triệu người thoát cận nghèo .
Cùng với đó, thu nhập và đời sống của người nghèo, người dân trên địa phận nghèo, vùng đặc biệt quan trọng khó khăn vất vả được nâng cao ; hạ tầng kinh tế tài chính – xã hội thiết yếu, link vùng nghèo được ưu tiên từng bước đầu tư, nhiều địa phận nghèo đã nỗ lực thoát nghèo, thoát khỏi thực trạng đặc biệt quan trọng khó khăn vất vả. Đến nay, 100 % các xã đã có đường xe hơi đến TT ; 99 % TT xã và 80 % thôn có điện ; 65 % xã có mạng lưới hệ thống thuỷ lợi nhỏ cung ứng nhu yếu sản xuất và đời sống ; 80 % thôn có đường cho xe cơ giới ; trên 50 % xã có trạm y tế đạt chuẩn ; 100 % người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được tương hỗ mua bảo hiểm y tế không tính tiền. Tính đến hết năm 2020, hơn 32 huyện, trên 650 xã, 1.200 thôn thoát khỏi thực trạng đặc biệt quan trọng khó khăn vất vả .
Thời gian qua, mặc dù nước ta gặp nhiều thiên tai, bệnh dịch, ngân sách còn nhiều khó khăn nhưng Nhà nước đã tăng nguồn lực đầu tư cho giảm nghèo, luôn bố trí vượt mức đầu tư đã được phê duyệt trong Chương trình, giai đoạn 2016-2020 bố trí tăng 1,02% so với kế hoạch; đặc biệt, trong đại dịch Covid-19, nhiều người nghèo, kể cả lao động ở khu vực thành thị thiếu việc làm, Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ trực tiếp cho 13 triệu người. Chỉ tính riêng giai đoạn 2016-2020, tổng nguồn lực bố trí, huy động để thực hiện công tác giảm nghèo là hơn 93.000 tỷ đồng; chính sách thường xuyên khác hỗ trợ hộ nghèo hộ cận nghèo (y tế, giáo dục, pháp lý, tiền điện…) khoảng 25.000 tỷ đồng/năm.
Có thể nói, Chương trình tiềm năng quốc gia Giảm nghèo bền vững và kiên cố đã phát huy sức mạnh tổng hợp của cả mạng lưới hệ thống chính trị trong việc thực thi các tiềm năng giảm nghèo, bảo vệ người nghèo tham gia và thụ hưởng thành quả tăng trưởng kinh tế tài chính của quốc gia. Phong trào thi đua “ Cả nước chung tay vì người nghèo – Không để ai bị bỏ lại phía sau ” do Thủ tướng nhà nước phát động đã được tiến hành sâu rộng, đem lại hiệu suất cao thiết thực, trào lưu ĐK thoát nghèo đã được nhiều người nghèo thực thi trên khoanh vùng phạm vi cả nước, nhiều tấm gương, nổi bật lan tỏa tích cực trong hội đồng .
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác giảm nghèo còn đối diện với nhiều khó khăn, thách thức cần được quan tâm, nỗ lực giải quyết hiệu quả hơn trong giai đoạn tới. Trước tình hình quốc tế ngày càng diễn biến phức tạp, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu toàn cầu ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống, hoạt động sản xuất kinh doanh của nhân dân, đặc biệt là các hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; tỷ lệ hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số, đối tượng bảo trợ xã hội còn cao; kết quả giảm nghèo chưa bền vững, dễ tái nghèo, chênh lệch giàu – nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, nhiều nơi tỷ lệ nghèo vẫn còn trên 50%; chuẩn thu nhập trong chuẩn nghèo đa chiều hiện nay còn thấp, bằng 45% chuẩn mức sống tối thiểu, chưa được điều chỉnh kịp thời. Một số cơ chế, chính sách đặc thù đối với địa bàn nghèo, khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa hiệu quả; việc hướng dẫn và triển khai Chương trình còn chậm; một số người dân, địa bàn nghèo vẫn còn tâm lý trông chờ, ỷ lại, chưa chủ động, nỗ lực vươn lên thoát nghèo.
Để thực thi tiềm năng giảm nghèo và phúc lợi xã hội đa chiều, bao trùm, vững chắc, hiệu suất cao, đồng thời khắc phục những sống sót, hạn chế của công tác làm việc giảm nghèo trong 10 năm qua, Việt Nam cần nỗ lực, quyết tâm thực thi 1 số ít trách nhiệm trọng tâm sau :
Một là, xây dựng và tổ chức thực hiện tốt các chương trình, chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội bao trùm, bền vững theo hướng kiên quyết loại bỏ các chính sách chồng chéo, không hiệu quả, tích hợp chính sách, hỗ trợ có điều kiện; nâng cao chất lượng và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, tạo việc làm đầy đủ, việc làm tốt cho tất cả mọi người… góp phần bảo đảm an sinh xã hội cho người dân, giảm bất bình đẳng trong xã hội; xây dựng chuẩn nghèo mới có tiêu chí thu nhập bằng chuẩn mức sống tối thiểu vì Việt Nam đã trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình.
Hai là, bố trí đủ ngân sách nhà nước, lồng ghép các chương trình, huy động nguồn lực toàn xã hội để thực hiện các chính sách, chương trình giảm nghèo và an sinh xã hội, trong đó ưu tiên hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế – xã hội các vùng khó khăn, vùng đặc biệt khó khăn; xây dựng các mô hình giảm nghèo và an sinh xã hội thích ứng với biến đổi khí hậu; nhân rộng các sáng kiến, mô hình hiệu quả, thành công.
Ba là, tăng cường công tác quản lý nhà nước; cải cách thủ tục hành chính để người dân, cộng đồng thuận lợi hơn khi tham gia và tiếp cận chính sách giảm nghèo; xử lý nghiêm các hành vi trục lợi, sai phạm trong tổ chức thực hiện chính sách, chương trình.
Bốn là, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và nhân dân nhằm tạo đồng thuận và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để thực hiện mục tiêu giảm nghèo; thúc đẩy phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo – không để ai bị bỏ lại phía sau”; phong trào “thoát nghèo” sâu rộng trên phạm vi cả nước; khơi dậy ý chí tự lực, tự cường, nỗ lực vươn lên của người dân, của người nghèo; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội các cấp, sự chung sức đồng lòng của cộng đồng doanh nghiệp và của toàn xã hội.
Năm là, mở rộng hợp tác quốc tế, huy động sự hỗ trợ kỹ thuật, nguồn lực của các tổ chức quốc tế, các đối tác phát triển tiếp tục đồng hành cùng Chính phủ Việt Nam trong công cuộc giảm nghèo bền vững và bảo đảm an sinh xã hội.
Nguồn: Laodongxahoi.net
Source: https://thevesta.vn
Category: Cộng Đồng