2.1- THỰC TRẠNG CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT HIỆN NAY- – Tài liệu text

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản khá đầy đủ của tài liệu tại đây ( 839.04 KB, 102 trang )

60

nguồn gốc con Lạc cháu Hồng, đều có ông bà, tổ tiên, cha mẹ, đều phải đoàn

kết, cùng nhau đánh đuổi quân xâm lược đem lại hoà bình tự do cho dân

tộc.

Ngay sau khi Việt Nam giành được độc lập, thì Chủ tịch Hồ Chí

Minh, trong nhiều việc phải quan tâm, Người đã chú trong ngay đến việc

khẳng định tính pháp lý của quyền tự do tín ngưỡng. Tại phiên họp đầu tiên

của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 3/ 9 /1945, Hồ Chí

Minh đã tuyên bố: “Thực dân Phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng

bào giáo và đồng bào lương để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên

bố: tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết” [30,70].

Năm 1946, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thông qua

Hiến pháp đầu tiên, trong đó khẳng định: “Công dân Việt Nam có quyền tự

do tín ngưỡng” [22,10].

Năm 1959, Hiến pháp thứ hai của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà

ban hành, thì quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân tiếp tục được khẳng định:

“Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền tự do tín ngưỡng theo

hoặc không theo một tôn giáo nào” [22,39].

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền tự do tín ngưỡng, tôn

giáo là một nhân tố góp phần bảo đảm cho sự phát triển xã hội và cho thành

công của cách mạng nước ta, đồng thời cũng bảo đảm cho tín ngưỡng tôn

giáo được phát triển theo đúng đạo pháp của mình. Bởi hơn ai hết, Hồ Chí

Minh thấu hiểu được nỗi khổ đau của người dân mất nước, mất tự do, sống

trong nghèo nàn tăm tối. Người hiểu rằng, mỗi tôn giáo, tín ngưỡng đều có

những nhân tố hợp lý của nó. Và điểm chung mà các tôn giáo, tín ngưỡng

đều hướng tới, đó là tính thiện, điều thiện.

Quán triệt tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt

Nam tiếp tục vận dụng sáng tạo nó vào trong công cuộc đổi mới đất nước.

Điều đó đã được thể hiện trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của

61

Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII, VIII và IX. Nó được long trọng ghi tại

điều 70 Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1992:

Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc

không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp

luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật

bảo hộ, không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi

dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách hiện

hành của Nhà nước [22,159].

Và gần đây nhất, chúng ta vừa đón nhận Nghị quyết Hội nghị Trung

ương Bẩy (khoá IX) về công tác tôn giáo đã xem việc giữ gìn và phát huy

những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn

những người có công với Tổ quốc, dân tộc và nhân dân là một bộ phận quan

trọng trong hệ quan điểm chỉ đạo của Đảng trên lĩnh vực công tác tôn giáo, tín

ngưỡng.

Vì vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của

Đảng cộng sản Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo là cơ sở lý luận khoa học để

đánh giá một cách đúng đắn thực trạng quan niệm về nhân sinh trong tín

ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay.

Để góp phần phát huy những mặt tích cực và hạn chế những ảnh hưởng

tiêu cực của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tác giả luận văn đánh giá thực trạng

của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay (Từ năm 1986 đến

nay).

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay vừa chịu sự tác

động của những điều kiện lịch sử, vừa chịu sự tác động của những điều kiện

kinh tế-chính trị- xã hội hiện tại.

Được hình thành từ nền kinh tế nông nghiệp trong xã hội phụ quyền

xa xưa, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt đã tồn tại, biến đổi và phát

triển cùng với những thăng trầm của lịch sử dân tộc. Từ sau năm 1975 miền

62

Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đời sống

kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của người Việt có nhiều thay đổi sâu sắc.

Đặc biệt từ sau 1986- Đảng cộng sản Việt Nam tiến hành sự nghiệp đổi mới

toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, đã có những ảnh hưởng to lớn đến đời sống

văn hoá, tinh thần, đạo đức, lối sống của mọi tầng lớp nhân dân.

Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh có những thời cơ thuận lợi mới, nhưng cũng

có nhiều khó khăn, thách thức mới. Chúng ta đang phấn đấu phát huy nội lực,

tranh thủ mọi nguồn lực từ bên ngoài, chú trọng phát triển nền kinh tế nhiều

thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở xây dựng và phát triển nền

văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong xã hội đời sống vật chất và

tinh thần của các tầng lớp nhân dân ngày càng được cải thiện, tinh thần dân

chủ tăng lên. Với quan điểm đổi mới toàn diện, đồng bộ, với những giải pháp

đúng đắn phù hợp, đã giúp Việt Nam có những bước chuyển mình kỳ diệu. Vị

thế của Việt Nam ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế. Sự nghiệp

kinh tế, văn hoá, giáo dục đạt được nhiều thành tựu to lớn, trình độ dân trí

được nâng cao. Nhiều phong trào quần chúng như “uống nước nhớ nguồn”,

“đền ơn đáp nghĩa”, “xoá đói giảm nghèo”, “xây dựng gia đình văn hoá, làng

văn hoá, khu dân cư văn hoá …” được toàn dân hưởng ứng và tham gia tích

cực.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt được,

trong xã hội cũng phát sinh những mặt yếu kém. Mặt trái của cơ chế thị

trường như qui luật cạnh tranh, sự đề cao sức mạnh của đồng tiền, tình trạng

phân hoá giàu- nghèo, tệ tham nhũng, cửa quyền, quan liêu, vi phạm dân chủ,

lối sống thực dụng chạy theo lợi ích vật chất xem nhẹ những giá trị văn hoá

truyền thống đã tác động xấu đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.

Tình hình thế giới cũng có nhiều biến đổi to lớn, sâu sắc. Đó là sự

khủng hoảng và tan rã của các nước xã hội chủ nghĩa Liên xô và Đông Âu, sự

63

phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự

bùng nổ của các cuộc xung đột, chiến tranh sắc tộc, tôn giáo; sự tác động

của xu hướng toàn cầu hoá về kinh tế, văn hoá, những vấn đề môi trường; sự

trỗi dậy của các tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống, sự hình thành và phát triển

của các “tôn giáo ” mới…

Tất cả những điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hoá, xã hội trên đây là

những yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của

người Việt hiện nay.

Phải khẳng định rằng trong sự nghiệp đổi mới toàn diện, Đảng và Nhà

nước ta rất quan tâm đến đời sống vật chất cũng như đời sống văn hoá, tinh

thần của các tầng lớp nhân dân, đáp ứng phần nào nhu cầu tâm linh của nhân

dân. Các hình thức sinh hoạt văn hoá truyền thống, sinh hoạt tín ngưỡng dân

gian, đặc biệt truyền thống thờ cúng tổ tiên được khôi phục và phát triển,

nhằm khai thác kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá đã được chung đúc

hàng nghìn năm qua thiết chế gia đình – dòng họ – làng và nước.

Trong từng gia đình, dòng họ, việc thờ cúng tổ tiên biểu hiện lòng biết

ơn những người có công sinh thành. dưỡng dục con cháu, xây dựng sự nghiệp

của gia đình, dòng họ. Ở các địa phương, làng xã trong cả nước, việc tổ chức

các lễ hội làng, lễ hội chùa … vừa phản ánh nhu cầu tín ngưỡng truyền thống,

vừa phản ánh nhu cầu sinh hoạt văn hoá cộng đồng, đề cao tôn thờ những

người có công với làng, nước.

Có thể thấy thờ cúng tổ tiên là hoạt động tín ngưỡng phổ biến trong

gia đình người Việt hiện nay. Điều đó được khẳng định qua số liệu điều tra

của Viện nghiên cứu Tôn giáo: có 80% số người được hỏi (không phải là

người theo Đạo Cơ Đốc) trả lời thường xuyên thờ cúng tổ tiên; 17,4 % trả lời

không thường xuyên thờ cúng tổ tiên và 0, 6 % trả lời là không thờ cúng tổ

tiên [60, 316].

64

Tác giả Phạm Quỳnh Phương trong chuyên luận “Tín ngưỡng và văn

hoá dân gian” đã đưa ra số liệu phản ánh phần nào thực trạng hoạt động thờ

cúng tổ tiên ở hai địa phương Hà Nội và Hà Tây như sau:

100% gia đình có bàn thờ tổ tiên; 96,75% bàn thờ được đặt ở vị trí tôn

nghiêm nhất trong nhà; 95,8% các cặp vợ chồng đều nhớ ngày

giỗ của người thân; gần 100% gia đình ở nông thôn chăm lo mồ mả tổ

tiên Riêng ở làng Triều Khúc, huyện Thanh Trì, Hà Nội có trên 60%

gia đình thờ tổ tiên bốn đời;33% gia đình thờ năm đời; cá biệt có một

số gia đình thờ 6 đời. Có 47% gia đình ngày nào cũng thắp hương trên

bàn thờ gia tiên; 53% gia đình chỉ thắp hương vào ngày giỗ, tết, ngày

mùng một và rằm hàng tháng; 96% số người được hỏi cho rằng việc

tôn tạo mồ mả tổ tiên, xây sửa nhà thờ họ là cần thiết. Khi được hỏi về

ý nghĩa của việc thờ phụng tổ tiên, đa số đều cho rằng, đó là để tưởng

nhớ công ơn của tổ tiên, để giáo dục truyền thống gia đình cho con

cháu [49,50-51].

Trong các gia đình người Việt hiện nay, đặc biệt là lớp trẻ thường

không tin có sự tồn tại của linh hồn tổ tiên, khả năng cứu giúp của tổ tiên,

song họ nhận thức được ý nghĩa tốt đẹp của việc thờ cúng tổ tiên, coi đó là

một tập tục, một truyền thống văn hoá của gia đình, của dân tộc, vì vậy vẫn

tham gia thờ cúng ở các mức độ và các hình thức khác nhau. Việc thờ cúng

ông bà tổ tiên, chăm lo bàn thờ gia tiên, bàn thờ họ, phần mộ của tổ tiên, họ

tộc vẫn là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống của người Việt.

Với người Việt hiện nay, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở các cấp độ

được biểu hiện như một hoạt động văn hoá mang tính xã hội và giáo dục. Nó

được thể hiện là xu hướng chủ đạo trong sự vận động của tín ngưỡng thờ

cúng tổ tiên của người Việt hiện nay. Qua thờ cúng tổ tiên, con người có điều

kiện để bình tâm, thư thái, thăm hỏi, động viên nhau, chăm lo cho gia đình,

dòng họ, làng xã và cao hơn là dân tộc. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, như cố

65

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Là một đặc trưng đáng trọng của người

Việt Nam, ở chỗ nó là sự tưởng nhớ những người có công trong việc tạo lập

cuộc sống hiện nay trong mỗi gia đình, làng xóm” [18, 75].

Người Việt Nam xưa nay thờ cúng tổ tiên không cốt ở lễ vật nhiều hay

ít mà cốt ở lòng thành, lòng hiếu thảo, biết ơn, thành kính. Vì vậy nó đáp

ứng được phần nào nhu cầu tâm lý, tinh thần, tâm linh của các cá nhân và

cộng đồng người Việt.

Giá trị văn hoá trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được thể hiện ở ý

thức coi trọng đạo đức gia đình, coi trọng quan hệ tình cảm giữa con người

với con người, điều chỉnh hành vi ứng xử gữa các thành viên trong gia đình,

họ tộc. Từ chỗ coi trọng tình cảm huyết thống “chung một giọt máu đào”

người Việt nâng lên thành tình cảm cao hơn, tình cảm cộng đồng dân tộc,

cùng chung một mẹ Âu Cơ, một tổ Hùng Vương, nhân lên tình yêu thương

đồng loại, tình yêu quê hương đất nước.

Kính hiếu cha mẹ, chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ và phấn đấu học

tập, rèn luyện để làm rạng rỡ truyền thống của gia đình, họ tộc, quê hương

vẫn là lẽ sống của người Việt, của thế hệ trẻ. Nhưng với thế hệ trẻ hiện nay,

lòng hiếu thảo đó không chỉ thể hiện ở sự “tu thân” để thành người con ngoan

trong gia đình, mà còn để trở thành một công dân tốt, có ích; phải tự học tập,

rèn luyện để nắm bắt những tri thức hiện đại nhất, thông minh năng động,

dám nghĩ, dám làm, dám phá bỏ định kiến, vượt lên những hạn chế truyền

thống, kết hợp những tinh hoa của thời đại và của dân tộc, chuẩn bị tốt hành

trang bước vào thế kỷ XXI, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá, xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, công

bằng, dân chủ, văn minh.

Trong nội dung giáo dục con cái ở gia đình người Việt hiện nay vẫn

được các bậc cha mẹ coi trọng là giáo dục đạo làm người: giáo dục lòng dũng

cảm, sự trung thực, lòng hiếu thảo với ông bà, cha mẹ. Bên cạnh yêu cầu của

66

việc giáo dục đạo đức của người con đối với gia đình dòng họ, các bậc cha mẹ

cũng hết sức chú ý giáo dục con cái trách nhiệm, nghĩa vụ của một người

công dân đối với đất nước, như lòng trung thành đối với tổ quốc, ý thức trách

nhiệm đối với tập thể, cơ quan, làng xóm, phố phường. Và họ nhận thức được

rằng gia đình đã và sẽ cùng với nhà trường góp phần giáo dục lý tưởng sống

cho con, em, thanh niên, sinh viên Việt Nam hôm nay. Đó là lý tưởng độc lập

dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đạo đức cao nhất của người dân Việt,

của thế hệ trẻ là sống, học tập, rèn luyện, làm việc vì sự nghiệp “dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Các bậc cha mẹ trong cuộc sống bộn bề lo toan, vất vả, cũng cố gắng

hết sức mình, là những tấm gương sống để giáo dục, răn dạy con cái, trong

cách ứng xử, giao tiếp, trong lối sống văn hoá, lành mạnh. Vì vậy truyền

thống cha mẹ từ, con hiếu, truyền thống trên kính dưới nhường, truyền thống

hiếu học, tôn sư trọng đạo vẫn được duy trì và phát triển trong gia đình, trong

dòng họ của người Việt hôm nay.

Trong sự nghiệp đổi mới, đặc biệt trong những năm gần đây, xu

hướng tìm về nguồn cội tổ tiên, dòng họ đã được dấy lên, đó là việc làm tốt

đẹp. Bởi con người ai cũng có tổ tiên, là con cháu của một họ tộc, đều có

trách nhiệm báo đền ơn nghĩa với ông bà, tổ tiên. Nhiều họ đã sửa sang, xây

dựng lại nhà thờ họ, khôi phục lại việc họ, tìm và viết lại gia phả, gia tộc, tổ

chức ngày giỗ tổ họ. Sự phục hưng, phát triển những giá trị văn hoá truyền

thống của dòng họ không chỉ tạo niềm tin, sự phấn khởi, niềm tự hào trong

mỗi thành viên trong họ tộc, mà còn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Tuy cuộc

sống mới đã có nhiều tác động và làm biến đổi đối với việc thờ cúng tổ tiên

trong dòng họ, nhưng dòng họ vẫn có một vai trò to lớn trong xã hội hiện

nay. Nhu cầu tình cảm, huyết thống, tâm linh đã khiến mọi thành viên trong

dòng họ cố gắng sống tốt hơn để giữ gìn thanh danh của bản thân, của gia

đình, của dòng họ.

67

Phần nghi lễ thờ cúng tổ tiên trong các gia đình, dòng họ hiện nay đã

có phần giản đơn, song phần ý thức tâm linh vẫn được đề cao, con cháu

nghiêng nhiều về kính, về ơn. Qua đây có thể thấy, xuất phát từ những quan

niệm đúng đắn, từ mối liên hệ huyết thống sâu nặng trong gia đình cũng như

trong họ tộc, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã góp phần làm phong phú đời

sống tinh thần của người Việt. Đó cũng chính là việc bảo tồn và phát huy

những giá trị văn hoá truyền thống, chống lại làn sóng xâm lăng về văn hoá,

khi đất nước vận hành cơ chế thị trường, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hoá.

Việc củng cố và gia tăng các hoạt động thờ cúng tổ tiên của người

Việt hiện nay không chỉ dừng lại ở cấp độ gia đình, dòng họ, mà còn thể hiện

ở cấp độ làng xã, quốc gia. Khắp các địa phương mở hội làng, tưởng nhớ

công ơn của Thành hoàng làng, của các vị Tổ nghề, các danh nhân văn hoá,

các anh hùng dân tộc mà tên tuổi đã gắn liền với lịch sử địa phương mình.

Các trung tâm thờ tự tín ngưỡng được khôi phục, tu bổ, các hoạt động lễ hội

được tổ chức thường xuyên hơn, qui mô hơn, nội dung phong phú, đa dạng …

Lễ hội từ bao đời đã là một hoạt động văn hoá, tín ngưỡng tiêu biểu

của cộng đồng, gắn bó máu thịt với đời sống cư dân người Việt. Hiện nay, lễ

hội vẫn thực sự là một phần đời sống tinh thần, một hoạt động văn hoá lành

mạnh bổ ích đối với con người và cộng đồng trên đất Việt Nam. Được tắm

mình trong không khí linh thiêng, mát lành của hội làng, hội nước, con người

sẽ sống tốt đẹp hơn. Bởi bản thân lễ hội được vận động trong cái đẹp, cái

thiện, cái thiêng và cả cái thực.

Đến với lễ hội, người dân vừa muốn gửi gắm, bộc lộ những ý nguyện

thầm kín thiêng liêng hoặc thể hiện thái độ tình cảm ứng xử của con người

trần thế với các nhân vật thiêng mà họ thờ phụng, vừa là sự thể hiện tình

cảm, ứng xử giữa con người trần thế với nhau. Mọi người tham gia lễ hội còn

muốn được giải toả hoặc tự thể hiện mình trong các hoạt động tế lễ, vui chơi,

68

giao tiếp, góp phần làm cân bằng đời sống tinh thần, tâm linh của nhân dân

trong cả lúc bất hạnh, lo âu cũng như lúc mừng vui sung sướng.

Trong các lễ hội ở Việt Nam, thì lễ hội Đền Hùng là lễ hội tiêu biểu

nhất thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của người Việt. Lúc sinh thời,

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở thế hệ sau phải có niềm tự hào dân tộc,

phải có trách nhiệm với tổ tiên. Đến ngày giỗ Tổ, người Việt khắp mọi miền

đất nước, dù Nam hay Bắc, dù miền ngược hay miền xuôi, đều hướng về Đền

Hùng. Từ sau ngày giành được độc lập đến nay, Đảng và Nhà nước ta quan

tâm, bảo vệ, tôn tạo và xây dựng khu di tích Đền Hùng. Bác Hồ và các vị

lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước thường xuyên đến dâng hoa thắp

hương tưởng niệm các vua Hùng. Đặc biệt những năm gần đây, dòng người

hành hương về cội nguồn ngày càng đông. Bởi hướng về Đền Hùng là hướng

về hồn đất nước, là cuộc hành hương về cội nguồn dân tộc, với tâm tưởng

“uống nước nhớ nguồn” với lòng tôn kính và biết ơn công lao tổ tiên. Bên

cạnh đức tin, thì sự thiêng liêng cũng là một yếu tố cơ bản của tín ngưỡng.

Nhưng sự thiêng liêng ở Đền Hùng không làm người ta sợ hãi như khi đến

những nơi thờ cúng khác, mà đến với Đền Hùng như đến với bàn thờ tổ tiên

trong gia đình, với ý nghĩa lớn lao gắn nhà với nước: cha mẹ trong gia đình

và cha mẹ dân tộc. Vì vậy, đạo thờ cha- mẹ chính là bản sắc của tín ngưỡng

Việt Nam, cũng là bản sắc văn hoá Việt Nam. Qua tín ngưỡng thờ cúng tổ

tiên của người Việt ở các cấp độ khác nhau, mà đỉnh cao là thờ vua Hùng, đã

toát lên một triết lí sống của người Việt- đó là sự tôn vinh con người. Người

Việt đặt niềm tin và cầu mong những điều giản dị, không chỉ cho mình mà

cho cả cộng đồng dân tộc: Đất nước thanh bình, mưa thuận gió hoà, vạn sự

như ý, sức khoẻ dồi dào … Ước nguyện riêng tư của mỗi người cũng là ước

nguyện chung của cả cộng đồng. Đó chính là lòng biết ơn của người dân Việt

đối với các vua Hùng, là niềm tin vào sự trường tồn và sức mạnh của dân tộc.

Như đồng chí tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã khẳng định:

69

Giỗ tổ Hùng Vương đã trở thành tình cảm thiêng liêng trong tâm

khảm của nhân dân ta từ bao đời nay. Giỗ tổ cũng trở thành biểu

tượng của giá trịvăn hoá tinh thần vô cùng sâu sắc và độc đáo của dân

tộc Việt Nam, thể hiện niềm tự hào, sức mạnh vô địch của khối đại

đoàn kết toàn dân và truyền thống “uống nước nhớ nguồn” góp phần

làm lên sức mạnh dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước

[35,16].

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến

không chỉ nhu cầu vật chất, mà cả những nhu cầu văn hoá, tinh thần của các

tầng lớp nhân dân, chăm lo, bảo vệ, tôn tạo các khu di tích lịch sử, văn hoá,

các nghĩa trang liệt sĩ … Bởi đây chính là những tấm gương phản chiếu lịch

sử sâu lắng và tinh tế giúp cho thế hệ hôm nay suy ngẫm, tự hào, không quên

tiền nhân mà tên tuổi đã gắn liền với lịch sử hào hùng của dân tộc. Đảng và

Nhà nước ta đã có những chính sách đúng đắn, nhân đạo “đền ơn đáp nghĩa”

với những người có công với đất nước. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh

đã giành một tình cảm sâu nặng, một sự quan tâm đặc biệt đến thương binh,

bệnh binh, gia đình liệt sĩ – những người có công lao to lớn đối với Tổ quốc

và nhân dân. Bác căn dặn tất cả mọi người, phải luôn luôn ghi nhớ và biết ơn

các đồng chí thương binh, liệt sĩ, gia đình liệt sĩ, bởi Bác coi sự mất mát hi

sinh của họ là những mất mát hi sinh “tuyệt đối” và không lấy lại được.

Nhưng đó là những mất mát hi sinh vẻ vang, cao quí. Trong buổi lễ kỷ niệm

30 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã nghẹn ngào nói: Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách

mạng thêm đỏ chói. Sự hi sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất

nước ta nở hoa độc lập kết quả tự do.

Với ý nghĩa uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây, đời

đời nhớ ơn các anh hùng liệt sĩ đã hi sinh cho độc lập tự do của dân tộc,

Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định lấy ngày 27/7 hàng

70

năm làm ngày kỷ niệm lịch sử- biểu thị cao độ tình cảm biết ơn của toàn

Đảng, toàn dân với những hi sinh to lớn của những người con vì độc lập dân

tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.

Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở Đảng và Chính

phủ, phải chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần cho thương binh, bệnh

binh, liệt sĩ và gia đình họ. Trong Di chúc, Người căn dặn:

Đối với những người đã dũng cảm hi sinh một phần xương máu của

mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong …)

Đảng, Chính phủ và đồng bào tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn

ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi

người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.

Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng

vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hi sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời

đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.

Đối với cha mẹ, vợ con (của thương bình và liệt sĩ) mà thiếu sức lao

động và túng thiếu thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ có công

ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ phải đói rét [32, 503-504].

Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta

trong suốt quá trình cách mạng, đặc biệt sau hơn 15 năm đổi mới đã và đang

làm hết sức mình vì sự nghiệp “Hiếu nghĩa bác ái” đối với những người có

công với đất nước. Hiện nay, việc chăm sóc, giúp đỡ thương binh, gia đình

liệt sĩ, những người có công với Tổ quốc, nhân dân đã trở thành “thuần

phong mỹ tục”, thành phong trào hành động cách mạng của các tầng lớp

nhân dân, thành đạo lý của dân tộc. Tiêu biểu như phong trào Trần Quốc

Toản (các cháu thiếu niên giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ), phong trào

nhận đón thương binh, bệnh binh về gia đình, phong trào “người con hiếu

thảo chăm sóc bố mẹ liệt sĩ”, xây nhà tình nghĩa, quỹ đền ơn đáp nghĩa, sổ