Studio Ghibli – Wikipedia tiếng Việt
Công ty cổ phần Studio Ghibli (株式会社スタジオジブリ (Chu thức hội xã Studio Ghibli), Kabushiki-gaisha Sutajio Jiburi?) (tiếng Anh: Studio Ghibli, Inc.) là một hãng phim hoạt hình Nhật Bản có trụ sở tại Koganei, Tokyo, Nhật Bản[1]. Hãng được biết đến nhiều nhất qua việc sản xuất ra các bộ phim anime, ngoài ra hãng cũng sản xuất một vài phim ngắn, các quảng cáo trên truyền hình và một phim hoạt hình nhiều tập chiếu trên truyền hình. Studio Ghibli được thành lập vào tháng 6 năm 1985, sau thành công của Kaze no Tani no Nausicaä (Nausicaä của Thung lũng gió) (1984), với sự tài trợ bởi Tokuma Shoten.
Tám trong số những bộ phim của Studio Ghibli đã lọt vào top 15 phim anime có doanh thu cao nhất mọi thời đại được thực hiện ở Nhật Bản, với Sen và Chihiro ở thế giới thần bí (2001) đứng thứ hai trong danh sách anime có doanh thu cao nhất toàn cầu, đạt doanh thu hơn 274 triệu USD trên toàn cầu. Nhiều tác phẩm của họ giành được giải thưởng Animage Anime Grand Prix, và bốn phim đã đoạt Giải thưởng Viện Hàn lâm Nhật Bản cho Phim hoạt hình của năm. Bốn phim của Studio Ghibli được nhận đề cử giải Oscar, trong đó Sen và Chihiro ở thế giới thần bí đã đoạt Giải Oscar cho phim hoạt hình hay nhất năm 2003, nó cũng nhận được giải Gấu Vàng – giải thưởng danh giá nhất của Liên hoan phim quốc tế Berlin – vào năm 2002.
Ngày 3 tháng 8 năm năm trước, Studio Ghibli thông tin sẽ tạm ngưng sản xuất sau việc nghỉ hưu của giám đốc Miyazaki Hayao, đồng sáng lập với Takahata Isao. [ 2 ] [ 3 ] Vào tháng 2 năm 2017, Toshio Suzuki thông tin rằng Miyazaki đã tạm ngừng nghỉ hưu và quay trở lại để đạo diễn bộ phim mới How Do You Live ?, với Studio Ghibli. How Do You Live ? mượn tựa đề từ một quyển sách cùng tên năm 1937, nhưng nội dung chính của phim sẽ chỉ lấy một phần trong quyển sách xoay quanh một câu truyện phiêu lưu giả tưởng .
Mục lục
Tên gọi và hình tượng[sửa|sửa mã nguồn]
Tên gọi Ghibli được đặt bởi giám đốc Miyazaki Hayao dựa trên tên gọi của chiếc phi cơ Caproni Ca.309 Ghibli, một loại máy bay trinh sát của Italia sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai.[4] Trong tiếng Ý, danh từ “ghibli” dựa trên tên bằng tiếng Ả Rập cho sirocco, hay gió Địa Trung Hải – chỉ những cơn gió nóng thổi qua sa mạc Sahara, ý tưởng gợi ý cho định hướng của studio là sẽ “thổi một luồng gió mới vào ngành công nghiệp anime của Nhật Bản”.[4][5] Mặc dù từ gốc trong tiếng Ý được phát âm với âm ɡ rất nặng, tên của công ty trong tiếng Nhật được phát âm với một âm ji [dʑíbu͍ɾi] (nghe).
Bạn đang đọc: Studio Ghibli – Wikipedia tiếng Việt
Biểu tượng của công ty là nhân vật Totoro trong bộ phim hoạt hình của Miyazaki Tonari no Totoro (Hàng xóm của tôi là Totoro).
Lịch sử tăng trưởng[sửa|sửa mã nguồn]
Hãng phim được thành lập ngày 15/06/1985 bởi hai đạo diễn phim hoạt hình nổi tiếng Miyazaki Hayao và Takahata Isao. Trước khi hình thành hãng phim thì Miyazaki và Takahata đã có sự nghiệp lâu dài với phim hoạt hình truyền hình và điện ảnh Nhật Bản và đã làm việc cùng nhau với phim The Great Adventure of Horus, Prince of the Sun và Panda! Go, Panda!; Suzuki là một biên tập viên của tạp chí truyện tranh Animage của Tokuma Shoten.
Hãng phim được thành lập sau sự thành công của phim Kaze no Tani no Nausicaä (Nausicaä của Thung lũng gió) vào năm 1984, được viết và đạo diễn bởi Miyazaki cho Topcraft và phân phối bởi công ty Toei. Nguồn gốc của phim xuất phát từ hai tập đầu của chuỗi truyện tranh được viết bởi Miyazaki công bố trong Animage như một chiến lược thu hút mối quan tâm từ công chúng cho phiên bản hoạt hình.[5][6] Suzuki là một phần của đội ngũ sản xuất phim và thành lập Studio Ghibli cùng với Miyazaki, cũng là người đã mời Takahata gia nhập hãng phim mới này.
Hãng phim chủ yếu sản xuất các phim của Miyazaki, và đạo diễn nhiều phim thứ hai là Takahata (đáng chú ý nhất là phim Mộ đom đóm. Các đạo diễn khác đã làm việc với Studio Ghibli gồm Yoshifumi Kondo, Hiroyuki Morita, Gorō Miyazaki, và Hiromasa Yonebayashi. Nhạc sĩ Hisaishi Joe là người sáng tác nhạc cho hầu hết các bộ phim của Miyazaki ở Ghibli. Trong sách Anime Classics Zettai! của họ, Brian Camp và Julie Davis đã ghi chú rằng Michiyo Yasuda như là “một trụ cột của đội ngũ sản xuất và thiết kế phi thường của Studio Ghibli”. Có một thời điểm hãng phim có trụ sở tại Kichijoji, Musashino, Tokyo.[7]
Vào tháng 8 năm 1996, Disney và nhà xuất bản Tokuma Shoten đã đồng ý chấp thuận rằng Walt Disney Studios Motion Pictures sẽ phát hành những phim hoạt hình Studio Ghibli của Tokuma trên toàn thế giới. [ 8 ]Nhiều trong số những phim của Ghibli ở Nhật được phân phối rạp bởi Toho trong khi phát hành video mái ấm gia đình được giải quyết và xử lý bởi Walt Disney Studios Home Entertainment Nhật Bản. [ 9 ] Wild Bunch giữ quyền bán nhiều bộ phim của Ghibli ra quốc tế. [ 10 ] Các đối tác chiến lược phân phối quốc tế chính của Ghibli cũng gồm có Disney ( Japan Home Video, Đài Loan, North America trang chủ Video, Pháp ), [ 9 ] [ 10 ] GKIDS ( Bắc Mỹ ), [ 11 ] StudioCanal UK, và Madman Entertainment ( Úc ) .
Trong nhiều năm, đã có mối quan hệ chặt chẽ giữa Studio Ghibli và tạp chí Animage, nơi thường xuyên phát hành các bài báo độc quyền về hãng phim và các thành viên của hãng trong một mục riêng “Ghi chép về Ghibli”. Ảnh minh hoạ trong các phim của Ghibli và các tác phẩm khác cũng thường được ưu tiên làm trang bìa của tạp chí. Giữa năm 1999 và 2005, Studio Ghibli là một chi nhánh của Tokuma Shoten, nhà xuất bản của Animage.
Vào tháng 10 năm 2001, kho lưu trữ bảo tàng Ghibli Open tại Mitaka, Tokyo. [ 12 ] Nó tọa lạc những vật dựa trên những bộ phim của Ghibli và triển lãm những phim hoạt hình, gồm có 1 số ít những phim ngắn của Ghibli không có sẵn ở nơi khác .
Hãng phim cũng được biết đến với chính sách “không biên tập” đầy nghiêm khắc trong việc cấp phép cho các bộ phim của họ ra nước ngoài. Đó là do phim Kaze no Tani no Nausicaä (Nausicaä của Thung lũng gió) đã bị biên tập nặng nề để cho bản phát hành phim ở Mỹ với tên Warriors of the Wind (Những chiến binh gió). Chính sách “không cắt” đã được nhấn mạnh khi đồng chủ tịch Harvey Weinstein của hãng Miramax đã đề nghị biên tập lại phim Mononoke Hime (Công chúa Mononoke) để làm cho nó thị trường hơn. Một nhà sản xuất Ghibli được đồn rằng đã gửi một thanh kiếm Nhật thật với thông điệp đơn giản: “Không cắt”.[13]
Vào ngày 01/02/2008, Suzuki Toshio đã rời vị trí chủ tịch Studio Ghibli mà ông đã giữ kể từ năm 2005, và Koji Hoshino (cựu chủ tịch của Walt Disney Nhật Bản) đã tiếp quản. Suzuki cho biết ông muốn nâng cao các phim với chính đôi tay mình như là một nhà sản xuất, chứ không phải đòi hỏi điều đó từ các nhân viên của mình. Suzuki quyết định bàn giao chức vụ chủ tịch cho Hoshino bởi vì Hoshino đã giúp Studio Ghibli bán các video của mình kể từ năm 1996, cũng giúp phát hành phim Mononoke Hime (Công chúa Mononoke) ở Mỹ.[14] Suzuki vẫn phục vụ trong ban giám đốc của công ty.
Hai phim ngắn Studio Ghibli được tạo cho bảo tàng Ghibli được trưng bày tại Carnegie Hall Citywise Japan NYC Festival: “House Hunting” và “Mon Mon the Water Spider” được chiếu vào ngày 26/03/2011.[15]
Takahata phát triển một dự án để phát hành sau Ngọn đồi hoa hồng anh của Miyazaki Gorō (đạo diễn của Huyền thoại đất liền và đại dương, là con của Hayao) – một chuyển thể của Taketori Monogatari (Chuyện ông lão đốn tre).
Phim cuối cùng của đạo diễn Hayao Miyazaki trước khi nghỉ hưu là Kaze Tachinu (Gió nổi) về chiến đấu cơ Mitsubishi A6M Zero và người phát minh ra nó.[16]
Vào chủ nhật, 01/09/2013, Hayao Miyazaki đã tổ chức họp báo ở Venice để xác nhận mình nghỉ hưu, nói rằng: “Tôi biết tôi đã nói rằng tôi sẽ nghỉ hưu nhiều lần trong quá khứ. Nhiều người trong số các bạn sẽ nghĩ, ‘Một lần nữa.’ Nhưng lần này tôi khá nghiêm trọng.“[17]
Vào ngày 31/01/2014, hãng công bố Gorō Miyazaki sẽ chỉ đạo chuỗi phim hoạt hình truyền hình đầu tiên của ông ấy, Sanzoku no Musume Rōnya, một chuyển thể của Ronia the Robber’s Daughter của tác giả Astrid Lindgren cho NKH. Bộ phim là hoạt hình máy tính, được sản xuất bởi Polygon Pictures, và đồng sản xuất bởi Studio Ghibli.[18][19]
Vào tháng 03/2014, Suzuki Toshio về hưu khi là một đơn vị sản xuất và tiếp đón vị trí mới của tổng giám đốc. Yoshiaki Nishimura thay Suzuki trong vai trò nhà phân phối. [ 20 ]
Vào ngày 03/08/2014, Suzuki Toshio thông báo rằng Studio Ghibli sẽ có một “khoảng dừng ngắn” để đánh giá lại và tái cấu trúc trong bối cảnh Miyazaki về hưu. Ông trình bày một số lo ngại về nơi công ty sẽ đi trong tương lai.[21] Điều này dẫn đến suy đoán rằng Studio Ghibli sẽ không bao giờ sản xuất bất kỳ bộ phim nào một lần nữa. Vào ngày 07/11/2014, Miyazaki phát biểu, “Tuy nhiên, đó không phải là ý định của tôi. Tất cả những gì tôi làm là thông báo rằng tôi sẽ nghỉ hưu và không thực hiện bất kỳ chính sách nào nữa.”[22] Nhà sản xuất chính Yoshiaki Nishimura trong số nhiều nhân viên khác từ Ghibli đã rời khỏi để tìm đến Studio Ponoc vào tháng 4/2015, làm việc trên phim Mary and the Witch’s Flower.
Hãng Ghibli được đánh giá là đầu đàn của ngành công nghiệp anime Nhật Bản. Các bộ phim của hãng vừa được đánh giá cao về mặt nghệ thuật, vừa đạt được doanh thu rất cao tại Nhật. Tính đến nay bộ phim Sen và Chihiro ở thế giới thần bí của hãng Ghibli vẫn đang là bộ phim ăn khách nhất Nhật Bản, bộ phim này đã phá vỡ kỉ lục về doanh thu được lập bởi Mononoke Hime (Công chúa Mononoke) cũng là một sản phẩm của hãng Ghibli.
Các tác phẩm lớn nhất của đạo diễn lừng danh Miyazaki đều được thực hiện tại hãng Ghibli. Bộ phim hoạt hình nổi tiếng và nhận được nhiều lời khen ngợi nhất của hãng mà không phải do Miyazaki đạo diễn có lẽ là Mộ đom đóm, một sản phẩm của đạo diễn Takahata Isao, một tấn bi kịch của hai đứa trẻ mồ côi vào giai đoạn cuối Chiến tranh thế giới thứ hai ở Nhật Bản. Đây cũng là bộ phim duy nhất mà hãng Disney không thể phát hành vì lí do bản quyền với công ty xuất bản quyển sách gốc của tác giả Nosaka Akiyuki.
Theo bảng xếp hạng của trang web dữ liệu điện ảnh uy tín IMDB thì có tới 4 tác phẩm của hãng Ghibli (bằng với hãng phim hoạt hình nổi tiếng của Mỹ Pixar) nằm trong top 10 phim hoạt hình hay nhất trong đó có 3 phim của Miyazaki (Sen và Chihiro ở thế giới thần bí, Mononoke Hime, Tonari no Totoro), 1 phim của Takahata (Mộ đom đóm). Đặc biệt Sen và Chihiro ở thế giới thần bí đứng đầu danh sách.[23]
Tác phẩm đã phát hành[sửa|sửa mã nguồn]
Kaze no Tani no Nausicaä (Nausicaä của Thung lũng gió) thường được xem là một bộ phim Studio Ghibli, mặc dù nó được sản xuất và phát hành trước khi Ghibli chính thức thành lập.
Phim truyền hình[sửa|sửa mã nguồn]
Danh sách phim truyền hình | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Năm | Tên | Tên Việt | Đạo diễn | Biên kịch | Nhà sản xuất | Nhạc | RT |
1993 | Umi ga Kikoeru Ocean Waves |
Sóng biển | Tomomi Mochizuki | Kaori Nakamura | Toshio Suzuki, Nozomu Takahashi & Seiji Okuda | Shigeru Nagata | Không có |
Phim truyền hình nhiều tập[sửa|sửa mã nguồn]
Danh sách phim truyền hình nhiều tập | |||||
---|---|---|---|---|---|
Năm | Tên | Tên Việt | Đạo diễn | Hãng phim | Ghi chú |
2014 | Sanzoku no Musume Rōnya Ronia the Robber’s Daughter |
Ronja – Con gái tướng cướp | Gorō Miyazaki | Polygon Pictures và Studio Ghibli | Dựa trên Ronia the Robber’s Daughter của Astrid Lindgren |
Có nhiều phim ngắn, gồm có những bản được tạo ra để phát hành cho rạp, truyền hình, và kho lưu trữ bảo tàng Ghibli. Những video nhạc và những bản phát hành phim phim hoạt hình video gốc ( rạp và truyền hình ) cũng được liệt kê trong phần này .
Năm | Tên | Đạo diễn | Nhà sản xuất | Ghi chú |
---|---|---|---|---|
1995 | On Yua Māku (On Your Mark) |
Miyazaki Hayao | Đoạn phim ca nhạc quảng cáo cho Chage & Aska | |
2000 | Giburīzu (Ghiblies) |
Yoshiyuki Momose | Hiroyuki Watanabe | Phim hoạt hình hài ngắn 12 phút |
2001 | Kujiratori (The Whale Hunt) |
Miyazaki Hayao | Bảo tàng Ghibli | |
2001 – 2009 | Firumu Guru Guru (Film Guru Guru) – Kūsō no Kikaitachi no Naka no Hakai no Hatsumei (2002) – The Theory of Evolution (2009) |
Hiromasa Yonebayashi | ||
2002 | Ghiblies Episode 2 | Yoshiyuki Momose | Chiếu rạp đầu phim Loài mèo trả ơn | |
Koro no Daisanpo (Koro’s Big Day Out) |
Miyazaki Hayao | Bảo tàng Ghibli | ||
Kūsō no Sora Tobu Kikaitachi (Imaginary Flying Machines) |
Toshio Suzuki | |||
Mei to Konekobasu Mei and the Kittenbus |
||||
2004 | Portable Airport | Yoshiyuki Momose | Đoạn phim ca nhạc được tạo bởi Studio Kajino cho Capsule | |
Space Station No. 9 | ||||
2005 | Doredore no Uta | Osamu Tanabe | Đoạn phim ca nhạc quảng cáo cho Meiko Haigou | |
Sora Tobu Toshi Keikaku (A Flying City Plan) |
Yoshiyuki Momose | Đoạn phim ca nhạc được tạo bởi Studio Kajino cho Capsule | ||
Yadosagashi (Looking For A House) |
Miyazaki Hayao | Bảo tàng Ghibli | ||
2006 | Hoshi o Katta Hi (The Day I Bought a Star) (The Day I Harvested a Star) |
|||
Mizugumo Monmon (Water Spider Monmon) |
||||
Taneyamagahara no Yoru (The Night of Taneyamagahara) |
Kazuo Oga | Phiên bản DVD được phát hành ở Nhật vào ngày 7/7/2006 | ||
2007 | Ibarādo Jikan (Iblard Jikan) (Iblard Time) |
Naohisa Inoue | Phát hành ở Nhật ở định dạng đĩa DVD và Blu-ray vào ngày 4/7/2007, như là một phần của bộ sưu tập Ghibli ga Ippai | |
2009 | Piece | Yoshiyuki Momose | Đoạn phim ca nhạc quảng cáo cho Aragaki Yui | |
2010 | Chūzumō (Chu Zumo) |
Bảo tàng Ghibli | ||
Pandane to Tamago Hime (Mr. Dough and the Egg Princess) |
Miyazaki Hayao | |||
2011 | The Treasure Hunt | |||
2012 | Giant God Warrior Appears In Tokyo | Chiếu tại Bảo tàng nghệ thuật đương đại Tokyo |
Trò chơi điện tử[sửa|sửa mã nguồn]
Năm | Tên | Nhà phát triền | Nền tảng |
---|---|---|---|
1998 | Jade Cocoon: Story of the Tamamayu | Genki | PlayStation |
2001 | Jade Cocoon 2 | Genki | PlayStation 2 |
2002 | Magic Pengel | Garakuda-Studio and Taito | PlayStation 2 |
2010 | Ni no Kuni: Dominion of the Dark Djinn | Level-5 | Nintendo DS |
2011 | Ni no Kuni: Wrath of the White Witch | Level-5 | PlayStation 3 |
Phim tài liệu[sửa|sửa mã nguồn]
- Sekai Waga Kokoro no Tabi (1998) (cuộc gặp gỡ giữa Takahata Isao và đạo diễn Frédéric Back ở Canada)
- Sekai Waga Kokoro no Tabi (1999) (chuyến đi tìm hiểu cuộc đời Antoine de Saint-Exupéry của đạo diễn Miyazaki)
- Otsuka Yasuo no Ugokasu Yorokobi (2004) (bộ phim tài liệu về nhà làm phim hoạt hình Otsuka Yasuo)
- Miyazaki Hayao to Ghibli Bijyutsukan (2005) (giới thiệu về bảo tàng Ghibli của Miyazaki Goro và Takahata Isao)
Các đơn vị sản xuất phim hoạt hình và những nhà phong cách thiết kế nhân vật đáng quan tâm từ Studio Ghibli[sửa|sửa mã nguồn]
Những thành tựu đáng kể[sửa|sửa mã nguồn]
Phim tài liệu[sửa|sửa mã nguồn]
- This Is How Ghibli Was Bornジブリはこうして生まれた,
Jiburi wa kōshite umareta
. Phim tài liệu năm 1998, Nippon TV, 28 phút. - The Kingdom of Dreams and Madness夢と狂気の王国,
Yume to Kyoki no Okoku
. Phim tài liệu năm 2013 bởi Mami Sunada, 118 phút.
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Source: https://thevesta.vn
Category: Tâm Linh