Vấn đề thực trạng về tiền lương ở Việt Nam hiện nay

Hiện nay, Tiền lương là yếu tố rất quan trọng được nhiều người chăm sóc, nhất là người lao động. Bởi vì, tiền lương có vai trò to lớn, là nguồn thu nhập đa phần của người lao động, nó được xác lập trên thị trường lao động trải qua hình thức thỏa thuận hợp tác tiền lương giữa người lao động và người sử dụng lao động. Tuy cải cách chính sách tiền lương, liên tục biến hóa và kiểm soát và điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu theo hướng tăng dần, từng bước làm cho người lao động bảo vệ nhu yếu tối thiểu để tái sản xuất sức lao động, đời sống vật chất và ý thức của người lao động được cải tổ đáng kể .
Tuy nhiên, quy trình thực thi chính sách tiền lương tối thiểu đã và đang gặp phải những rào cản, bất hài hòa và hợp lý khi giá thành thị trường, lạm phát kinh tế, thất nghiệp ngày càng tăng ; mất cân đối giữa cung-cầu lao động trên thị trường lao động ; chưa ổn về mức lương tối thiểu ; quan hệ lương tối thiểu-trung bình-tối đa ; mạng lưới hệ thống thang, bảng lương ; chính sách nâng ngạch, nâng bậc ; chính sách quản trị tiền lương và thu nhập …
Vấn đề thực trạng về tiền lương

Những điểm tích cực trong cải cách

Thứ nhất, quan điểm, chủ trương về cải cách chính sách tiền lương của Đảng từ năm 2003 đến nay là đúng đắn, phù hợp với nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt quan điểm coi việc trả lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực để phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng dịch vụ công, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Đặc biệt, Luật Cán bộ, Công chức đã quy định công chức có 2 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ sẽ bị cho thôi việc. Thực hiện tốt việc xác định vị trí việc làm sẽ là cơ sở và căn cứ để tính toán được biên chế công chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng quản lý trong từng cơ quan, tổ chức, đơn vị. Người nào không đáp ứng được các yêu cầu của vị trí việc làm sẽ bị đưa ra khỏi công vụ. Chính phủ đã xác định lộ trình thực hiện việc xây dựng hệ thống vị trí việc làm trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị, phấn đấu đến năm 2015, 50% cơ quan hành chính nhà nước có cơ cấu cán bộ, công chức theo vị trí việc làm.

Xem thêm : Giao dịch viên cần có những kỹ năng và kiến thức gì ?

Thứ hai, tách dần tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh với khu vực hành chính nhà nước (HCNN) và khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công; chính sách tiền lương với chính sách bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công, trợ giúp xã hội. Đó là bước ngoặt rất quan trọng cải cách tiền lương trong điều kiện mới theo định hướng thị trường.

Thứ ba, chú ý gắn cải cách tiền lương cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) với cải cách hành chính và xây dựng nền công vụ, tinh giảm biên chế khu vực HCNN, phát triển khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công theo nhu cầu phát triển của xã hội. Một số ý kiến cho rằng cần tiếp tục cắt giảm 40% cán bộ công chức hiện nay để có nguồn bổ sung cho cải cách tiền lương, nếu không cải cách tiền lương khó thành công.

Thứ tư, tiếp tục đổi mới cơ chế tiền lương, mở rộng và làm rõ trách nhiệm, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập trong việc xếp lương, trả lương gắn với chất lượng và hiệu quả cung cấp dịch vụ công theo tinh thần xã hội hóa. Đây cũng là định hướng rất quan trọng trong cải cách và trong cơ chế tạo nguồn cải cách tiền lương CBCCVC.

Thứ năm, tiền lương danh nghĩa của CBCCVC có xu hướng tăng do nhiều lần điều chỉnh mức lương tối thiểu chung trên cơ sở bù trượt giá và tăng trưởng kinh tế, mở rộng quan hệ tiền lương tối thiểu – trung bình – tối đa, từng bước tiền tệ hóa các khoản ngoài lương nhằm khắc phục bình quân, bao cấp và ổn định đời sống của CBCCVC. Theo Bộ Nội vụ, từ năm 2003 đến nay, mức lương tối thiểu chung cho người lao động trong khu vực hành chính – sự nghiệp đã điều chỉnh 7 lần từ 210.000 đồng/tháng lên 830.000 đồng/tháng, với mức tăng gần 4 lần. Từ ngày 1/5/2012, mức lương tối thiểu đã được quyết định tăng lên mức 1.050.000 nghìn đồng/tháng. Việc điều chỉnh này được thực hiện trên cơ sở các mức đã dự kiến trong Đề án tiền lương giai đoạn 2003 – 2007 và 2008 – 2012, có điều chỉnh linh hoạt theo mức tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng và khả năng của NSNN.

Theo Vụ Tiền lương (Bộ Nội vụ), sẽ cố gắng đến năm 2018 điều chỉnh lương tối thiểu của công chức đảm bảo nhu cầu tối thiểu – khoảng 3 triệu đồng/tháng và phụ cấp công vụ khoảng 30%. Tuy nhiên, theo PGS., TS.Trần Văn Thiện, Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực – Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh, mặc dù đã qua 7 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu nhưng nếu tính tới chỉ số lạm phát và giá cả tiêu dùng thì lương tối thiểu thực tế chỉ tăng hơn 0,05 lần. Tính ra, trung bình mỗi năm lương tối thiểu thực tế chỉ tăng 0,64%.

Những tồn tại và bất cập

Thứ nhất, duy trì quá lâu một chính sách tiền lương thấp đối với CBCCVC. Các lần cải cách vừa qua luôn bị chi phối tuyệt đối bởi khả năng của ngân sách nhà nước, nên đã thực hiện một chính sách tiền lương quá thấp đối với CBCCVC và gắn chặt với tiền lương tối thiểu chung vốn rất thấp (chỉ đáp ứng 65% – 70% nhu cầu mức sống tối thiểu của người lao động).  Phần lớn là hưởng lương ở mức cán sự và chuyên viên, chiếm khoảng 73% (cán sự chiếm 32% và chuyên viên 41%), còn ở mức chuyên viên chính là 24% và chuyên viên cao cấp là 3%.

Thứ hai, quan hệ tiền lương tối thiểu – trung bình – tối đa cũng chưa hợp lý, nhất là hệ số trung bình quá thấp trong quan hệ tiền lương tối thiểu – trung bình – tối đa nên không cải thiện được đời sống và khuyến khích được CBCCVC có hệ số lương thấp; tiền lương trả cho CBCCVC được quy định bằng hệ số được tính trên cơ sở tiền lương tối thiểu chung; tiền lương chưa được trả đúng với vị trí làm việc, chức danh và hiệu quả công tác, chất lượng cung cấp dịch vụ công. Theo Bộ Nội vụ, giai đoạn 2016-2020 thực hiện mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu – trung bình – tối đa từ mức 1 – 2,34 – 10 hiện nay lên mức 1 – 3,2 – 15.

Thứ ba, trong khi tiền lương không đủ sống, thì thu nhập ngoài lương lại rất cao (phụ thuộc vào vị trí, chức danh công việc, lĩnh vực quản lý, vùng, miền…) và không có giới hạn, không minh bạch, cũng không kiểm soát được. Mức lương tối thiểu của công chức năm nay được nâng lên 1.050.000 đồng, song vẫn là mức quá thấp, không đủ cho chi phí trong cuộc sống vốn ngày càng đắt đỏ do lạm phát.

Thứ tư, tiền lương Nhà nước quy định trả cho CBCCVC mặc dù còn rất thấp, nhưng tổng quỹ lương và trợ cấp do NSNN bảo đảm lại chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng chi NSNN, cho nên buộc phải “gọt chân cho vừa giày”. Năm 2011, lương, phụ cấp ước chiếm 51% chi thường xuyên của NSNN, đạt gần 9,6% GDP. Trong khi năm 2010, con số này chỉ là 6,7% GDP. Ngoài ra, 21 ngành được hưởng ở 16 loại phụ cấp ưu đãi khác nhau đang có xu hướng mở rộng hơn, khiến NSNN dành cho lương tối thiểu ngày càng bị mỏng đi.

Thứ năm, việc thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp công (dịch vụ công) còn chậm và đạt kết quả thấp, nhất là trong y tế, giáo dục và đào tạo… gây khó khăn cho cải cách tiền lương và tạo nguồn để trả lương cao cho CBCCVC. Đối với các tỉnh, thành phố lớn đông dân cư như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh… dễ dàng kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước triển khai thực hiện, nhưng đối với cấp huyện, nhất là đối với huyện thuộc vùng núi cao, trung du, hải đảo, việc triển khai thực hiện xã hội hóa rất khó khăn.

Có thể nói rằng, cải cách chính sách tiền lương so với CBCCVC từ năm 2003 đến nay chưa thành công xuất sắc và vẫn không thoát ra được vòng luẩn quẩn : Đó là chính sách tiền lương thấp không đủ sống, nhưng thu nhập ngoài lương lại rất cao, mỗi lần tăng lương tối thiểu làm cho gánh nặng của NSNN càng tăng. Chính sách tiền lương dù đã “ cải cách ” vẫn chưa tạo ra động lực đủ mạnh cho người hưởng lương phát huy năng lực và góp sức. Tiền lương thấp không kích thích được CBCCVC gắn bó với Nhà nước, không lôi cuốn được nhân tài ; ngược lại, người thao tác giỏi, người có tài bỏ khu vực nhà nước ra thao tác cho khu vực ngoài nhà nước, nơi có tiền lương và thu nhập cao, có khuynh hướng tăng. Mặt khác, lương thấp cũng là nguyên do quan trọng của xấu đi, tham nhũng .
Xem thêm : Phong cách chỉ huy của Bill Gates
Ở khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhiều công ty đã trả mức lương trung bình từ hơn 2 triệu đồng một tháng thì mức này ở giải pháp tối thiểu của Bộ Lao động và thương bệnh binh xã hội chỉ là 1.5 triệu đồng, điều này cũng gây ra nhiều thiệt thòi cho những lao động tại những công ty quốc tế, khi mà phía quốc tế sẽ không gật đầu trả quá cao so với mức lương tối thiểu mà nhà nước pháp luật. Các doanh nghiệp đều cho rằng mức lương này là quá thấp, gây khó khăn vất vả cho doanh nghiệp khi muốn tuyển dụng lao động. Mức lương tối thiểu cũng khiến cho nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn vất vả khi người mua tính giá tiền cũng dựa vào nó. Hiện tại lương tối thiểu chung và lương tối thiểu vùng đang vận dụng chung cho cả doanh nghiệp lẫn cả khối hành chính sự nghiệp, cho nên vì thế nếu muốn tăng thì sẽ tác động ảnh hưởng tới ngân sách nhà nước, điều này khiến mức lương tối thiểu của doanh nghiệp cũng tăng rất chậm, không tương thích trong thực tiễn .