Áp Dụng Phật Pháp Vào Đời Sống
ÁP DỤNG PHẬT PHÁP VÀO ĐỜI SỐNG
Bạn đang đọc: Áp Dụng Phật Pháp Vào Đời Sống
HT. Thích Nhật Quang
Đây
là lần đầu tiên chúng tôi được thăm viếng và làm quen quý Phật tử. Qua lời trình làng của Thầy chúng tôi, sáng nay chúng tôi được phép thay nhọc cho Thầy nói chuyện Phật pháp tại Thiền tự Vạn An cùng quý Phật tử.
Đây là lần đầu tiênđượcvà làm quen quý. Qua lờicủa Thầy, sáng nayđược phép thay nhọc cho Thầy nói chuyệntạicùng quý
Lâu
nay ở quê nhà, có một số Phật tử phát tâm tu học và đủ điều kiện thực hành công phu tu tập. Qua tiếp xúc, chúng tôi biết nỗi ưu tư lớn của quí
vị là “Làm sao áp dụng được Phật pháp một cách chín chắn vào đời sống của mình?”.
Phật tử cũng phân biệt rõ nếu như chỉ hiểu Phật pháp, dù hiểu nhiều, hiểu thâm thúy, nhưng thiếu phần vận dụng tất cả chúng ta cũng không hề gọi là người thâm nhận hoặc hưởng được giá trị thiết thực của Phật pháp.
Quả
thật như thế, dù chúng ta có để tâm nghiên cứu học hỏi các phương pháp tu hành thật nhiều, nhưng không có phần hành trì, không hạ thủ công phu,
thì cái hiểu của chúng ta cũng chỉ là hiểu, là kiến giải thôi. Vì vậy quí Phật tử nên quan tâm đến phần thực hành nhiều hơn. Công phu là công phu của chính mình, chứ không phải của ai hết. Chúng ta cũng không thể đợi chờ, ỷ lại vào một vị thầy nào. Ngay bây giờ, điều thiết yếu nhất là
mỗi vị phải áp dụng tu hành. Người xưa dạy: Phật pháp không nhiều, người bền lâu khó có. Học đạo như tâm ban đầu thì thành đạo hẳn có thừa.
Trước sau không hề đổi, mới thật là người học Phật.
Qua lời dạy trên tất cả chúng ta thấy rõ, hiểu sâu hay nghiên cứu và điều tra nhiều, mà không chăm sóc đến phần hành, phần tu thì không mong có ngày thành tựu. Phật pháp không nhiều, quí ở giữ tâm khởi đầu, thực hành thực tế chuyên nhất, mới thật là người để tâm tới việc học Phật. Chúng ta nắm được chìa khóa, biết cách Open, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể mở được cửa vào nhà. Người đủ điều kiện kèm theo Open vào nhà mà cứ đi loanh quanh bên ngoài, chưa chịu Open vào nhà, thì vẫn chịu kiếp long dong. Chư Phật, Bồ-tát, những bậc Thánh hiền, những vị thiện hữu tri thức của tất cả chúng ta đều đã qua những quy trình tiến độ thể nghiệm thật là thâm thúy, đến nơi đến chốn, do vậy những ngài được an nhàn. Những gì những ngài dạy lại tất cả chúng ta đều từ sự thể nghiệm ấy. Người tu Phật không phải là triết gia, không phải thi sĩ, không phải học giả, mà là một người hành giả. Chúng ta chỉ hoàn toàn có thể địa thế căn cứ từ nơi mình mà luận bàn, hơn là cứ tìm tòi chạy kiếm bên ngoài. Chúng ta nói tu học, nói vận dụng Phật pháp mà không trị được phiền não, không hết điên đảo lăng xăng, những mê mờ còn đọng lại trong lòng quá nhiều thì chưa thể gọi là tu Phật. Bởi vậy gặp chướng duyên tập khí tham, sân, phiền não, ganh tỵ, đố kỵ … dấy khởi lẫy lừng. Cho nên người con Phật phải chăm sóc đến việc tu học của mình.
Người xưa dạy Phật pháp không có nhiều,
tức là pháp Phật nói ra chung quy cũng chỉ có những điểm then chốt, chỉ
mê khai ngộ giúp chúng sanh ta nhổ sạch gốc vô minh, phiền não. Những ai nhận được, hành trì đúng đắn, thể nghiệm hay sống được với thật pháp,
nhất định có an lạc. Không nhất thiết chúng ta phải hành trì hết cả loạt những kinh điển đã được học, chỉ cần hành một phần nào trong đó thôi, cũng đã có an lạc rồi. Có khi ta học nhiều, nhớ thuộc, hiểu biết, trình bày càng nhiều càng làm loạn tâm thêm. Bởi vì như thế là tăng trưởng kiến giải, mà tăng trưởng kiến giải thì không thể an định được.
Chúng ta chỉ cần hiểu những điều chính yếu và khế hợp với nền tảng của mình thì hoàn toàn có thể ứng dụng tu được rồi. Nắm được phương pháp đó, nhất định tất cả chúng ta sẽ giác ngộ, giải thoát. Người xưa dạy Phật pháp không nhiều rất hay, chính do nếu Phật pháp nhiều, tất cả chúng ta sẽ không hành trì hết. Ta hành trì pháp thích hợp với mình, còn những phần khác hiểu qua thôi. Ví dụ kiểm nghiệm lại bản thân mình hay nóng nảy, nhớ lời Phật dạy quán từ bi trị bệnh nóng nảy thì nhắm thẳng chiêu thức đó mà hành, nhất định hành cho đến nơi đến chốn. Có thế ta mới trị được bệnh nóng nảy của mình.
Học
Phật pháp là để trị bệnh. Bệnh của chúng sanh là bệnh từ nhiều đời, nên
thời gian điều trị không thể mau được. Do chúng ta mê lầm nên bị cuốn theo dòng thác sanh tử. Những tật xấu, những tập khí, những tham sân phiền não đã ăn sâu gốc rễ, nếu không bền lòng tận lực thì khó mong hết nổi. Biết như thế, bây giờ chúng ta nhắm ngay bệnh của mình mà trị. Chúng tôi rất tâm đắc với lời dạy Phật pháp không có nhiều. Chỉ cần nắm phần chính, phần thực sự khế hợp với mình và quyết tâm hành trì.
Phật pháp mình hiểu là để vận dụng cho mình, trị bệnh của mình. Những huynh đệ đồng tu đồng học là những người cùng một lý tưởng, một khuynh hướng, một nhân duyên với mình. Đối với những vị này tất cả chúng ta nên tương hỗ động viên để cùng tu cùng học. Thật ra nói cùng tu cùng học chứ thực tình việc tu học là cho chính mình, chứ không cho ai hết.
Người lâu bền khó có,
là người có kiên tâm, có ý chí hành trì Phật pháp đến nơi đến chốn thật
hiếm. Không phải không có, nhưng rất hiếm. Bản thân chúng ta cũng vậy, buổi sáng vui buổi chiều buồn, sáng phấn khởi, giữa trưa lại muốn bỏ cuộc, đại khái như thế. Nghĩa là chúng ta có bệnh bất nhất. Bởi bất nhất
nên phần hành có nhưng quyết tâm bền chí, dũng mãnh tu tập cho đến nơi đến chốn thì rất ít người được. Người xưa phát tâm tu tập chừng nào bằng
Phật mới vừa lòng, về phần này chúng ta thua người xưa nhiều.
Nghiên
cứu lại lịch sử tu hành của các tổ Trúc Lâm, chúng ta thấy Sơ Tổ Trúc Lâm, là một ông vua anh hùng của dân tộc. Khi Ngài đi tu đã hành hạnh đầu đà, đạt đạo dưới rừng trúc nên gọi là Tổ Trúc Lâm. Chúng ta cứ ngỡ một người quyền uy như thế, hưởng thụ như thế, chắc không tu nổi, mà nếu
có tu cũng dễ rơi vào tình trạng bất nhất của mình. Nhưng không! Ông vua Việt Nam đi tu, lên rừng trúc tu hạnh đầu đà năm sáu năm trường, ngộ
đạo rồi mới ra hoằng pháp lợi sinh. Cho nên bây giờ mới có hai bài Ngài
viết để lại cho chúng ta là “Cư trần lạc đạo phú” và “Đắc thú lâm tuyền
thành đạo”.
Người xưa đã làm được thì ngày này tất cả chúng ta cũng làm được. Tổ thời Trần của tu như vậy, tất cả chúng ta cũng tu được như vậy. Các Ngài tu đắc lực, giác ngộ sáng được việc của mình, ngày hôm nay tất cả chúng ta tu cũng giác ngộ, sáng được việc của mình. Bởi vì niềm tin giác ngộ, siêu thoát đó không dành riêng cho ai. Nó là thành quả dành cho những hành giả có tâm kinh khủng, khẳng định chắc chắn trong công phu tu tập. Vì vậy người tu phải có ý chí, kiên tâm bền bĩ, nhất định tu thành công xuất sắc. Tâm bắt đầu của tất cả chúng ta nếu được gìn giữ dữ gìn và bảo vệ liên tục, thì không có khó khăn vất vả nào, trở ngại nào ngăn cản bước chân ta nổi. Tâm bắt đầu là tâm giác ngộ, tâm cầu thành Phật. Người tu nếu phát khởi tâm đó rồi, nuôi dưỡng liên tục trong suốt quy trình tu hành, nhất định tu sẽ thành công xuất sắc. Quý Phật tử nên nhớ phải phấn chí phát nguyện tu hành chừng nào bằng Phật mới thỏa mãn nhu cầu mình, không biến hóa, không vì một sự duyên gì làm trở ngại việc tu hành cả. Nếu toàn bộ những người con Phật phát tâm tu hành, phát tâm học đạo giữ được tâm bắt đầu của mình thì số người thành Phật rất nhiều. Chúng ta có thấy được chỗ thâm yếu, vi diệu của Phật pháp thì mới phát tâm tin kính hướng về. Tu hành là tự nguyện, chứ không phải ai bắt buộc hết. Chúng ta phát tâm tìm hiểu và khám phá, đến với đạo và học đạo. Chắc chắn quí vị thấy được giá trị đặc biệt quan trọng của đạo mới đến với đạo. Ở ngoài đời, nếu nói về danh vị, nhiều Phật tử đã có danh vị, nhưng rõ ràng nó không thật sự đem đến an nhàn, nên quí vị mới hướng về đạo. Khi vào đạo, biết được giá trị của đạo, tất cả chúng ta mới quyết tâm hành trì. Dù công phu có những trở ngại, nhưng cảm nhạân giá trị của đạo, tất cả chúng ta quyết tâm từng bước đi lên, như vậy nhất định sẽ sáng đạo. Sáng đạo là gì ? Chúng ta hoàn toàn có thể sáng đạo được không ? Được. Trước nhất nói đến niềm tin vận dụng đạo vào trong sống. Có người bảo : Đạo lý thì nói giải thoát mà đời sống là va chạm, phiền não, lăng xăng … Hai con đường ngược nhau, làm thế nào vận dụng để đạt đạo ? Thưa quý vị, nghe qua thì như vậy, nhưng thực sự đạo lý là để vận dụng vào đời sống. Đời sống có phiền não lăng xăng mới có chỗ cho tất cả chúng ta vận dụng đạo lý chứ. Chính cái xích míc ấy mới giúp tất cả chúng ta thành tựu được đạo lý trong cuộc sống. Người tu phải khéo, khéo vận dụng thì lợi lạc của đạo lý nằm trong tầm tay. Chúng ta hoàn toàn có thể nắm được, đến được, sống được đạo lý đó. Và do đó, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể an nhàn, giải thoát. Trước tất cả chúng ta có những bậc huynh trưởng, những ngài đã thành tựu. Ngày nay trên bước đường tất cả chúng ta đi, có map, có sự hướng dẫn rõ ràng của những người đi trước, nhất định tất cả chúng ta cũng sẽ thành tựu nếu chịu cất bước. Song, nếu thiếu tâm bền vững, không có ý chí thì khó mong thành tựu. Người tuy hiểu đạo nhưng không có tâm bền vững, không có ý chí, sự hành trì một nắng mười mưa, bước tới một bước bước lùi ba bước, thì đi tới đâu. Thành ra ở đây yên cầu tất cả chúng ta phải có ý chí. Có ý chí thao tác gì cũng đến nơi đến chốn. Người gặp khó khăn vất vả bỏ cuộc, gặp trở duyên nản lòng sẽ không đi tới đâu. Khi thấy được chỗ thâm diệu đặc biệt quan trọng của giáo pháp, tất cả chúng ta học và yên tâm hành trì, nuôi dưỡng phát huy ý chí. Phải kiên cường, phải bền vững, phải vững mạnh. Năm này tất cả chúng ta chưa làm được thì cuối năm hoặc đầu năm tới phải làm được. Ta không bỏ cuộc, không nản lòng, mà kiên tâm dứt khoát sẽ triển khai được. Người có công phu hành trì rồi thì lòng sẽ rực sáng. Chúng ta khắc phục được một phiền não, trị được một cái dở của mình là bước được một bước trong công phu, trong lòng ta có niềm vui, có sự phấn khởi. Niềm vui đó sẽ là đà tiến, là thời cơ để tất cả chúng ta bước tới. Niềm vui đó lần lần sẽ tròn đầy, sáng rực trong lòng tất cả chúng ta. Người tu theo đạo Phật nếu không vững niềm tin, không có niềm vui, sẽ không tu đến nơi đến chốn. Những niềm vui ấy không phải tìm bên ngoài, mà lưu xuất từ công phu hành trì của tất cả chúng ta. Ví dụ trước khi khởi đầu công phu, mình có bệnh nghe ai nói trái tai là hờn trong lòng. Hờn rồi tự nhiên bủn rủn, không muốn tu hành nữa, công phu cũng công phu mà dã dượi, không có nhuệ khí, không tăng tiến được. Những loại phiền não nho nhỏ như vậy len lỏi trong lòng, tất cả chúng ta không có cách đẩy lui, nó sẽ tăng trưởng. Nó tăng trưởng trong những sự duyên, trong đời sống, trong tiếp cận hằng ngày của tất cả chúng ta. Càng tăng trưởng nó càng làm mình không muốn tu nữa, ở đầu cuối tâm Bồ-đề lui sụt và tất cả chúng ta mất hết công phu, bỏ tu luôn. Tôi nói những tùy phiền não thôi, không phải những phiền não chính như tham, sân, si mà còn nguy cơ tiềm ẩn như vậy. Nếu tất cả chúng ta không có cách trị nó, chúng sẽ tăng trưởng. Một hôm nào đó cái buồn sẽ buồn hơn, cái hờn sẽ hờn hơn v.v… Từ đó tất cả chúng ta không còn năng lượng tăng tiến trên đường đạo. Tâm cứ u mê, mờ mờ mịt mịt, buồn thì không buồn hẳn nhưng nghe phiền phiền trong lòng, dã dượi lười biếng lắm. Nếu tất cả chúng ta không quyết tâm, tùy phiền não khởi lên rất nhiều trong một ngày. Nó ở đâu mình cũng không biết nữa, nhưng cứ hiện ra một cách u u ám và đen tối ám vậy. Loại này nếu không dứt khoát rất khó trị. Cho nên người không sáng suốt, không quyết tâm so với Phật đạo khó thực thi đến nơi đến chốn. Phải mãnh liệt lên, mình mới vui tươi, tăng tiến được. Trong hoạt động và sinh hoạt hằng ngày, nếu người tu thiếu sự trấn áp, thiếu tích cực, tất cả chúng ta dễ lạc vào lối dở dở ương ương, không đi tới đâu hết. Thành ra người tu phải tích cực. Vì đây là tự nguyện, tự phát tâm, không ai bắt buộc, việc của mình thì mình phải làm, không đợi ai. Dù tất cả chúng ta có trông chờ, sau cuối mình cũng làm thôi, chứ người ngoài không hề làm thay được. Như giờ đây tất cả chúng ta có Thầy, giả dụ Hòa thượng là người đạt đạo, dạy tất cả chúng ta tu nhưng mình không cố thực hành thực tế theo lời Ngài dạy, cứ để ngoại cảnh len vô phá vỡ sự thanh tịnh của tâm, thì dù Hòa thượng có thương xót, muốn độ bao nhiêu cũng không độ được. Thầy thành đạo mà đệ tử không tu cũng khó thành đạo. Vì đó là việc của mình, Thầy thương là chỉ dạy cặn kẽ giải pháp tu “ con phải làm như vậy, phải vượt qua như vậy … ” Nhưng tất cả chúng ta vượt qua, chứ không phải Thầy ban cho. Vì vậy quyết tâm hay kiên tâm là để trị bệnh ỷ lại, trông cậy, đợi chờ. Sự vật chung quanh tất cả chúng ta luôn thay đổi mau chóng, tất cả chúng ta liệu xem hoàn toàn có thể đợi chờ được hay không ? Hiểu như vậy, toàn bộ tất cả chúng ta phải gắng gổ, khắc phục hành trì. Mỗi người tất cả chúng ta là những hành giả phải về đến nhà, hưởng được lợi lạc trong Phật pháp. Người học đạo phải là người biết rõ, vừa có ý chí vừa biết rõ. Biết rõ cái gì ? Biết rõ tâm đạo của mình, biết rõ Phật đạo mình học, biết rõ chỗ đến của sự hành trì. Biết rõ để làm gì ? Để tất cả chúng ta là gia chủ ông quyết định hành động cho sự tăng tiến của mình. Học đạo thì tiến cũng mình mà thoái cũng mình. Cho nên người tu Phật phải có tri thức, phải kiên tâm, biết một cách chắc thật mọi việc như vậy. Ở đây tất cả chúng ta phải hiểu pháp tu, phải hiểu tất cả chúng ta. Hiểu được như vậy, nhận rõ như vậy mới kỳ vọng Kiến Tánh. Nói đến từ “ kiến tánh ”, có khi quý vị nghĩ “ chắc điều này chỉ để cho mấy ông tổ, còn mình không kiến tánh nổi ”. Không phải thế. Chúng ta tu phải là người vững tin nơi mình có sẵn tánh giác. Đã có sẵn thì việc nhận lại đâu phải quá tầm tay của mình. Người kiến tánh là người thấy được cái thật của mình. Thế thôi. Chúng ta thấy được năng lực tu hành hoàn toàn có thể thành Phật của mình. Hoặc trái lại, mình biết bệnh một cách rõ ràng để trị liệu cho mạnh khoẻ trở lại. Chữ Tánh là gì ? Tánh là không đổi khác, là chắc thật. Mình thấy được lẽ thật của những pháp, lẽ thật của chính mình, gọi là kiến tánh. Người kiến tánh là người tu hành bảo vệ, chắc như đinh không lui sụt nữa. Như vậy có gì đáng sợ lắm đâu, tại sao tất cả chúng ta không dám nhận năng lực có sẵn của mình ?
Có
thể nói, chúng ta tu thì phải kiến tánh. Ở trên tôi nói chúng ta phải hiểu biết, phải thấy rõ. Bây giờ đã hiểu biết, đã thấy rõ thì phải kiến tánh, phải thấy được lẽ thật. Phật dạy: Chúng ta có khả năng làm Phật. Chúng ta có khả năng giác ngộ.
Tất cả chúng sanh, không riêng ai hết đều có khả năng đó. Mình nắm chắc
như thế, từ đó mà khởi xướng công phu. Chúng ta đến với đạo bằng cái thấy, cái biết của mình, hành đạo cũng từ cái thấy, cái biết ấy tức là cái kiến tánh của mình. Như thế công phu tu tập cũng từ kiến tánh mà sáng đạo. Cái đó mình có thể làm được, thực hiện được, đạt được ngay trong đời này.
Tu thiền không đăït nặng yếu tố tu chứng. Sở dĩ không nói là vì sợ tất cả chúng ta lầm chấp, chưa được mà nghĩ đã được. Ở đây với người tu thiền nêu lên niềm tin kiến tánh để tất cả chúng ta can đảm và mạnh mẽ, sẵn sàng chuẩn bị công phu tu hành, làm thế nào sáng được việc của mình. Sáng được việc của mình gọi là người sáng đạo. Người sáng đạo là người thấy được chất Phật, thấy được năng lực làm Phật của mình. Nếu quí vị đi chùa học Phật mà phát nguyện “ Con đời đời làm chúng sanh ” thì thôi, tu chi cho mệt ! Tu mà nguyên xi như thế thì có lợi lạc gì đâu ? Chúng ta biết chất Phật lâu nay mình có sẵn, nhưng chưa có thời cơ để nhận và sống được. Bây giờ mình có thầy có bạn, có Phật pháp chỉ đường, tất cả chúng ta phải gột rửa toàn bộ những gì bu bám xung quanh tánh Phật đó từ lâu nay, để hằng sống được với tánh giác. Đó là việc mình hoàn toàn có thể triển khai được. Trong công phu hằng ngày, có khi thầy tất cả chúng ta dạy một giải pháp rất thông thường, nhưng nếu khéo hành trì, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể sáng được việc của mình. Ví dụ hôm trước nhớ tới việc gì quí vị lao theo, tức là bị duyên dẫn đi. Bây giờ việc đó hiện ra, quý vị nhớ tới nhưng bỏ ngay, không lao theo. Đó là nhờ có học Phật, có hiểu Phật pháp, có hành trì, có ngồi thiền, mình biết những thứ đó là vọng tưởng không thật. Do vậy dù nó có hiện ba đầu sáu tay, mình cũng bái bái, không chạy theo nó, không để cho nó kéo mình đi. Vì thế mình dửng dưng thông thường so với tổng thể. Công phu ấy nếu được hành trì liên tục, quý vị sẽ được định tuệ, sẽ là người sáng được việc của mình. Từ đó Phật đạo hiện thành. Người tu Phật, hành trì theo lời Phật dạy thâm niên, dù không nói sáng đạo hoặc sống đạo, mà tự nhiên bên trong có được Phật chất bình an, nó sẽ bộc lộ ra ngoài. Sự bộc lộ đó cho thấy người ấy rất an nhàn, rất bình thản bởi những sự duyên chung quanh. Trong đời sống tất cả chúng ta dễ bị động bởi việc này việc kia, cho nên vì thế việc tu tập thiền định rất thiết yếu. Người dễ bị động là người trong tâm chưa vững hoặc chưa sáng, nên cần phải hành trì Phật pháp nhiều hơn nữa. Nếu kiểm nghiệm thấy mình chưa dữ thế chủ động được những việc, bên trong chưa sáng chưa vững, thì phải sắp xếp tu tập như thế nào cho vững sáng. Tu tập ở đây không có cách nào bảo đảm an toàn hơn làm thế nào thấy rõ, biết rõ, dữ thế chủ động, đừng để mắc míu bởi bất kể thứ gì. Bị kéo lôi bị mắc míu bởi một cái gì thì sẽ mất mình. Cố gắng làm thế nào làm chủ được, giữ được sự tỉnh sáng của mình là điều thiết yếu của một hành giả tu thiền. Chúng ta mỗi người đều có một thói quen sâu dày riêng, nhà Phật gọi là nghiệp. Muốn trị được những thói quen ấy, phải dùng công phu. Muốn trị được thói quen, trước nhất tất cả chúng ta phải là người bình tĩnh. Có bình tĩnh mới sáng suốt mà trị được tập nghiệp của mình. Hòa thượng thường dạy phải tỉnh, phải giác. Làm sao khi nào mình cũng tỉnh cũng giác, nghĩa là an nhiên, thông thường khi tiếp cận tổng thể vấn đề. Có tỉnh giác, có sáng suốt thì so với thói quen mình hoàn toàn có thể trị được, hoàn toàn có thể làm chủ được, không bị nó dẫn đi. Thói quen là nghiệp. Như người có thói quen hút thuốc, khi hành công phu, họ tự dặn mình phải bớt hút thuốc hoặc bỏ hẳn. Trong điều kiện kèm theo thuận tiện, không tiếp duyên với thuốc, họ dễ bỏ. Nhưng khi gặp duyên, gặp bạn ghiền thuốc, tự nhiên thói quen cũ hiện ra. Cũng như là người thích nhạc, đi ngang quán nhạc tự nhiên muốn đứng lại nghe hát. Cho nên muốn trị được những tập khí cũ, tất cả chúng ta cố gắng nỗ lực làm chủ được mình. Trong công phu tất cả chúng ta phải cố gắng nỗ lực, phải phấn đấu mới làm chủ được. Người biết tu như vậy, công phu liên tục trong mọi thực trạng sẽ sáng được việc của mình không khó. Nếu có công phu, tất cả chúng ta sẽ nhận ra được chất Phật của mình, trí tuệ sẽ hiện tiền. Từ đó mọi tập khí không làm gì được tất cả chúng ta. Thật ra tập khí sâu dày lắm, tuy mình có công phu, nhưng trị được những hơi hướm đó yên cầu phải quyết tâm. Để cho tập khí có thời cơ dấy khởi hoặc tăng trưởng thì công phu hành trì của tất cả chúng ta sẽ găïp trở ngại. Nhiều vị hành trì công phu nhiều năm mà thành quả không được bao nhiêu, chính bới họ không làm chủ được những tập khí. Mỗi người có mỗi khuynh hướng nghiệp tập khác nhau, không ai giống ai cả. Ta tự biết mình có nghiệp tập gì thì nhắm thẳng cái đó mà tu. Một khi gột rửa được tập khí rồi, tất cả chúng ta sẽ nhẹ nhàng, an nhàn, giải thoát. Bấy giờ không nói thành đạo, sáng đạo nhưng tất cả chúng ta đạt được tổng thể những điều đó. Người xưa có những phương pháp hành trì thực tiễn, những ngài đã chỉ dạy lại cho tất cả chúng ta. Điển hình như những thiền sư thời Trần, những ngài dạy tất cả chúng ta phải nhìn lại mình, không chạy theo bên ngoài. “ Phản quan tự kỷ bản phận sự, bất tùng tha đắc. ” Nhìn lại mình, soát xét lại mình, không bị những thứ bên ngoài kéo lôi, việc này ai cũng hoàn toàn có thể làm được. Chỉ là mình không quả cảm, không làm liên tục nên không thành tựu. Nếu tất cả chúng ta gan góc cố gắng nỗ lực hành trì liên tục như vậy, nhất định sẽ đạt được thành quả xứng danh. Chúng tôi mong mỏi dù trong thực trạng nào, những Phật tử cũng hoàn toàn có thể nắm vững yếu lý Phật dạy và vận dụng được. Lâu nay tất cả chúng ta bỏ quên, nên việc tu mất nhiều thời hạn, chưa nếm được lợi lạc. Bây giờ tất cả chúng ta thấy rõ giải pháp tu, nhất định sẽ đến được chỗ sáng suốt, sống được với giác tánh của mình, không bị những tập khí làm trở ngại. Đời sống thanh thản, giải thoát là đời sống của người con Phật. Thiền Phật giáo Nước Ta, qua kinh nghiệm tay nghề của những vị tổ sư, những Ngài đã chỉ dạy lẽ thật đó. Mong toàn bộ quí Phật tử lưu tâm và cố gắng nỗ lực vận dụng những gì Phật Tổ đã chỉ dạy. Chúng ta đủ duyên hiểu và hành đến nơi đến chốn thì sẽ hưởng được những giá trị an nhàn thiết thực nhất trong Phật pháp. _____________________________
HỎI:
–
Kính bạch Thầy! Con là một thiền sinh, có thắc mắc thế này: Chúng ta có
cái biết thường hằng, bất sinh bất biến, nhưng khi chúng ta bị một tai nạn làm bất tỉnh, chẳng hạn như chúng ta bị chụp thuốc mê để giải phẫu, thì chẳng hiểu cái biết thường hằng đó nó đi đâuễin Thầy hoan hỷ giải thích cho. Cám ơn Thầy.
ĐÁP:
Đây là câu hỏi trúng ngay cái ưu tư của tôi. Quý vị biết, sở dĩ sức khỏe thể chất tôi yếu là vừa qua tôi cũng mới qua lần giải phẫu, bị chụp thuốc mê. Quãng thời hạn chụp thuốc mê, tôi trọn vẹn không có cảm nhận gì hết, không biết gì hết. Khi nằm trong phòng giải phẫu, bác sĩ vừa vỗ tôi một cái, ông lấy cái gì chụp lên mũi tôi, lúc đó tôi quên bẵng đi cho tới hồi nghe có người cũng vỗ mình, biểu phải mở con mắt ra, rồi kêu uống nước, chừng đó tôi mới sực tỉnh. Thời gian từ khi chụp thuốc mê cho tới hồi kêu dậy, tối thiểu cũng phải hai tiếng đồng hồ đeo tay hoặc nhiều hơn nữa. Tôi nhớ lại trong kinh Phật cũng nói Bồ-tát cách ấm còn phải lo. Cách ấm tức là khi mình bỏ thân này cho tới lúc nhận được thân sau, trong quãng đó tất cả chúng ta quên hết chuyện đời trước. Ở đây nói riêng với người tu thiền thì thế này, chủ trương của người tu thiền là trí tuệ, tỉnh táo, sáng suốt. Cho nên chủng Phật phải được phát huy để trí tuệ luôn phát sáng. Ngay khi tất cả chúng ta còn mạnh khoẻ, nếu không nỗ lực nhận cho được trí tuệ chân thực không sanh không diệt của mình thì khi những căn đóng lại, ta sẽ không còn thời cơ nhận kịp nữa. Do vậy, trong trường hợp bị chụp thuốc mê là những căn trong thời điểm tạm thời đóng lại, nên tánh biết không có chỗ hiển lộ ra ngoài. Song không có nghĩa là nó không có. Chỉ vì tất cả chúng ta chưa nhận và sống được với nó nên thân căn khép lại, ta có cảm xúc mình không biết gì nữa. Đối với người đạt đạo, nếu lìa rời thân tứ đại, tánh giác hòa cùng hư không trùm khắp. Chỗ này phải thân chứng, không hề dùng suy luận mà biết được. Nó không mất, chỉ không đủ duyên thì không hiển lộ ra thôi. Điều này hoàn toàn có thể dẫn chứng được, vì khi thuốc mê hết, có người lay dậy tất cả chúng ta liền biết. Nếu tánh biết không sẵn có, làm thế nào mình biết được ? Nó là cái chủ yếu, cái sẵn có của mình, luôn hiển lộ qua sáu căn. Nếu sáu căn trong thời điểm tạm thời dừng hoạt động giải trí hay dừng hẳn thì tánh biết ấy sẽ trở về thể không lặng của nó, khi nào đủ duyên nó sẽ phát ra. Chúng tôi chỉ hoàn toàn có thể tạm lý giải như vậy, nhưng thật ra điều này tất cả chúng ta phải thân chứng mới biết một cách đích thực, không hề tâm lý mà hiểu được. Suy nghĩ tức không đúng.
Thích
Nhật Quang
Xem thêm: Báo hiếu cha mẹ theo lời Phật dạy
(Thiền viện Thường Chiếu)
Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp