Bình Định – Wikipedia tiếng Việt
Đền thờ Đào Duy Từ (Cự Tài, Hoài Phú, Hoài Nhơn, Bình Định) do Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên sai lập năm 1634.
Bạn đang đọc: Bình Định – Wikipedia tiếng Việt
Bình Định là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam. Tỉnh lỵ của Bình Định là thành phố cảng Quy Nhơn nằm cách thủ đô Hà Nội 1.070 km về phía nam, cách thành phố Đà Nẵng 323 km về phía nam và cách Thành phố Hồ Chí Minh 652 km về phía bắc theo đường Quốc lộ 1A.[3]
Năm 2018, Bình Định là đơn vị chức năng hành chính Việt Nam đông thứ 17 về số dân, xếp thứ 25 về Tổng sản phẩm trên địa phận ( GRDP ), xếp thứ 28 về GRDP trung bình đầu người, đứng thứ 43 về vận tốc tăng trưởng GRDP. Với 1.534.800 người dân [ 4 ], GRDP đạt 74.729 tỉ Đồng ( tương ứng với 3,2460 tỉ USD ), GRDP trung bình đầu người đạt 48,69 triệu đồng ( tương ứng với 2.115 USD ), vận tốc tăng trưởng GRDP đạt 7,32 % [ 5 ]
Mục lục
Vị trí địa lý[sửa|sửa mã nguồn]
Bình Định là tỉnh duyên hải miền Trung Việt Nam. Lãnh thổ của tỉnh trải dài 110 km theo hướng Bắc – Nam, có chiều ngang với độ hẹp trung bình là 55 km ( chỗ hẹp nhất 50 km, chỗ rộng nhất 60 km ). Phía Bắc giáp tỉnh Tỉnh Quảng Ngãi với đường ranh giới chung 63 km ( điểm cực Bắc có tọa độ : 14 ° 42 ‘ 10 ‘ ‘ Bắc, 108 ° 55 ‘ 4 ‘ ‘ Đông ). Phía Nam giáp tỉnh Phú Yên với đường ranh giới chung 50 km ( điểm cực Nam có tọa độ : 13 ° 39 ‘ 10 ‘ ‘ Bắc, 108 ° 54 ‘ 00 ‘ ‘ Đông ). Phía Tây giáp tỉnh Gia Lai có đường ranh giới chung 130 km ( điểm cực Tây có tọa độ : 14 ° 27 ‘ Bắc, 108 ° 27 ‘ Đông ). Phía Đông giáp Biển Đông với bờ biển dài 134 km, điểm cực Đông là xã Nhơn Châu ( Cù Lao Xanh ) thuộc thành phố Quy Nhơn ( có tọa độ : 13 ° 36 ‘ 33 Bắc, 109 ° 21 ‘ Đông ). Bình Định được xem là một trong những cửa ngõ ra biển của những tỉnh Tây Nguyên và vùng nam Lào .
Đầm Thị NạiĐịa hình của tỉnh tương đối phức tạp, thấp dần từ tây sang đông. Phía tây của tỉnh là vùng núi rìa phía đông của dãy Trường Sơn Nam, sau đó là vùng trung du và tiếp theo là vùng ven biển. Các dạng địa hình thông dụng là những dãy núi cao, đồi thấp xen lẫn thung lũng hẹp độ cao xấp xỉ 100 mét, hướng vuông góc với dãy Trường Sơn, những đồng bằng lòng chảo, những đồng bằng duyên hải bị chia nhỏ do những nhánh núi đâm ra biển. Ngoài cùng là cồn cát ven biển có độ dốc không đối xứng giữa 2 hướng sườn đông và tây. Các dạng địa hình hầu hết của tỉnh là :
- Vùng núi: Nằm về phía tây bắc và phía tây của tỉnh. Đại bộ phận sườn dốc hơn 20°. Có diện tích khoảng 249.866 ha, phân bố ở các huyện An Lão (63.367 ha), Vĩnh Thạnh (78.249 ha), Vân Canh (75.932 ha), Tây Sơn và Hoài Ân (31.000 ha). Bốn huyện An Lão, Vân Canh, Vĩnh Thạnh, Tây Sơn được xem là thuộc khu vực Tây Sơn theo một văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam.[6] Địa hình khu vực này phân cắt mạnh, sông suối có độ dốc lớn, là nơi phát nguồn của các sông trong tỉnh. Chiếm 70% diện tích toàn tỉnh thường có độ cao trung bình 500-1.000 m, trong đó có 11 đỉnh cao trên 1.000 m. Hai đỉnh cao trên 1.150 m, tại tọa độ: (14.573366, 108.709717) và (14.589110, 108.711478), ở phía Bắc xã An Toàn (huyện An Lão) được xem là cao nhất Bình Định. Còn lại có 13 đỉnh cao 700–1000 m. Các dãy núi chạy theo hướng Bắc – Nam, có sườn dốc đứng. Nhiều khu vực núi ăn ra sát biển tạo thành các mỏm núi đá dọc theo bờ, vách núi dốc đứng và dưới chân là các dải cát hẹp. Đặc tính này đã làm cho địa hình ven biển trở thành một hệ thống các dãy núi thấp xen lẫn với các cồn cát và đầm phá.
- Vùng đồi: tiếp giáp giữa miền núi phía tây và đồng bằng phía đông, có diện tích khoảng 159.276 ha (chiếm khoảng 10% diện tích), có độ cao dưới 100 m, độ dốc tương đối lớn từ 10° đến 15°. Phân bố ở các thị xã Hoài Nhơn (15.089 ha), An Lão (5.058 ha) và Vân Canh (7.924 ha).
- Vùng đồng bằng: Tỉnh Bình Định không có dạng đồng bằng châu thổ mà phần lớn là các đồng bằng nhỏ được tạo thành do các yếu tố địa hình và khí hậu, các đồng bằng này thường nằm trên lưu vực của các con sông hoặc ven biển và được ngăn cách với biển bởi các đầm phá, các đồi cát hay các dãy núi. Độ cao trung bình của dạng địa hình đồng bằng lòng chảo này khoảng 25–50 m và chiếm diện tích khoảng 1.000 km². Đồng bằng lớn nhất của tỉnh là đồng bằng thuộc hạ lưu sông Côn, còn lại là các đồng bằng nhỏ thường phân bố dọc theo các nhánh sông hay dọc theo các chân núi và ven biển.
- Vùng ven biển: Bao gồm các cồn cát, đụn cát tạo thành một dãy hẹp chạy dọc ven biển với chiều rộng trung bình khoảng 2 km, hình dạng và quy mô biến đổi theo thời gian. Trong tỉnh có các dãi cát lớn là: dãi cát từ Hà Ra đến Tân Phụng, dãi cát từ Tân Phụng đến vĩnh Lợi, dãi cát từ Đề Gi đến Tân Thắng, dãi cát từ Trung Lương đến Lý Hưng. Ven biển còn có nhiều đầm như đầm Trà Ổ, đầm Nước Ngọt, đầm Mỹ Khánh, đầm Thị Nại; các vịnh như vịnh Làng Mai, vịnh Quy Nhơn, vịnh Vũng Mới…; các cửa biển như Cửa Tam Quan, cửa An Dũ, cửa Hà Ra, cửa Đề Gi và cửa Quy Nhơn. Các cửa trên là cửa trao đổi nước giữa sông và biển. Hiện tại ngoại trừ cửa Quy Nhơn và cửa Tam Quan khá ổn định, còn các cửa An Dũ, Hà Ra, Đề Gi luôn có sự bồi lấp và biến động.
Ven bờ biển tỉnh Bình Định gồm có 33 hòn đảo lớn nhỏ được chia thành 10 cụm hòn đảo hoặc hòn đảo đơn lẻ .
- Tại khu vực biển thuộc thành phố Quy Nhơn gồm cụm đảo Cù Lao Xanh là cụm đảo lớn gồm 3 đảo nhỏ; cụm Đảo Hòn Đất gồm các đảo nhỏ như Hòn Ngang, Hòn Đất, Hòn Rớ; cụm Đảo Hòn Khô còn gọi là cù lao Hòn Khô gồm 2 đảo nhỏ; cụm Đảo Nghiêm Kinh Chiểu gồm 10 đảo nhỏ (lớn nhất là Hòn Sẹo); cụm Đảo Hòn Cân gồm 5 đảo nhỏ trong đó có Hòn ông Căn là điểm A9 trong 12 điểm để xác định đường cơ sở của Việt Nam; Đảo đơn Hòn Ông Cơ.
- Tại khu vực biển thuộc huyện Phù Mỹ gồm cụm Đảo Hòn Trâu hay Hòn Trâu Nằm gồm 4 đảo nhỏ; Đảo Hòn Khô còn gọi là Hòn Rùa. Ven biển xã Mỹ Thọ có 3 đảo nhỏ gồm: Đảo Hòn Đụn còn gọi là Hòn Nước hay Đảo Đồn; Đảo Hòn Tranh còn gọi là Đảo Quy vì có hình dáng giống như con rùa, đảo này nằm rất gần bờ có thể đi bộ ra đảo khi thủy triều xuống; Đảo Hòn Nhàn nằm cạnh Hòn Đụn.
Trong những hòn đảo nói trên thì chỉ hòn đảo Cù Lao Xanh là có dân cư sinh sống, những hòn đảo còn lại là những hòn đảo nhỏ 1 số ít hòn đảo còn không có thực vật sinh sống chỉ toàn đá và cát. Dọc bờ biển của tỉnh, ngoài những đèn hiệu hướng dẫn tàu thuyền ra vào cảng Quy Nhơn, thì Bình Định còn có 2 ngọn hải đăng : một ngọn được thiết kế xây dựng trên mạng bắc của núi Gò Dưa thuộc thôn Tân Phụng xã Mỹ Thọ huyện Phù Mỹ, ngọn này có tên gọi là Hải Đăng Vũng Mới hay Hải Đăng Hòn Nước ; ngọn thứ hai được thiết kế xây dựng trên hòn đảo Cù Lao Xanh thuộc xã Nhơn Châu thành phố Quy Nhơn .
Các sông trong tỉnh đều bắt nguồn từ những vùng núi cao của sườn phía đông dãy Trường Sơn. Các sông ngòi không lớn, độ dốc cao, ngắn, hàm lượng phù sa thấp, tổng trữ lượng nước 5,2 tỷ m³, tiềm năng thuỷ điện 182,4 triệu kw. Ở thượng lưu có nhiều dãy núi bám sát bờ sông nên độ dốc rất lớn, lũ lên xuống rất nhanh, thời hạn truyền lũ ngắn. Ở đoạn đồng bằng lòng sông rộng và nông có nhiều luồng lạch, mùa kiệt nguồn nước rất nghèo nàn ; nhưng khi lũ lớn nước tràn ngập bát ngát vùng hạ lưu gây ngập úng dài ngày vì những cửa sông nhỏ và những khu công trình che chắn nên thoát lũ kém. Trong tỉnh có bốn con sông lớn là Côn, Lại Giang, La Tinh và Hà Thanh cùng những sông nhỏ như Châu Trúc hay Tam Quan. Ngoài những sông đáng kể nói trên còn lại là mạng lưới hệ thống những suối nhỏ chằng chịt thường chỉ có nước chảy về mùa lũ và mạng lưới những sông suối ở miền núi tạo điều kiện kèm theo cho tăng trưởng thuỷ lợi và thuỷ điện. Độ bao trùm của rừng đến nay chỉ còn khoảng chừng trên 40 % nên hàng năm những sông này gây lũ lụt, sa bồi, thuỷ phá nghiêm trọng. Ngược lại, mùa khô nước những sông hết sạch, thiếu nước tưới .
Toàn tỉnh Bình Định có nhiều hồ tự tạo được kiến thiết xây dựng để Giao hàng mục tiêu tưới tiêu trong mùa khô. Trong đó hoàn toàn có thể kể tên 1 số ít hồ lớn tại những huyện trong tỉnh như : hồ Hưng Long ( An Lão ) ; hồ Vạn Hội, Mỹ Đức và Thạch Khê ( Hoài Ân ) ; hồ Mỹ Bình ( Hoài Nhơn ) ; hồ Hội Sơn và Mỹ Thuận ( Phù Cát ) ; hồ Diêm Tiêu, Hóc Nhạn và Phú Hà ( Phù Mỹ ) ; hồ Định Bình, Thuận Ninh ( Tây Sơn ) ; hồ Núi Một ( Vân Canh – An Nhơn ) ; hồ Vĩnh Sơn, hồ Định Bình ( Vĩnh Thạnh ). Ngoài ra Bình Định còn có một đầm nước ngọt khá rộng là đầm Trà Ổ ( Phù Mỹ ) và hai đầm nước lợ là Đề Gi ( Phù Mỹ – Phù Cát ) và Thị Nại ( Tuy Phước – Quy Nhơn ). Hệ thống hồ đầm này tạo điều kiện kèm theo thuận tiện cho việc tăng trưởng nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản. Đặc biệt đầm Thị Nại là đầm lớn rất thuận tiện cho việc tăng trưởng cảng biển tầm cỡ vương quốc và góp thêm phần tăng trưởng khu kinh tế tài chính Nhơn Hội, đầm còn được biết đến với cây cầu vượt biển dài thứ hai Việt Nam lúc bấy giờ sau cầu Đình Vũ ( Hải Phòng Đất Cảng ) .
Khí hậu Bình Định có đặc thù nhiệt đới gió mùa ẩm, gió mùa. Do sự phức tạp của địa hình nên gió mùa khi vào đất liền đã biến hóa hướng và cường độ khá nhiều .
- Nhiệt độ không khí trung bình năm: ở khu vực miền núi biến đổi 20,1 – 26,1 °C, cao nhất là 31,7 °C và thấp nhất là 16,5 °C. Tại vùng duyên hải, nhiệt độ không khí trung bình năm là 27,0 °C, cao nhất 39,9 °C và thấp nhất 15,8 °C.
- Độ ẩm tuyệt đối trung bình tháng trong năm: tại khu vực miền núi là 22,5 – 27,9% và độ ẩm tương đối 79-92%; tại vùng duyên hải độ ẩm tuyệt đối trung bình là 27,9% và độ ẩm tương đối trung bình là 79%.
- Chế độ mưa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12. Riêng đối với khu vực miền núi có thêm một mùa mưa phụ tháng 5 – 8 do ảnh hưởng của mùa mưa Tây Nguyên. Mùa khô kéo dài tháng 1 – 8. Đối với các huyện miền núi tổng lượng mưa trung bình năm 2.000 – 2.400 mm. Đối với vùng duyên hải tổng lượng mưa trung bình năm là 1.751 mm. Tổng lượng mưa trung bình có xu thế giảm dần từ miền núi xuống duyên hải và có xu thế giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
- Về bão: Bình Định nằm ở miền Duyên hải Nam Trung Bộ, đây là miền thường có bão đổ bộ vào đất liền. Hàng năm trong đoạn bờ biển từ Quảng Nam – Đà Nẵng đến Khánh Hòa trung bình có 1,04 cơn bão đổ bộ vào. Tần suất xuất hiện bão lớn nhất tháng 9 – 11.
Bản đồ tỉnh Bình Định của Nhà Nguyễn
trong Đại Nam Nhất Thống Chí Di tích Tử cấm Thành của
Thành Hoàng Đế ở An NhơnBình Định đời nhà Tần, nhà Hán là huyện Tượng Lâm thuộc Q. Nhật Nam, năm Vĩnh Hoà 2 ( 137 ) người trong Q. làm chức Công Tào tên là Khu Liên đã giết viên huyện lệnh chiếm đất và tự phong là Lâm Ấp vương .Đời nhà Tùy ( 605 ) dẹp Lâm Ấp đặt tên là Xung Châu, sau đó lại lấy tên cũ là Lâm Ấp .Đời nhà Đường, năm 627 đổi tên là Lâm Châu. Năm 803, nhà Đường bỏ đất này và nước Chiêm Thành của người Chăm sinh ra, đất này được đổi là Đồ Bàn, Thị Nại .Đời nhà Lê, tháng 7 năm 1471, vua Lê cho lập phủ Hoài Nhơn gồm 3 huyện là : Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Từ đó người Việt mở màn tiến vào sinh sống trên vùng đất Bình Định ngày này. Năm 1490 ( chưa đầy 20 năm sau ), theo Thiên nam dư hạ tập cho biết : dưới thời Hồng Đức, Phủ Hoài Nhơn có 19 tổng và 100 xã .Năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng cho đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn thuộc dinh Quảng Nam .Năm 1651, chúa Nguyễn Phúc Tần, đã đổi tên phủ Quy Nhơn thành phủ Quy Ninh .Năm 1742, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lấy lại tên cũ là Quy Nhơn .Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát đặt những đạo làm dinh, nhưng cấp phủ vẫn giữ nguyên. Phủ Quy Nhơn vẫn thuộc về dinh Quảng Nam, đặt những chức tuần phủ và khám lý để quản lý. Phủ lỵ dời ra phía Bắc thành Đồ Bàn, đóng tại thôn Châu Thành ( nay là phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn ) .Năm 1725, ở phủ Quy Nhơn đặt những chức quan trông coi : Chánh hộ, Khám lý, Đề đốc, Đề lãnh, Ký lục, Cai phủ, Thư ký, mỗi chức đặt một người ; mỗi huyện đặt cai tri, thư ký, mỗi chức một người và 2 viên lục lại ; mỗi tổng có cai tổng .Giữa thế kỷ 18, có cuộc khởi nghĩa của một chàng trai ở Gò Sặt võ nghệ cao ráo, tên là Lía. Chàng chọn Truông Mây làm địa thế căn cứ. Ngày nay còn có câu :
“ | Chiều chiều én liệng Truông Mây[7]
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành |
” |
Từ 1773 đến 1797, nhà Tây Sơn chiếm cứ đất này, sau khi lấy lại đất này Nguyễn Ánh đổi tên đất này là dinh Bình Định, sai Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn thủ và đặt quan quản lý gọi là Lưu Thủ, Cai Bộ, Ký Lục .Từ 1799 đến 1802, thành Quy Nhơn bị quân Nguyễn Ánh chiếm đóng và đổi làm thành Bình Định và suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đây là TT quản lý của triều Nguyễn tại Bình Định trong những năm đầu thế kỷ XIX .Năm 1808 đổi dinh Bình Định thành trấn Bình Định .Năm 1814, vua Gia Long cho thiết kế xây dựng lại thành Bình Định mới, ngày này ở phường Bình Định thị xã An Nhơn, nằm về phía đông nam và cách thành cũ khoảng chừng 5 km ở phía gần sông Côn. Sau khi xây xong cho chuyển hàng loạt nhà cửa về thành mới này .Năm 1825 đặt tri phủ Quy Nhơn, năm 1831 lại đổi thành phủ Hoài Nhơn .Năm 1832 tách huyện Tuy viễn thành hai huyện Tuy Viễn và Tuy Phước, tách huyện Phù Ly thành hai huyện Phù Mỹ và Phù Cát đồng thời Bình Định và Phú Yên thành liên tỉnh Bình Phú, sau đó bỏ liên tỉnh này .Năm 1888 đặt huyện Bình Khê. Vào năm 1885 Bình Định là một tỉnh lớn ở Trung Kỳ, nhiều vùng đất của Gia Lai – Kon Tum còn thuộc về Bình Định .Năm 1890, thực dân Pháp sáp nhập thêm Phú Yên vào tỉnh Bình Định thành tỉnh Bình Phú, tỉnh lỵ là Quy Nhơn. Nhưng đến năm 1899, Phú Yên tách ra khỏi Bình Phú .Ngày 4 tháng 7 năm 1905, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định xây dựng tỉnh tự trị Pleikou Derr, tỉnh lỵ đặt tại làng Pleikan Derr của dân tộc bản địa Gia Lai. Địa bàn tỉnh Pleikou Derr gồm có những vùng cư trú của đồng bào thiểu số Xơ Đăng, Bana, Giarai tách từ tỉnh Bình Định ra .Ngày 25 tháng 4 năm 1907 xoá bỏ tỉnh Pleikou Derr. Toàn bộ đất đai của tỉnh này chia làm hai phần : một là Đại lý Kontum cho sáp nhập trở lại tỉnh Bình Định và đặt dưới sự quản lý của Công sứ Bình Định ; một gọi là Đại lý Cheo Reo, cho sáp nhập vào tỉnh Phú Yên và đặt dưới sự quản lý của Công sứ Phú Yên .Năm 1913, thực dân Pháp lại sáp nhập Phú Yên vào Bình Định thành tỉnh Bình Phú và xây dựng tỉnh Kontum làm tỉnh riêng ; địa phận tỉnh Kontum gồm có Đại lý Kontum tách từ tỉnh Bình Định, Đại lý Cheo Reo tách từ tỉnh Phú Yên và Đại lý Đắk Lắk. Ngày 28 tháng 3 năm 1917 cắt tổng Tân Phong và tổng An Khê thuộc cao nguyên An Khê, tỉnh Bình Định, sáp nhập vào tỉnh Kontum .Năm 1921, thực dân Pháp cắt tỉnh Phú Yên ra khỏi tỉnh Bình Định và lê dài cho đến năm 1945. Thời Việt Nam Cộng hòa đổi những huyện thành Q., tỉnh Bình Định có 11 Q., 1 thị xã, trong đó có 4 Q. miền núi .Tháng 2 năm 1976, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ra nghị định về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam. Theo đó hai tỉnh Tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định hợp nhất thành tỉnh Nghĩa Bình .Ngày 24 tháng 8 năm 1981, chia huyện Hoài Ân thành 2 huyện : Hoài Ân và An Lão ; chia huyện Phước Vân thành 2 huyện : Tuy Phước và Vân Canh ; chia huyện Tây Sơn thành 2 huyện : Tây Sơn và Vĩnh Thạnh .Ngày 3 tháng 7 năm 1986, chuyển thị xã Quy Nhơn thành thành phố Quy Nhơn. [ 8 ]Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Bình Định được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình cũ. [ 9 ]Khi tách ra, tỉnh Bình Định có 11 đơn vị chức năng hành chính gồm : thành phố Quy Nhơn ( tỉnh lỵ ) và 10 huyện : An Lão, An Nhơn, Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ, Tây Sơn, Tuy Phước, Vân Canh, Vĩnh Thạnh .Ngày 4 tháng 7 năm 1998, thành phố Quy Nhơn được công nhận là đô thị loại II [ 10 ] .Ngày 25 tháng 1 năm 2010, thành phố Quy Nhơn được công nhận là đô thị loại I thường trực tỉnh Bình Định. [ 11 ]Ngày 28 tháng 11 năm 2011, chuyển huyện An Nhơn thành thị xã An Nhơn. [ 12 ]Ngày 1 tháng 6 năm 2020, chuyển huyện Hoài Nhơn thành thị xã Hoài Nhơn. [ 13 ]
Tỉnh Bình Định có 1 thành phố, 2 thị xã và 8 huyện như hiện nay.
Bình Định có 11 đơn vị chức năng hành chính cấp huyện gồm có 1 thành phố, 2 thị xã và 8 huyện, được phân loại thành 159 đơn vị chức năng hành chính cấp xã gồm 32 phường, 11 thị xã và 116 xã. [ 14 ]
Kinh tế – Xã hội[sửa|sửa mã nguồn]
Bình Định có vị trí địa kinh tế đặc biệt quan trọng trong việc giao lưu với các quốc gia ở khu vực và quốc tế; nằm ở trung điểm của trục giao thông đường sắt và đường bộ Bắc – Nam Việt Nam, đồng thời là cửa ngõ ra biển Đông gần nhất và thuận lợi nhất của Tây Nguyên, Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và Đông Bắc Thái Lan thông qua Quốc lộ 19 và cảng biển quốc tế Quy Nhơn. Ngoài lợi thế này, Bình Định còn có nguồn tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn phong phú và nguồn nhân lực khá dồi dào. Trong Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Bình Định đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (theo Quyết định số 54/2009/QĐ-TTg ngày 14/4/2009), Bình Định được xác định sẽ phấn đấu trở thành tỉnh có nền công nghiệp hiện đại và là một trong những trung tâm phát triển về kinh tế – xã hội, đóng góp tích cực vào sự phát triển của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và cả nước, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, an ninh và quốc phòng luôn bảo đảm.[15]
Các chỉ tiêu đạt được năm 2018 : Về những chỉ tiêu kinh tế tài chính, Tổng sản phẩm trên địa phận ( GRDP ) tăng 7,32 % ( kế hoạch 7-7, 2 % ). Trong đó, giá trị tăng thêm của những ngành :+ Nông, lâm, thuỷ sản tăng 4,99 % ( kế hoạch 3 % ) .+ Công nghiệp, kiến thiết xây dựng tăng 9,03 % ( kế hoạch 10-10, 2 % ) .+ Dịch Vụ Thương Mại tăng 7,38 % ( kế hoạch 7,2 – 7,5 % ) .+ Thuế trừ trợ cấp loại sản phẩm 8,43 % ( kế hoạch 6,5 % ) .- Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 8,71 % ( kế hoạch 9 % ), tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 800 triệu USD ( kế hoạch 800 triệu USD ), tổng nguồn vốn góp vốn đầu tư tăng trưởng toàn xã hội trên địa phận tỉnh ước tăng 9,7 % so cùng kỳ ( kế hoạch 9,22 % ). Tổng thu ngân sách trên địa phận tỉnh đạt 8.466,4 tỷ đồng ( dự trù năm 2018 là 6.775,5 tỷ đồng ), vượt 25 % dự trù năm và tăng 11,7 % so với cùng kỳ. Trong đó, thu trong nước 7.791 tỷ đồng, tăng 25,9 % dự trù năm và tăng 11,9 % so với cùng kỳ. Tỷ lệ bao trùm rừng đạt 54 % ( kế hoạch 53 % ) .Các chỉ tiêu xã hội :- Mức giảm tỷ suất sinh 0,1 ‰ ( kế hoạch giảm 0,1 ‰ ) .- Tạo việc làm mới cho 29.917 lao động ( kế hoạch 29.850 lao động ). Tỷ lệ lao động qua đào tạo và giảng dạy nghề, tu dưỡng nghề đạt 52 % ( kế hoạch trên 52 % ) .- Tỷ lệ hộ nghèo còn 7,05 %, giảm 1,73 % so với năm 2017 ( kế hoạch giảm còn 7,45 % theo tiêu chuẩn mới ). Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 89,7 % ( kế hoạch giao 88,5 % ). Tỷ lệ trạm y tế có bác sĩ đạt 100 % ( kế hoạch 100 % ). Tỷ lệ xã đạt chuẩn vương quốc về y tế 97,5 % ( kế hoạch 97,5 % ) .- Số giường bệnh trên 1 vạn dân 30,2 giường ( kế hoạch 30 giường ). Tỷ lệ trẻ nhỏ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng 9,7 % ( kế hoạch dưới 10 % ) .Các chỉ tiêu thiên nhiên và môi trường :- Tỷ lệ dân cư đô thị sử dụng nước sạch 79 % ( kế hoạch 79 % ). Tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh 98 % ( kế hoạch 98 % ). Tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom 85 % ( kế hoạch 80 % ) .[ 5 ] Năm 2019, vận tốc tăng trưởng kinh tế tài chính đạt 6,81 %, thấp hơn so với cùng kì năm 2018. Tổng thu ngân sách năm 2019 của tỉnh đạt kỷ lục với hơn 12.000 tỷ đồng, tăng gần 34 % so với năm 2018, vượt 20,7 % dự trù ; trong đó, thu xuất nhập khẩu đạt 641,5 tỷ đồng ; thu trong nước đạt hơn 11.300 tỷ đồng ( thu tiền sử dụng đất 5.700 tỷ đồng, tăng 77 % so với cùng kỳ ) .Tổng nguồn vốn góp vốn đầu tư tăng trưởng trên địa phận tỉnh đạt 35.377 tỷ đồng, tăng 17 % so với năm 2018. Riêng nguồn vốn ngân sách Nhà nước góp vốn đầu tư đạt 6.286 tỷ đồng, tăng 76,4 % so với cùng kỳ .Năm 2019, tổng sản lượng thủy hải sản khai thác trên địa phận tỉnh đạt hơn 257.000 tấn, tăng 5,6 % so với năm 2018 ; trong đó, sản lượng cá ngừ đại dương đạt 11.300 tấn, tăng 6,3 % .
Bình Định có diện tích quy hoạnh tự nhiên 6022,6 km², dân số 1.487.009 ( năm 2021 ) người, tỷ lệ dân số 389 người / km² ( số liệu năm 8/2021 của World Population Review ). [ 3 ]Theo tổng tìm hiểu dân số tính đến ngày tháng 8 năm 2021, toàn tỉnh có 1.487.009 người, trong đó nam chiếm 49,2 %, nữ chiếm : 50,8 %. Dân số ở thành thị chiếm 31,9 %, nông thôn chiếm 68,1 %, tỷ lệ dân số là 246 người / km² và dân số trong độ tuổi lao động chiếm khoảng chừng chiếm : 58.8 % dân số toàn tỉnh. Ngoài dân tộc bản địa Kinh, còn có những dân tộc bản địa khác nhưng hầu hết là Chăm, Ba Na và Hrê, gồm có khoảng chừng 2,5 vạn dân .Dân cư trên địa phận tỉnh phân bổ không đều, tỷ lệ dân số toàn tỉnh là 251,8 người / km2 ; dân cư tập trung chuyên sâu đông nhất tại khu vực thành phố Quy Nhơn ( tỷ lệ dân số trung bình 1007,2 người / km2 ), tiếp đến là tại thị xã An Nhơn ( tỷ lệ trung bình 752,8 người / km2 ), thị xã Hoài Nhơn ( tỷ lệ trung bình 502,2 người / km2 ) ; thấp nhất là huyện Vân Canh với 31,6 người / km2. [ 17 ] Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2020 ước đạt 43 % .Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 9 tôn giáo khác nhau đạt 124.348 người, nhiều nhất là Công giáo có 36.299 người, tiếp theo là Phật giáo có 23.460 người, đạo Cao Đài có 13.118 người, đạo Tin Lành có 1.321 người. Còn lại những tôn giáo khác như Phật giáo Hòa Hảo có 94 người, Baha’i giáo có 26 người, Hồi giáo có 19 người, Bà La Môn có 10 người, 1 người theo Minh Lý đạo. [ 18 ]
Bình Định là mảnh đất có bề dày lịch sử vẻ vang với nền văn hoá Sa Huỳnh, từng là cố đô của vương quốc Chămpa mà di sản còn lưu giữ là thành Đồ Bàn và những tháp Chàm với nghệ thuật và thẩm mỹ kiến trúc độc lạ. Đây là nơi phát danh của Đào Duy Từ ( 1572 – 1634 ), quân sư của Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Chỉ vỏn vẹn tám năm ( 1627 – 1634 ) phò Chúa Sãi mà Đào Duy Từ đã khắc họa hình ảnh đặc dị một người thầy của Chúa Sãi, một kiệt tướng, một chính trị gia, một kế hoạch gia, một kiến trúc gia, một kỹ thuật gia, một nghệ sư tài hoa, một học giả, là người góp thêm phần quan trọng định hình nhà nước, địa lý và truyền thống Đàng Trong .Đây cũng là nơi xuất phát trào lưu nông dân khởi nghĩa vào thế kỷ 18 với tên tuổi của anh hùng áo vải Nguyễn Huệ ; là quê nhà của những danh nhân Trần Đức Hòa, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, Nguyễn Đăng Lâm, Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Ngô Mây, Tăng Bạt Hổ, Diệp Trường Phát …, và những văn thi nhân Nguyễn Diêu, Đào Tấn, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn, Nguyễn Thành Long, Phạm Hổ, Phạm Văn Ký, nhạc sĩ Nguyễn Văn Hiên, ca sĩ Quang Dũng … Bình Định còn được biết đến với truyền thống cuội nguồn thượng võ và có nền văn hoá phong phú đa dạng chủng loại với những mô hình nghệ thuật và thẩm mỹ như bài chòi, hát bội, nhạc võ Tây Sơn, hò bá trạo của dân cư vùng biển … cùng với những liên hoan như : tiệc tùng Đống Đa Tây Sơn, lễ hội cầu ngư, liên hoan của những dân tộc bản địa miền núi …Thành phố Quy Nhơn có trường Đại học Quy Nhơn, Đại học Quang Trung ( tư thục ), Cao đẳng Bình Định ( trước kia là Cao đẳng sư phạm Bình Định ), Cao đẳng Nghề Quy Nhơn, Cao đẳng Nghề cơ điện nông lâm Trung bộ, Cao đẳng Y tế Bình Định hàng năm giảng dạy hàng chục ngàn sinh viên khoa học kỹ thuật cho tỉnh và khu vực miền trung Tây Nguyên .
Tuồng Bình Định[sửa|sửa mã nguồn]
Bia tiểu sử và góc đền thờ Đào Duy Từ tại thôn Cự Tài, xã Hoài Phú, thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, chụp trong dịp lễ húy kỵ lần thứ 386 Thái sư Hoằng Quốc Công Đào Duy Từ
Bình Định là nơi có nghệ thuật tuồng rất phát triển gắn liền với tên tuổi của Đào Duy Từ (hiện nay đền thờ Đào Duy Từ ở tại thôn Cự Tài, xã Hoài Phú, thị xã Hoài Nhơn; đền thờ này do Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cho xây từ năm 1634, ngay sau Đào Duy Từ mất; đền cách quốc lộ 1A 3 km, tính từ ngã tư Nguyễn Chí Thanh-Trần Phú, phường Tam Quan, thị xã Hoài Nhơn) và Đào Tấn (hiện nay đền thờ Đào Tấn ở huyện Tuy Phước; Đào Tấn là hậu duệ Đào Duy Từ). Các đoàn hát tuồng trong tỉnh được hình thành ở khắp các huyện. Với sự giao lưu của nghệ thuật tuồng và võ Bình Định đã đưa tuồng Bình Định lên một tầm cao mới khác lạ hơn so với các đoàn tuồng của Huế hay Quảng Nam. Tuồng còn gọi là “hát bội” hay hát bộ sở dĩ nó có tên gọi như thế là vì ngoài việc hát thì yếu tố quan trọng góp phần tạo nên một vở tuồng hay và đặc sắc là hành động điệu bộ của các đào kép. Việc kết hợp võ thuật vào các màng nhào lộn, đánh trận ở mỗi đoàn có khác nhau tùy theo trình độ của đào kép. Trước kia khi hát bội còn thịnh hành thì có nhiều đoàn hát nhưng những năm gần đây dưới sự biến động của kinh tế thị trường thì nhiều đoàn dần giải tán, bộ môn văn hóa nghệ thuật dân tộc này có nguy cơ thất truyền. Lúc còn thịnh hành các đoàn hát bội thường được các làng, những gia chủ giàu có hay các lăng, đình ven biển mời về biểu diễn. Sau những màn diễn hay người cầm chầu ném tiền thưởng lên sân khấu. Vì thế mới có câu “Ở đời có bốn cái ngu: Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu” thường thì sau đêm hát cuối cùng các đoàn hay hát màn “tôn vương” để chúc tụng gia chủ, làng xóm gặp nhiều may mắn và cuối màn “tôn vương” thì thường hát câu: “Rày mừng hải yến Hà Thanh – nhân dân an lạc thái bình âu ca” hay “ngũ sắc tường vân khai Bắc khuyết – nhất bôi thọ tửu chúc Nam san“. Năm 2014, hát Bội Bình Định được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.[19]
Có quốc lộ 1A, quốc lộ 1D, quốc lộ 19, quốc lộ 19B, quốc lộ 19C đi qua .
Ngoài những đặc sản nổi tiếng về lâm, thổ, thuỷ, món ăn hải sản của duyên hải miền Trung nói chung, Bình Định còn có : rượu Bàu Đá ( An Nhơn ), cá chua nước lợ ( Đề Gi – Phù Cát ), bánh tráng nước dừa ( phường Tam Quan ), bún Song Thằn và bánh hỏi, nem chả Chợ Huyện, bánh ít lá gai. Ngày nay ở thị xã Hoài Nhơn có thêm đặc sản nổi tiếng cá ngừ đại dương ( cá ” Bò Gù ” ), thị xã An Nhơn có thêm Rượu Vang Nếp Belifoods .
Một số hình ảnh về Bình Định .[sửa|sửa mã nguồn]
- Thành phố Quy Nhơn nhìn từ trên cao
-
Cửa Đông
thành Bình Định - Bán hòn đảo Phương Mai
- Tháp Đôi, Quy Nhơn
-
Đèo Cù Mông
phía nam Bình Định - Đại học Quy Nhơn
-
Nhà thờ chính tòa
Giáo phận Quy Nhơn - Mộ Hàn Mạc Tử
- Thị trấn Phú Phong – Tây Sơn và sông Kôn nhìn từ trên cao
- Bãi biển Quy Nhơn
-
Trung tâm thị xã
An Nhơn, Bình Định -
Cảng Quy Nhơn – cảng biển lớn nhất khu vực miền Trung về sản lượng
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Source: https://thevesta.vn
Category: Bản Đồ