Hòa thượng Thích Thanh Từ: Người phục hưng thiền phái Trúc Lâm Việt Nam thế kỷ 20 – 21
Tôn dung Hòa thượng Thích Thanh Từ. Ảnh: Internet
Bài liên quan
Hòa thượng Thích Thanh Từ với lời nhắc nhở đầu năm
Hòa thượng húy là Trần Hữu Phước, pháp danh Thích Thanh Từ, sau đổi lại húy là Trần Thanh Từ. Sinh ngày 24 tháng 7 năm 1924, tại ấp Tích Khánh, làng Tích Thiện, tỉnh Cần Thơ (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long).
Bạn đang đọc: Hòa thượng Thích Thanh Từ: Người phục hưng thiền phái Trúc Lâm Việt Nam thế kỷ 20 – 21
Thân phụ của Hòa thượng húy Trần Văn Mão, từ nhỏ theo nghiệp Nho, giữ nếp sống thanh bần. Cụ ông theo đạo Cao Ðài. Thân mẫu của Ngài húy Nguyễn Thị Ðủ, quê làng Thiện Mỹ, Q. Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ. Cụ bà chân chất hiền lành, suốt đời tận tụy hi sinh vì chồng vì con. Hòa thượng sinh ra và lớn lên trong thực trạng khó khăn vất vả nghèo túng, nhưng Ngài đã điển hình nổi bật những nét riêng từ thuở ấu thơ : trầm mặc, ít nói, thích đọc sách, có chí xuất trần và đặc biệt quan trọng rất hiếu thảo với cha mẹ. Vào năm 9 – 10 tuổi, nhân theo cụ ông lên Mốp Văn, Long Xuyên thọ tang người bác thứ ba, Hòa thượng được đến chùa Sân Tiên trên núi Ba Thê cúng cầu siêu cho bác. Duyên xưa gặp lại, nghe tiếng chuông chùa ngân dài giữa khoảng chừng thinh không cô tịch, Hòa thượng rung động như có một nỗi niềm giao cảm tự khi nào. Bất thần Người xuất khẩu thành thơ : Non đảnh là nơi thú lắm ai, Ðó cảnh nhàn du của khách tài. Tiếng mõ công phu người tỉnh giấc, Chuông hồi văng vẳng quá bi ai ! Có thể nói rằng, chí xuất trần của Hòa thượng nổi dậy kể từ đây. Sớm chìm nổi theo dòng đời và nhất là sống trong thời loạn lạc, Hòa thượng càng thấm thía, càng đau xót nỗi thống khổ của con người. Chí xuất trần của Hòa thượng cho nên vì thế càng trở nên mãnh liệt hơn và Người luôn ôm ấp một tâm niệm : “ Nếu tôi không hề làm một viên linh đơn cứu toàn bộ bệnh của chúng sanh, ít ra cũng là một viên thuốc bổ giúp cho người bớt khổ. ”
Hòa thượng húy là Trần Hữu Phước, pháp danh Thích Thanh Từ, sau đổi lại húy là Trần Thanh Từ. Ảnh: internet
Từ đó trái nhân duyên đã chín muồi, cuộc sống của Hòa thượng rẽ sang một con đường sáng. Ngày 15 tháng 7 năm 1949, sau 3 tháng công quả tại chùa Phật Quang ; Hòa thượng được Tổ Thiện Hoa chính thức cho xuất gia với pháp danh là Thanh Từ. Thế là ước nguyện của Người đã được thành tựu. Từ đây, Hòa thượng siêng năng theo Tổ công phu bái sám, vừa học giáo lý, vừa dạy trẻ nhỏ. Ngoài ra còn phụ trông nom coi sóc mấy chục chú tiểu trong chùa. Công việc tuy nhiều, tuy nhiên Hòa thượng luôn để tâm học Giáo điển. Năm 1949 – 1950, Hòa thượng theo học lớp Sơ đẳng năm thứ 3 tại Phật học đường Phật Quang. Năm 1951, Hòa thượng mở màn học lên Trung đẳng. Cũng trong năm này, chùa Phật Quang bị binh biến, Tổ Thiện Hoa phải dời Tăng chúng lên chùa Phước Hậu, Hòa thượng cũng được theo và thọ giới Sa-di tại đây do Tổ Khánh Anh làm Hòa thượng đàn đầu. Năm 1953, Hòa thượng theo Bổn sư là Tổ Thiện Hoa lên TP HCM, liên tục học lớp Trung đẳng tại Phật học đường Nam Việt chùa Ấn Quang. Tại đây, Hòa thượng được thọ giới cụ túc do Tổ Huệ Quang làm Hòa thượng đàn đầu.
Bài liên quan
HT Thích Thanh Từ: Ngày Phật Thành Đạo hãy tự ngẫm tới mình!Từ năm 1954 đến năm 1959, Hòa thượng học Cao đẳng Phật học tại Phật học đường Nam Việt. Các vị đồng khóa cùng ra trường với Hòa thượng như quí ngài Huyền Vi, Thiền Ðịnh, Từ Thông … Sau gần 10 năm trải qua Sơ đẳng, Trung đẳng, Cao đẳng Phật học, đoạn đường Tăng sinh đã hoàn tất, Hòa thượng bước sang thời kỳ hóa đạo. Hòa thượng là một vị Giảng sư trong Giảng sư đoàn của ban Hoằng pháp, có uy tín lớn thời bấy giờ và được sự hâm mộ của Phật tử xa gần. Từ năm 1960 đến năm 1964, Hòa thượng đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Phật giáo : Phó Vụ trưởng Phật học vụ, Vụ trưởng Phật học vụ, Giáo sư kiêm Quản viện Phật học viện Huệ Nghiêm, Giảng sư Viện Ðại học Vạn Hạnh và những Phật học đường Dược Sư, Từ Nghiêm, … Sau lễ mãn khóa Cao Trung chuyên khoa tại Huệ Nghiêm và Dược Sư, Hòa thượng xin phép Tổ Thiện Hoa được lui về núi ẩn tu. Hòa thượng đã thật sự giã từ Phật học viện, giã từ phấn bảng với năm tháng miệt mài vì tứ chúng nhưng hai tiếng “ Tăng Ni ” vẫn xoáy sâu vào lòng Người, để sau này chút duyên “ Thầy Trò ” ấy lại gặp nhau và càng thêm son sắt trên đỉnh Tương Kỳ. Tháng 4 năm 1966, Hòa thượng dựng Pháp Lạc thất trên núi Tương Kỳ, Vũng Tàu. Ngôi thất lá vuông vức bốn thước đơn sơ với bộ Ðại Tạng Kinh, nhưng đã ấp ủ một Thiền tăng nghèo quyết nhận lại cho kỳ được hạt châu vô giá của chính mình. Rằm tháng tư năm Mậu Thân ( 1968 ), Hòa thượng công bố nhập thất vô hạn định với lời nhất quyết : “ Nếu đạo không sáng, thệ không ra thất. ” Thế là cửa sài đôi cánh khép. Toàn thể môn nhân qui ngưỡng lên non một lòng mong đợi. Tháng 7 năm 1968, Hòa thượng liễu đạt lý sắc không, thấu suốt thật tướng Bát-nhã. Từ con mắt Bát-nhã trông qua Tạng kinh, lời Phật, ý Tổ hoác toang thông thống. Giáo lý Ðại thừa và thâm ý nhà Thiền đã được Hòa thượng mày mò từ công phu thiền định của Người. Ngày 8 tháng 12 năm ấy, Hòa thượng công bố ra thất giữa bao niềm hân hoan của Tăng Ni, Phật tử. Nước cam lồ từ đây rưới khắp, suối từ bi từ đây tuôn chảy. Pháp Lạc thất thật xứng danh là linh hồn của dòng thiền Chân Không. Nơi đây, ghi lại một tiến trình chuyển mình, một bước ngoặc lớn trong cuộc sống tu của Hòa thượng. Hoài bão tu Thiền đã thai nghén bao năm trong thầm lặng đơn độc của Người, đến đây mới thật sự có điểm khởi phát và lớn dậy, để sau này Phật giáo Nước Ta vinh dự có một ngôi sao 5 cánh sáng mở ra trang Thiền sử Nước Ta rực rỡ tỏa nắng huy hoàng vào cuối thế kỷ 20.
Suốt đời Hòa thượng Thích Thanh Từ đều dốc hết sức mình lo cho Phật pháp, đặc biệt là làm sống lại Thiền tông đời Trần, tạo điều kiện cho Tăng Ni tu hành tiến bộ. Ảnh: Internet
Bài liên quan
Hòa thượng Cua và tình mẫu tửHòa thượng đã từng nói : “ Tôi là kẻ nợ của Tăng Ni và Phật tử. Ai biết đòi thì tôi trả trước, ai chưa biết đòi thì trả sau. ” Suốt đời Ngài đều dốc rất là mình lo cho Phật pháp, đặc biệt quan trọng là làm sống lại Thiền tông đời Trần, tạo điều kiện kèm theo cho Tăng Ni tu hành tân tiến. Tăng Ni tu hành có tân tiến thì Phật pháp mới còn và vững mạnh được. Sự tu hành tân tiến của Tăng Ni là niềm vui của Ngài. Ngài nói : “ Hoài bão của thầy đều gởi gắm hết vào sự nỗ lực tu tập của tụi con. Tăng Ni tu có niềm vui, sáng được việc lớn, đó là biết thương tưởng đến thầy. Bằng ngược lại thì thật là thầy chưa đủ phước để được vui trước khi nhắm mắt. Bởi vì nguyện vọng Phục hồi Thiền tông Nước Ta, đặc biệt quan trọng là Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần của thầy chưa thành tựu. ” Hòa thượng xây dựng nhiều thiền viện làm nơi giáo hóa và hướng dẫn tu hành :
– Thiền viện Chân Không, núi Tương Kỳ – Vũng Tàu, thành lập tháng 4-1971; dời về Thường Chiếu năm 1986, được phép tái thiết năm 1995.
Xem thêm: Phật pháp vô biên : 14 lời Phật dạy
– Thiền viện Thường Chiếu, Long Thành, tỉnh Ðồng Nai, xây dựng tháng 8-1974. – Thiền viện Viên Chiếu, Long Thành, tỉnh Ðồng Nai, xây dựng tháng 4-1975. – Thiền viện Huệ Chiếu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xây dựng tháng 4-1979. – Thiền viện Linh Chiếu, Long Thành, tỉnh Ðồng Nai, xây dựng tháng 2-1980. – Thiền viện Phổ Chiếu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xây dựng tháng 6-1980. – Thiền viện Tịch Chiếu, Long Hải, xây dựng tháng 7 – 1987. – Thiền viện Liễu Ðức, Long Thành, tỉnh Ðồng Nai. – Thiền viện Trúc Lâm, Ðà Lạt, tỉnh Lâm Ðồng, xây dựng tháng 4 – 1993. – Chùa Lân – Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, tỉnh Quảng Ninh thành lập 2002. – Thiền viện Tuệ Quang, Linh Trung, Thủ Ðức, thành phố Hồ Chí Minh. – Thiền viện Hương Hải, Long Thành, tỉnh Ðồng Nai. – Thiền viện Ðạo Huệ, Long Thành, tỉnh Ðồng Nai. – Thiền viện Tuệ Thông, Long Thành, tỉnh Ðồng Nai. – Thiền viện Ðại Ðăng, Bonsall, California, Hoa Kỳ, xây dựng năm 2001. – Thiền viện Quang Chiếu, Forthworth, Texas, Hoa Kỳ, xây dựng năm 2000. – Thiền viện Bồ Ðề, Boston, Hoa Kỳ, xây dựng năm 2002. – Thiền viện Diệu Nhân, Sacramento, Hoa Kỳ, xây dựng năm 2002. – Thiền tự Ngọc Chiếu, Garden Grove, California, Hoa Kỳ. – Thiền tự Vô Ưu, San Jose, California, Hoa Kỳ. – Thiền tự Ðạo Viên, Québec, Canađa, xây dựng năm 2002. – Thiền tự Thường Lạc ( Pháp ). – Thiền tự Pháp Loa ( Úc ). – Thiền tự Hiện Quang ( Úc ). – Thiền tự Hỷ Xả ( Úc ). – Thiền viện Tiêu Dao ( Úc ). – Thiền tự Tuệ Căn ( Úc ). Hòa thượng cũng đã góp phần trùng tu hai Tổ đình Phật Quang và Phước Hậu, Trà Ôn, Vĩnh Long.
Hòa thượng giảng và dịch rất nhiều bộ Kinh, Luận và Sử từ Hán văn sang Việt văn. Ngoài ra, Hòa thượng còn giảng giải rất nhiều bài pháp phổ thông cho Tăng Ni và Phật tử.
Hòa thượng đã đi du hóa và thăm viếng nhiều nước : Cam-pu-chia ( 1956 ) ; Ấn Ðộ, Sri Lan ca và Nhật Bản ( 1965 ) ; Trung Quốc ( 1993 ) ; Pháp ( 1994, 2002 ) ; Thụy Sĩ ( 1994 ) ; Indonesia ( 1996 ) ; Canada ( 1994, 2002 ) ; Hoa Kỳ ( 1994, 2000, 2001, 2002 ) ; Úc ( 1996, 2002 ). Tổng số Phật tử phát tâm qui y trong và ngoài nước là 84.860 người ( trong nước : 175.260 người, quốc tế : 9.600 người. Nguồn : thegioidisan.vn
Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp