Trần Nhân Tông Và Dấu Ấn Tâm Linh Việt – Tâm Hà Lê Công Đa
TRẦN NHÂN TÔNG
VÀ DẤU ẤN TÂM LINH VIỆT
Tâm Hà Lê Công Đa
Trận thắng lợi Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử vẻ vang dựng nước của Nước Ta. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên quốc gia ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Nước Ta không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một vương quốc đúng nghĩa đã Open dưới vòm trời Đông Á. Ba triều đại ngắn ngủi, Ngô, Đinh, Tiền Lê qua đi như những viên đá lót đường cho dân tộc bản địa Việt bước vào một vận hội mới, cả dân tộc bản địa cùng đứng dậy bắt tay nhau xây đắp lên một thời đại thịnh trị lê dài gần suốt bốn trăm năm, mở màn bằng bản Tuyên Ngôn Độc Lập, kiên cường ý chí tự chủ tự cường và ý thức sáng sủa dân tộc bản địa của Tướng quân Lý Thường Kiệt :
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Bản tuyên ngôn Lý Thường Kiệt đã được khẳng định chắc chắn can đảm và mạnh mẽ một lần nữa chỉ trong một khoảng chừng thời hạn ngắn không lâu sau đó : Trong khi cả thế giời đang rung chuyển trước bước tiến vũ bão của đoàn quân thiện chiến Mông Cổ thì vó ngựa của đoàn quân xâm lăng hung hãn này đã ba lần phải khựng lại trước bức tường ý chí sắt thép của quân dân Đại Việt. Cả ba lần xâm lược cả ba lần đều bị đánh tan. Việt Nam trở thành một mối ám ảnh kinh hoàng của cả triều đình, binh tướng Nguyên Mông, đến độ mấy năm sau, Trần Phu, một viên quan đứng đầu sứ bộ nhà Nguyên khi đặt chân vào quốc gia Nước Ta còn cảm thấy rùng mình :
Kim khoa ảnh lý đan tâm khổ
Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh
(Giáo sắt sáng ngời lòng thắm khổ
Trống đồng vang dội bạc đầu phơ)
Sự kiện này đã làm cho rất nhiều người, kể những nhà nghiên cứu sử học trên khắp quốc tế, không khỏi kinh ngạc nêu lên câu hỏi : Cái gì đã tạo nên sức mạnh vô song này ? Cái gì đã là chất keo gắn bó mọi những tầng lớp, đẳng cấp và sang trọng xã hội dân chúng đời Trần tạo nên sức mạnh Diên Hồng, đập tan cả một lực lượng quân sự chiến lược hùng mạnh vào bậc nhất quốc tế đương thời ? Thiết tưởng tất cả chúng ta có câu vấn đáp không mấy khó khăn vất vả : Đó là truyền thống cuội nguồn tâm linh Việt Phật. Tiếng trống đồng đã làm cho sứ giả Trần Phu phải lo ngại đến bạc đầu không phải chỉ mới vang lên dưới thời đại nhà Trần mà đã từng vang dội cả trên một ngàn năm trước kia trong những ngôi chùa tại những thôn làng hẻo lánh của Nước Ta, đó cũng là tiếng trống Mê Linh của Hai Bà Trưng mở màn cho cuộc khởi nghĩa dành độc lập tiên phong của dân tộc bản địa. Một thời đại thịnh trị không phải chỉ được lưu lại bằng những võ thuật oanh liệt mà phải là sự tăng trưởng đồng nhất và tổng lực của cả dân tộc bản địa trên khắp những mặt, từ vật chất đến ý thức. Thời đại thịnh trị không phải chỉ có những vị vua giỏi tôi hiền mà đỉnh điểm của nó là sự tăng trưởng về mặt trí tuệ, tâm linh. Bắt nguồn từ truyền thống lịch sử tâm linh Việt Phật này mà cả dân tộc bản địa đã biến thành một dàn hợp xướng dưới sự chỉ huy của một người nhạc trưởng tài ba. Và trong khung cảnh thời đại lịch sử dân tộc này đã sản xuất cho dân tộc bản địa ta một nhà quân sự chiến lược thiên tài, một nhà chính trị mưu trí và trên cao hết, một nhà đạo sư, người thầy hướng dẫn tâm linh cho toàn thể dân tộc bản địa, đó là vị quân vương Phật tử Trần Nhân Tông.
Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông Và Dấu Ấn Tâm Linh Việt Phật.
Nói rằng truyền thống cuội nguồn tâm linh Việt Phật là sợi chỉ vàng xuyên thấu thời đại thịnh trị Lý Trần không phải là một lời nói khoa trương chỉ để nhằm mục đích thoả mãn ý thức tự ái dân tộc bản địa hay tôn giáo. Cứ nhìn vào lịch sử dân tộc của những chế độ quân chủ phong kiến trên toàn quốc tế ta mới thấy được cái truyền thống độc lạ của chế độ quân chủ Nước Ta dưới thời đại nhà Trần. Các vị vua nhà Trần khi nắm vương quyền đều tuân theo một định chế bất thành văn, họ ở ngôi trong một khoảng chừng thời hạn nào đó rồi thoái vị, nhường ngôi lại cho con, làm Thái Thượng Hoàng lui về nơi dân giả. Việc làm này không những đã tạo nên một sự ổn cố chính trị thiết yếu cho vương quốc, tránh được nạn tranh giành quyền lực tối cao thường xảy ra trong nội bộ của những vương triều, nhưng đồng thời cũng là một hành vi phản ảnh sâu xa tinh thần Phật giáo vốn coi vạn pháp là vô thường. Thế nên những vị vua nhà Trần đã không có ai tham đắm quyền lực tối cao, bám chặt vào ngôi vị mà ngược lại, đã coi ngai vàng như chiếc dép rách nát, chuẩn bị sẵn sàng quăng bỏ bất kỳ khi nào nếu cần, không chút thương tiếc. Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông cũng đã liệng bỏ “ chiếc giép rách nát ” này sau mười bốn năm cầm quyền bính, quyết định hành động lên đường vào núi Yên Tử sáng lập ra một dòng Thiền độc lạ Nước Ta : Thiền phái Trúc Lâm. Một người đã ở tuyệt đỉnh công phu của quyền lực tối cao và danh vọng như vậy, một bước là lên xe xuống ngựa, cung phi mỹ nữ, kẻ hầu người hạ bao quanh, thế mà nay đã lìa bỏ ngôi báu vào năm ba mươi bốn tuổi, cái tuổi được coi như xinh xắn nhất của đời người để bước theo bước chân của Tổ Ca Diếp trước đây, thực hành thực tế hạnh đầu đà, đầu trần chân đất, trong cái khí hậu khắc nghiệt của vùng nhiệt đới gió mùa Nước Ta, lặn lội khắp nơi đem mưa pháp rải ra khắp chốn, cứu độ nhân gian. Mang trái tim Bồ Tát, nung nấu bởi ý nguyện Bồ Tát, tấm gương lao vào vì đạo của Ngài là một sự biểu lộ niềm tin Bồ Tát đạo, khiến Ngài trở thành môt nhân vật hiếm có trong lịch sử dân tộc truyền bá đạo Phật tại Nước Ta. Với một niềm tin nhập thế tích cực, lao vào triệt để, đem đạo vào đời vì niềm hạnh phúc của nhân quần xã hội như vậy, dòng Thiền Trúc Lâm chắc như đinh không thể nào lại không mang dấu ấn của người đã sáng lập ra nó. Một người vừa thông hiểu toàn bộ những gì là uyên áo nhất của giáo lý đạo Phật, nhưng đồng thời cũng biết cả thẩm mỹ và nghệ thuật điều binh khiển tướng, một nửa đời người xông pha trên mình ngựa giữ yên bờ cõi, mang lại an vui cho trăm họ, vua Trần Nhân Tông không những đã thừa kế được những tinh hoa của quá khứ, mà đồng thời còn có năng lực tổng hợp được những giá trị của thời đại, từ đó với những kinh ngiệm sống của đời mình, vua đã phát huy truyền thống lịch sử tâm linh Việt Phật đến một mức độ rực rỡ tỏa nắng nhất, đem Phật pháp gắn liền với trần gian pháp, biến những giáo lý cao siêu trở thành một triết lý hành vi thực tiễn, hoàn toàn có thể tóm gọn vào bốn chữ đơn giản và giản dị : CƯ TRẦN và LẠC ĐẠO. Nội dung chính của ý thức CƯ TRẦN LẠC ĐẠO Trần Nhân Tông là gì ? Qua hành trạng và những thi văn của Ngài còn để lại, đặc biệt quan trọng là “ Cư Trần Lạc Đạo Phú ”, ta thấy tư tưởng của Trần Nhân Tông có những điểm chính yếu điển hình nổi bật sau đây :
1. Tinh thần Cư Trần Mang Màu Sắc Giáo Lý Tứ Ân:
Đạo Phật không phải là một đạo xuất thế. Đạo Phật gắn liền với con người và thời đại, thế nên thứ nhất nó phải xử lý được yếu tố cơ bản và trọng điểm nhất của con người, đó là CƯ TRẦN. Không xử lý được chuyện “ Cư Trần ” thì đừng nói đến chuyện cao xa huyền diệu. Không đứng vững được đôi chân trên mặt đất, thì tổng thể mọi triết lý dù thâm ảo đến mức nào cũng đều là những chuyện viễn vông, xa rời trong thực tiễn. Thế nên mẫu người Phật Tử Nước Ta theo Trần Nhân Tông ý niệm phải là mẫu người :
Sạch giới lòng, dồi giới tướng,
nội ngoại nên Bồ Tát trang nghiêm
Ngay thờ chúa, thảo thờ cha,
Thi đỗ mới trượng phu trung hiếu.
(Cư Trần Lạc Đạo Phú, Hội thứ sáu)
Mô hình của một mẫu người Phật tử lý tưởng đời Trần cho nên vì thế không phải chỉ là “ sạch giới lòng, dồi giới tướng ” để trở thành “ Bồ Tát trang nghiêm ” mà còn phải là một mẫu người trượng phu trung hiếu vẹn toàn. Thiết tưởng cũng xin được mở một dấu ngoặc ở đây để chú ý quan tâm rằng, ý thức trượng phu trung hiếu mà vua Trần Nhân Tông đề cập đến không phải chỉ là một mẫu sản phẩm độc quyền của Nho giáo như người ta thường biết. Tinh thần trung hiếu này thực ra là một bộ phận của tư tưởng Tứ Ân đã Open từ truyền kiếp trong Phật giáo Ấn Độ thời cổ xưa và sau này trở thành một kim chỉ nan xương sống của Tịnh Độ Tông Phật giáo.
Sử gia Lê Mạnh Thát đã đúc kết mẫu người hình tượng đó như sau: “Đây có thể nói là một đúc kết về hình tượng người Việt Nam lý tưởng, chứ không phải chỉ của Phật giáo. Thực tế những người làm nên sự nghiệp oanh liệt của dân tộc ta vào thời Trần Nhân Tông có thể nói hầu hết đều là Phật tử, từ những vị lãnh đạo tối cao ở trung ương như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải cho đến những người dân ở xã ấp như Lê Công Mạnh và anh em con cháu. Vì họ là những Bố Tát trang nghiêm nên đối với bản thân họ giữ gìn kỷ luật và sống cuộc sống có lý tưởng. Nhưng đồng thời họ cũng là những trượng phu trung hiếu, nên họ trung thành với tổ quốc, sống hiếu thảo với cha mẹ ông bà.”
Xem thêm: Người Dân Kể Chuyện Tâm Linh Có That Ở Việt Nam, Chuyện Tâm Linh Huyền Bí, Chưa Có Lời Giải Đáp
Nói đến khuôn mẫu con người trần gian không hề không nói đến khuôn mẫu của con người tăng sĩ. Hình tượng đẹp tươi này thiết tưởng tất cả chúng ta không cần phải đi tìm ở đâu xa mà chính ngay ở hình ảnh của tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông. Con người tăng sĩ đó không những là một pháp khí của thời đại mà còn là một biểu trưng cho một kẻ sĩ Nước Ta, biết lo trước cái lo của trăm họ và vui sau cái vui của trăm họ. Khung cảnh của thời đại lịch sử dân tộc Lý Trần đã xoá đi cái biên giới ngăn cách giữa tăng sĩ và kẻ sĩ. Suốt cả một ngàn năm Bắc thuộc, với chủ trương ngu dân, người Hán không cho mở trường học tại địa phương, chùa chiền Nước Ta là nơi duy nhất tiếp cận với văn minh học thuật Nước Trung Hoa đồng thời cũng là lò rèn đúc, giảng dạy tri thức cho nước nhà, thế nên tất cả chúng ta sẽ không quá bất ngờ khi thấy những bậc đại tăng trong thời đại Lý Trần đồng thời cũng là những sĩ phu “ trụ tích trấn vương kỳ ” – chống cây thiền trượng xuống hoàn toàn có thể làm yên xã tắc. Những vị Thiền sư Nước Ta đời Trần do đó, tuy có về ở ẩn trong chốn am mây nhưng tấm lòng vẫn canh cánh với chuyện nước non. Ta như vẫn còn nghe văng vẳng đâu đây lời khuyên bảo của quốc sư Phù Vân với vua Trần Thái Tông khi vua lìa hoàng cung bỏ trốn vào Yên Tử với dự tính xuất gia : “ Phàm làm đấng minh quân, thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, và tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón hoàng thượng không về sao được ? Tuy nhiên sự nghiên cứu và điều tra nội điển xin chúa thượng đừng phút nào quên. ”
2. Tinh Thần Lạc Đạo: Khơi Mạch Nguồn Cho Một Dòng Thiền Độc Đáo Việt Nam:
Nhà thơ Nguyễn Trãi trong một bài thơ đề tựa ở chùa Hoa Yên, Trúc Lâm Yên Tử đã nói về vua Trần Nhân Tông như sau :
Vua Trần Nhân Tông thời trước còn để dấu tích lại,
Trong hào quang trắng thấy rõ đôi con ngươi của mắt Phật Thích Ca.
Lời tuyên xưng này không có gì là quá đáng. Một điều không ai hoàn toàn có thể phủ nhận được rằng tư tưởng Kinh Kim Cương là hệ tư tưởng chủ yếu của Thiền học đời Trần và người đã tăng trưởng ý thức Kim Cương đế mức độ toàn hảo nhất, lại chính Lục Tổ Huệ Năng. Thế nhưng lịch sử vẻ vang đã chứng tỏ cho tất cả chúng ta thấy Lục Tổ là một người Nước Ta. Thực ra cũng không cần phải đem sử liệu ra để dẫn chứng. Đọc qua bộ Pháp Bảo Đàn Kinh, mà thực ra là một cuốn tự truyện của Ngài Huệ Năng còn để lại, ta thấy rõ một điều rằng nếu như ngài Huệ Năng không phải là người “ ngoại bang ” thì chắc như đinh là Ngũ Tỗ đã không phải trao truyền y bát cho Ngài một cách lén lút vào đêm hôm khuya khoắt, và cũng sẽ không có chuyện cả một sơn môn – đặc biệt quan trọng là một tông phái Thiền vốn đặt niềm tin phá chấp lên số 1 – đã phải sôi sục lên vì lòng tự ái dân tộc bản địa, để môn nhân đệ tử của Ngũ Tổ đã phải bỏ cả chuyện tu tập, chạy theo truy đuổi Huệ Năng cho đến cùng để thu lại y bát mà họ xem như quốc bảo. Nếu Tổ Bồ Đề Đạt Ma trước đây đã mang Thiền học Phật giáo vào Trung quốc và trở thành vị Tổ thứ nhất của phái thiền Đông độ thì tất cả chúng ta cũng hoàn toàn có thể xem người người trẻ tuổi Nước Ta mù chữ Huệ Năng – vì chủ trương ngu dân của người Hán như đã nói ở trên – là vị Tổ thứ nhất của Thiền học Nước Ta. Và, người thừa kế xứng danh nhất của dòng Thiền Huệ Năng, người tăng trưởng niềm tin “ Kiến Tánh Thành Phật ” của Tổ Huệ Năng đến mức toàn vẹn nhất không ai khác hơn là Trúc Lâm Tổ Trần Nhân Tông. Trong “ Cư Trần Lạc Đạo Phú ” Ngài đã diễn đạt lại ý niệm ấy một cách dễ hiểu hơn :
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền
Của báu trong nhà thôi khỏi kiếm
Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.
Con đường “ lạc đạo ” so với Trần Nhân Tông không phải là con đường hướng ngoại mà là một hành trình dài quay trở lại với chính mình. Quay về với chính mình tức là quay về với bản thể uyên nguyên. Hãy cứ để cho mạch đời tuôn chảy thì suối nguồn tâm linh sẽ khai mở và con người sẽ tìm lại tự tánh của chính mình. Danh từ nhà Thiền gọi đó là “ bản lai diện mục ”, là đạt đạo. Và khi đã đạt đạo thì mỗi một hành vi trong đời sống thông thường của con người, từ ăn, ngủ, đi đứng cho đến hái rau, gánh nước, chẻ củi, nấu cơm, … đều tỏa ra sáng ánh sáng giác ngộ. Thế nên so với Tổ Trúc Lâm, con người không phải đi tìm chân lý ở đâu xa, chân lý nằm chính ngay trong lòng đời sống. Phiền não cũng chính là Bồ Đề và cõi Ta Bà đồng thời cũng là cảnh giới Tịnh Độ. Kho báu đã có sẵn ở trong mình mà con người cứ mãi rong ruổi chạy đi tìm của báu ở khắp nơi, chẳng khác gì hình ảnh của người cùng tử trong kinh Phật thường nói đến. Con người không biết rằng họ không cần phải đi tìm cầu Phật ở đâu xa, Phật ở ngay bên trong mỗi một tất cả chúng ta, như quốc sư Phù Vân đã khẳng định chắc chắn, “ trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng, lòng lặng mà hiểu, đó chính là chân Phật ”. Cứ sống một đời sống có đạo đức nhân nghĩa, đem tình thương trải rộng ra muôn loài thì mỗi một con người đều là một vị Phật, Bồ Tát. Tổ Trúc Lâm đã trao truyền cho đời cái chìa khoá mở vào đời sống niềm hạnh phúc, an nhàn rất mực đơn giản và giản dị, chỉ võn vẹn nằm trong hai chữ “ Tùy Duyên ”. Giản dị nhưng lại gói trọn cái tinh yếu của đạo Phật. Ngài chỉ cho ta thấy rằng đời sống là một giòng luân lưu hoạt động bất tận. Tất cả vạn pháp hiện hữu đều do duyên sinh, duyên khởi, tương tục và tương tác. Nắm vững chân lý này thì người ta hoàn toàn có thể sống tuỳ duyên, nhưng “ Tùy duyên ” ở đây không phải là một đời sống thả nổi như lục bình trôi mà là sự tĩnh thức để tắm mát trong dòng hiện sinh, đó là con đường “ lạc đạo ”. Dòng Thiền Trúc Lâm Nước Ta đã chuyên chở tư tưởng của Huệ Năng vào đời sống thực tiễn. Thiền học đời Trần vì vậy đã gắn bó với đời sống và con người, tích hợp hài hoà giữa triết lý và hành vi, tạo nên sức sống và một phong vị mới mang sắc tố Nước Ta. Thế nên nếu tất cả chúng ta xem ngài Huệ Năng là vị Tổ thứ nhất của Thiền Tông Nước Ta thì người thừa kế xứng danh nhất không ai khác hơn là Trúc Lâm Đầu Đà Trần Nhân Tông.
3. Sứ Mệnh Chấn Hưng Phật giáo.
Một trong những công nghiệp lớn của vua Trần Nhân Tông còn để lại mà đời sau không hề không nhắc đến, đó là nỗ lực hoằng truyền chánh pháp, chấn hưng đạo Phật. Từ cuối đời Lý, đạo Phật Nước Ta đã có những tín hiệu suy thoái và khủng hoảng. Khi ý thức đạo lý từ bi suy sụp thì tín ngưỡng thế lực ma thuật lộng hành đưa con người vào vòng mê tín dị đoan. Bên cạnh đó là những tệ trạng xã hội khác gây ra bởi sự tôn sùng đạo Phật quá mức nhưng lại thiếu sự điều hướng, tổ chức triển khai. Chuyện đúc tượng xây chùa trang trọng nguy nga hơn cả cung vua là hiện tượng kỳ lạ khá thông dụng. Tình trạng “ thiên hạ bán vi tăng ” dưới thời Lý không phải là điều đáng mừng cho Phật giáo mà là điều lo nghĩ cho toàn bộ những ai có ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm. Bởi vì không thiếu gì những kẻ xấu đã tận dụng chốn thiền môn, cấu kết với giới tăng sĩ biến chất để làm những điều xằng bậy. Tình hình này đã được phản ảnh trong bản điều trần của Đàm Dĩ Mống được ghi chép lại trong Đại Việt sử lược : “ Nay Tăng đồ cùng với dịch phu quá nửa, bọn chúng tự kết bè đảng, dựng bậy thầy trò, tụ nhóm, ở bầy, làm nhiều việc dơ, hoặc ở giới trường tinh xá, ngang nhiên rượu thịt, hoặc tại thiền phòng tịnh viện, riêng tự gian dâm, ngày ẩn tối ra, như đàn cáo chuột. Chúng làm nát tục hư đạo, từ từ thành thói. Việc đó nếu không cấm, để lâu càng tệ thêm ”. Đến đời Trần, tệ trạng này vẫn không có gì đổi khác, đến độ vị quân vương Phật tử thuần thành Trần Thái Tông cũng đã phải phủ nhận ngao ngán : “ Khi tới chùa chiền, gần Phật gần kinh, mắt không thèm ngó, phòng tăng điện Phật, gặp gỡ gái trai, cuối mắt đầu mày, ham mê sắc dục, không kiêng Hộ Pháp, chẳng sợ Long Thần, trố mắt ham vui, đầu chưa từng cúi ”, và “ chẳng riêng người tục, cả đến thầy Tăng, kinh luận tranh giành, cùng nhau công kích, chê những sư trưởng, nhiếc đến mẹ cha, cỏ nhẫn lụi vàng, lửa độc rực cháy, buông lời đau vật, cất tiếng hại người, không nghĩ từ bi, không theo luật cấm, bàn thiền tựa thánh, trước cảnh như ngu, dẫu ở cửa không, chưa thành vô ngã ”. Sử gia Lê Văn Hưu, người được vua Trần Thánh Tông chỉ định biên soạn bộ Đại Việt Sử Ký cũng đã nhận xét rằng hiện tượng kỳ lạ kiến thiết xây dựng chùa miễu nguy nga, độ tăng ồ ạt là một việc làm hoang phí sức người sức của một cách vô ý thức và đưa ra lời phản hồi như sau : “ Của không phải do trời mưa xuống, sức chẳng phải của thần làm cho, há chẳng phải là khơi vét máu mỡ của dân ư ? Khơi vét máu mỡ của dân mà hoàn toàn có thể gọi là làm phước được ư ? ” Đứng trước thực trạng này, một con người hành vi và là một Phật tử có ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm với đạo pháp, vua Trần Nhân Tông phải làm gì đây ? Vua biết chắc một điều rằng, Ngài không hề dùng quyền uy của vương triều để chấn hưng đạo Phật. Triều đình hoàn toàn có thể phát hành những đạo dụ để răn dân, trừng phạt những điều sái quấy, thế nhưng quyền lực tối cao vẫn không đủ sức mạnh để lay chuyển một tệ trạng đã bám sâu nền tảng trong lòng xã hội. Vua Trần Nhân Tông đã phải đi trên một con đường gay go hơn, đó là con đường cảm hoá nhân tâm, lấy bản thân của mình ra làm gương sáng cho người đời noi theo. Thế nên khi khoác lên mình chiếc tăng bào, vua đã lặn lội “ đi khắp nơi dân gian tàn phá những dâm từ và thuyết pháp khuyên dân làm mười điều thiện ”. Hào quang của một vị vua anh hùng hai lần đại thắng quân Nguyên nay là một tăng sĩ đầu trần chân đất đi khuyến tu vẫn có sức mạnh thuyết phục hơn cả một ngàn luật đạo của triều đình. Sức mạnh thuyết phục đó chính là tình thương. Thế nên khi vua băng hà, cả dân tộc bản địa đã ngậm ngùi tiễn đưa, vì kể từ đây quốc gia đã vắng bóng một đấng từ phụ. Tang lễ của Ngài, người dân tham gia đông như nêm cối, tràn ngập từ kinh đô cho đến bến sông Hồng đến độ linh vị của vua không thể nào vận động và di chuyển được, thế mới biết dân chúng đã yêu dấu Ngài đến mức nào. Vua mất đi, nhưng thông điệp khuyến tu của Ngài còn vang vọng mãi đến muôn đời sau :
Thân như hô hấp tị trung khí
Thế tự phong hành lĩnh ngoại vân
Đỗ Quyên đề đọan nguyệt như trú
Bất thị tầm thường không quá xuân
Thân như hơi thở mỏng manh,
Đời như mây nổi trên vành núi xa.
Tuổi xuân chớ để luống qua,
Để rồi khóc hận như là Đỗ Quyên.
(Tâm Hà thoáng dịch)
Xem thêm: Người Dân Kể Chuyện Tâm Linh Có That Ở Việt Nam, Chuyện Tâm Linh Huyền Bí, Chưa Có Lời Giải Đáp
Tâm Hà Lê Công Đa
11-30-2008 09:23:13
Source: https://thevesta.vn
Category: Tâm Linh