KINH THẬP THIỆN GIẢNG GIẢI – HT THÍCH THANH TỪ

LỜI ĐẦU SÁCH

Kinh Thập Thiện Giảng Giải là một quyển kinh nhỏ ghi lại buổi thuyết pháp của Phật cho cả cư sĩ lẫn người xuất gia, hoặc cho các loài thủy tộc nhẫn đến bậc A-la-hán và Bồ-tát. Xét hội chúng dự buổi thuyết pháp này, chúng ta nhận định được giá trị quyển kinh thế nào rồi. Pháp Thập thiện là nền tảng đạo đức, cũng là nấc thang đầu trên cây thang giải thoát. Cho nên bất cứ người tu tại gia hay xuất gia, pháp Tiểu thừa hay Đại thừa cũng lấy Thập thiện làm chỗ lập cước căn bản. Bỏ pháp Thập thiện thì mọi pháp tu khác đều không đứng vững. Vì thế, người học đạo buổi ban đầu phải thâm nhập pháp Thập thiện, sau đó mới tiến lên tu các pháp Thiền định…

 

Song người đời vẫn còn sợ hãi chưa quyết định hành động được nghĩa thiện và ác. Bởi vì họ thấy có những việc khởi đầu làm dường như thiện, về sau trở thành ác. Ngược lại, có những việc bắt đầu thấy như ác, về sau lại thiện. Hoặc một hành vi, mà ở địa phương này cho là thiện, ở địa phương khác lại cho là ác, thời hạn trước bảo là thiện, thời hạn sau nói là ác, khiến mọi người nghi vấn ý nghĩa thiện ác trên trần gian. Đọc kỹ và nghiền ngẫm chín chắn quyển kinh Thập Thiện, tất cả chúng ta sẽ xử lý được những sợ hãi nghi vấn trên. Chúng tôi dịch và giảng quyển kinh này, được những Thiền sinh ghi chép lại và cho ấn hành thông dụng. Để nói lên lòng tùy hỉ của mình, tôi viết lời đầu sách để ra mắt với quí fan hâm mộ .

THÍCH THANH TỪ (Viết tại Thiền viện Thường Chiếu Ngày 27-08-1997)

Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới, nếu chỉ bấy nhiêu giới đó mà tu thì kết quả mạng chung tái sanh làm người và được an ổn tương đối, chớ chưa tiến xa trên đường giác mà Phật đã dạy. Thế nên muốn tiến thêm thì phải tu Thập thiện. Có tu Thập thiện mới tiến dần từ vị trí của người tại gia đến xuất gia, hay tiến dần từ cõi người đến cõi trời và các quả Thánh. Vì vậy, pháp Thập thiện là bước tiến thứ hai của người tu tại gia.

Người xuất gia tu hành để được giải thoát thì tu pháp Tứ đế, hoặc quán Thập nhị nhân duyên hay hành Lục độ vạn hạnh đều phát nguồn từ Thập thiện. Nếu không tu Thập thiện thì dù thực hành pháp gì cũng không giải thoát được. Nên người xuất gia cũng y cứ pháp Thập thiện làm gốc, vì chỉ nói giáo lý cao siêu mà không tu Thập thiện, e giáo lý cao siêu ấy trở thành huyền hoặc. Bởi thế Thập thiện so với người xuất gia rất hệ trọng, chính là nền tảng đạo đức. Nếu nền tảng cơ bản đạo đức ở dưới thiếu, mà muốn tiến lên quả vị Thanh văn, Duyên giác, hay cầu chứng quả từ Sơ địa đến Thập địa Bồ-tát, hoặc cầu quả Phật thì khó thành tựu. Vì vậy người xuất gia không hề bỏ lỡ pháp Thập thiện mà tu những pháp giải thoát được .

Rộng hơn, pháp Thập thiện so với nhân gian, nếu mọi người biết ứng dụng trong đời sống thì mái ấm gia đình, xã hội, vương quốc, quốc tế sẽ được văn minh. Nền văn minh đó mới là nền văn minh chân thực. Kinh Thế Ký thuộc hệ A-hàm có ghi về kiếp tăng và kiếp giảm của quả đât như sau :

“ Ở trần gian vào thời kiếp tăng, con người sống đến tám mươi bốn ngàn tuổi, sau đó giảm dần còn bảy vạn, sáu vạn, năm vạn … cho tới hai trăm và ngày này con người sống khoảng chừng một trăm tuổi. Sở dĩ tuổi thọ và phước báo của con người suy giảm là do không tu pháp Thập thiện, mà ngược lại còn làm thập ác. Nếu mười điều ác ngày càng tăng thì phước báo tuổi thọ con người ngày càng giảm. Giảm cho đến khi nào mười điều ác dẫy đầy, không ai còn biết làm thiện và nghe danh từ thiện, thì tuổi thọ con người giảm xuống tột cùng chỉ còn mười tuổi thôi. Lúc bấy giờ tai ương cũng tràn ngập không hề kể lường, nên nói : “ thiên tai vạn họa không lường được ”. Nguyên do bởi con người tạo thập ác. Qua kiếp giảm con người làm ác cùng cực, chợt thức tỉnh tu thiện từ một cho đến mười điều thiện thì, phước báo tuổi thọ con người tăng dần lên đến tám mươi bốn ngàn tuổi và quốc tế trở thành an nhàn niềm hạnh phúc vô cùng. ”

Như vậy nếu con người cùng gây ác nghiệp dẫy đầy thì quốc tế tai ương liên miên. Nếu con người biết tu Thập thiện thì quốc tế loài người an vui như cõi Cực Lạc. Vậy xã hội loài người muốn được an vui cũng phải lấy Thập thiện làm cơ bản. Người tu từ cư sĩ tại gia cho đến xuất gia và người trần gian, nếu biết vận dụng pháp tu Thập thiện trong đời sống thì được bình an niềm hạnh phúc. Người xuất gia thì mau tiến đến quả giải thoát. Người đời thì phước báo ngày càng lớn, tuổi thọ ngày càng tăng. Có nhiều người tu nghe nói mười điều lành, tưởng là pháp tu của người cư sĩ nên xem thường. Nhưng kỳ thật mười điều lành này, nếu tất cả chúng ta tu viên mãn thì có hiệu dụng tự do giải thoát trong đời tu .

 kinh thập thiện giảng giải 1

GIẢNG ĐỀ KINH

Kinh Thập Thiện nói đủ là “ Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo ”. Kinh là những lời giáo huấn của đức Phật, vừa hợp với chân lý vừa hợp với căn cơ của người nghe. Dù ở trong bối cảnh nào người nghe ứng dụng tu hành đều được lợi ích lớn. Lời giáo huấn của Phật trải qua ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai không dời đổi, không sai lệch, nên được kết tập lại gọi là Kinh. Thập thiện là mười điều lành. Thế nào là điều lành, thế nào là điều chẳng lành?

Ai cũng khuyên ăn hiền ở lành, làm lành làm phải, tuy nhiên thực chất của điều lành như thế nào thì chưa biết rõ. Có nhiều người giải nghĩa : lành là không dữ, dữ thì không phải lành, hoặc lành là hiền, là tốt … Nói như vậy là giải thích nghĩa trống rỗng, không có lẽ rằng thật. Người đời có chút trình độ học vấn, hay lúng túng về yếu tố thiện ác. Giả sử một nhà giáo dạy học trò, gặp học trò khó dạy nên phải đánh răn phạt nó. Đánh xong cảm thấy lương tâm ray rứt hối hận, tự trách mình là nhà mô phạm đánh đập người ta là đã làm điều dữ rồi ! Người học trò bị đánh nhìn thầy giáo với đôi mắt không tình cảm, vì cho thầy giáo là người hung tàn. Vậy, thầy giáo đánh học trò khi nó ngỗ nghịch khó dạy có phải dữ không ? Những việc này cần phải giản trạch rõ ràng, kẻo hiểu nhầm rồi hành vi sai .

trái lại, có nhiều đứa trẻ ngỗ nghịch thiếu giáo dục, gặp ai nó cũng chửi bới phá phách. Có người biết, không quở trách không đánh phạt, mà còn mở lời ngọt ngào khen ngợi. Người như vậy có hiền không ? Vậy điều lành điều dữ giá trị ở chỗ nào ? Chúng ta cần phải phân định cho rõ ràng, thế nào là điều lành thế nào là điều dữ, để khi thao tác không bị hoang mang lo lắng chần chừ .

Phàm thao tác gì, đứng về mặt thời hạn, hiện tại, vị lai mình và người đều được quyền lợi, thì điều đó là lành. Hoặc hiện tại mình bị thiệt thòi mà người được quyền lợi, đó cũng là lành. Hay hiện tại mình bị thiệt thòi mà tương lai được quyền lợi, đó cũng là lành. Ngược lại hiện tại mình được lợi lộc mà vị lai bị khốn khổ, điều đó không phải là lành. Hoặc hiện tại mình được lợi mà người bị hại thì điều đó không phải là lành. Ví dụ thầy giáo đánh học trò, hiện tại thì thấy thầy giáo bị thiệt thòi vì đã lao nhọc lại còn mang tiếng không tốt. Nhưng vì quyền lợi của học trò, mà phải rầy phạt cho nó học và ngoan để tương lai nó có đủ tài đức, thành người tốt, hữu dụng trong xã hội. Lúc đầu thấy như thầy giáo bị thiệt thòi và học trò cũng bị thiệt thòi. Nhưng về sau thì học trò trở thành người tốt trong xã hội, trò biết ơn thầy đã giúp cho trò trở nên người tài đức .

Như vậy cả thầy lẫn trò ở hiện tại bị thiệt thòi mà ở vị lai được quyền lợi. Hoặc thấy người nghèo khó, ta đem tiền của đến giúp họ. Lúc đầu thấy như ta bị thiệt thòi vì phải bỏ tiền bỏ công ra để giúp. Nhưng người được giúp bớt khổ được vui, khi thấy người vui ta cũng vui lây. Vậy hiện tại ta và người được vui, tương lai cũng được vui. Đó cũng là điều thiện. Ngược lại trường hợp đứa học trò ngỗ nghịch lêu lổng không chịu học tập, thầy giáo không rầy không phạt, để nó muốn làm gì thì làm. Hiện tại thấy như ông thầy tốt, vì không có những lời nói và hành vi xúc phạm đến học trò. Nhưng đứa học trò hư hỏng, tương lai trở thành những người xấu ác trong xã hội. Thái độ của ông thầy như thế không gọi là lành. Đó là đứng về mặt thời hạn mà phân định điều lành hay dữ .

 kinh thập thiện giảng giải 2

Thế nên có nhiều hành vi thoáng thấy như dữ, nhưng thực chất lại là lành. Rồi cũng có nhiều hành vi thoáng nhìn như lành mà thực chất lại là dữ. Như vậy yếu tố lành hay dữ, phải xét đến hậu quả ở vị lai tốt hay xấu mà đoán định. Chớ cạn cợt nhìn thấy việc làm ở hiện tại mà quyết đoán e không đúng, mà phải xét tận hiệu quả ở vị lai. Lại nữa, yếu tố thiện ác còn phải đứng về mặt khoảng trống, điều quyền lợi phải đem đến cho nhiều người, mới đoán định được. Nếu một việc làm có hại chỉ một người mà có lợi hàng trăm hàng ngàn người, thì việc làm đó cũng được coi là thiện. Trong kinh nói về tiền thân của Phật có kể câu truyện : Có một Tôn giả cùng đi thuyền chung với đoàn người buôn .

Khi thuyền ra giữa sông lớn, trong thuyền có kẻ vô lương sắp ra tay giết đoàn người buôn để đoạt của. Tôn giả liền giết kẻ vô lương đó để cứu đoàn người buôn. Hành động của Tôn giả tuy ác với người vô lương, nhưng thiện so với đoàn người buôn. Làm như vậy tuy có tội với một người mà cứu được nhiều người. Thế nên phân định thiện ác phải nhìn thoáng đãng như vậy. Đứng về mặt thời hạn hiện tại có lợi, vị lai cũng có lợi, hoặc hiện tại tuy không có lợi mà vị lai thì có lợi. Hoặc giả khi hành vi tuy thiệt thòi một hai người mà vị lai quyền lợi cả trăm ngàn người, những trường hợp như vậy được xem là thiện chớ không phải là ác. Hiểu rõ ràng như vậy mới không lầm, chớ nhiều khi tất cả chúng ta cho điều đó là thiện kỳ thật lại là ác .

Chẳng hạn như những bà mẹ cưng con, con muốn điều gì là chiều theo điều ấy, không dám rầy nó, rốt sau con thành đứa hư hèn. Thoạt nhìn thấy như bà mẹ đó hiền, tuy nhiên rốt cuộc lại hóa thành dữ, vì làm hư đứa con. Ngày xưa ở Nước Trung Hoa có Khấu Chuẩn, thuở nhỏ ông lêu lổng rong chơi trốn học hoài. Mẹ ông thấy con hư hèn khó dạy, bà buồn lòng. Một hôm bà mẹ cầm trái cân chọi ông, trái cân chạm vào chân làm ông bị thương tích. Nhờ vậy mà ông sợ, không dám trốn học nữa và chăm sóc học tập. Sau ông trở thành người có tài năng, thì mẹ đã mất. Mỗi khi nhìn thấy vết thẹo trên chân là ông nhớ mẹ, ông khóc …

Thoáng nhìn qua thấy như mẹ ông Khấu Chuẩn ác, nhưng chính nhờ thái độ cứng rắn của bà, giúp cho Khấu Chuẩn trở thành người tốt. Vì vậy hành vi ném quả cân của bà được xem là thiện. Trong lãnh vực tu hành, vì không phân biệt được thiện ác, nên có nhiều người thiện mà lầm tưởng là ác. Chẳng hạn một vài Phật tử vào chùa thấy thầy Trụ trì phạt mấy chú Điệu quì hương. Mấy chú quì tàn cây hương mất hơn một tiếng đồng hồ đeo tay, hai đầu gối bị lõm vào đỏ ửng. Phật tử ấy nóng ruột, ngầm trách thầy Trụ trì thiếu từ bi, nhẫn tâm hành phạt người tu chịu đau đớn khổ sở. Như vậy thầy Trụ trì có thiếu từ bi không ? – Không. Tại sao ? Vì những chú Điệu vào chùa tu, từ cơm ăn, áo mặc, chỗ ở đến thuốc thang đều do thí chủ ủng hộ cúng dường. Nếu những chú lười biếng không chịu học Phật pháp, không tụng kinh ngồi thiền, cứ lêu lổng chơi đùa, thầy Trụ trì không răn phạt, để những chú Điệu hư hỏng làm thế nào có đủ đức hạnh và trí tuệ hầu đáp ơn thí chủ ? Sau khi chết vì chồng chất nợ nần nghiệp tội nên bị đọa. Vì tránh tội cho đệ tử, mà thầy Trụ trì phải răn phạt cho đệ tử sửa đổi. Nếu răn phạt mà không sửa đổi thì phải trục xuất. Hành động của thầy Trụ trì mới thấy như ác, nhưng xét kỹ thì quá từ bi .

Tóm lại, điều thiện là việc làm trong hiện tại, mình cùng người đều được quyền lợi và nhiều đời vị lai cũng được an vui. Hoặc hiện đời tuy mình bị thiệt thòi, người cũng có chút ít thiệt thòi, nhưng vị lai mình cùng người đều được quyền lợi an vui. Đó là điều thiện. Ngược lại, việc làm hiện tại mình có lợi mà di hại cho người, hoặc hiện tại mình có hại, người có hại, cho đến tương lai mình và người cùng đau khổ. Đó là việc ác. Nghiệp là ảnh hưởng tác động của thân khẩu ý lặp đi lặp lại nhiều lần thành thói quen. Và khi thành thói quen nó có sức mạnh dẫn người đi thọ quả báo hoặc vui hoặc khổ. Thế thường, người đời khi gặp cảnh sướng hay khổ thì nói số phận mình như vậy là phải chịu như vậy. Song, nếu là Phật tử có đổ thừa số phận và đồng ý số phận như người đời không ? – Không. Vì nói như thế thì không thông lý nhân quả nghiệp báo .

Lẽ ra Phật tử khi gặp cảnh khổ hay vui thì phải nói : “ do nghiệp mình đã tạo, nên mình phải chịu ”, chớ không nên nói do số phận. Tại sao như vậy ? – Vì nhân quả nghiệp báo rất đơn cử và tế nhị. Tục truyền truyền kiếp, chún g ta ai cũng thầm nghĩ rằng : Con người sanh ra là d o Thượng đế hay Tạo hóa sắp định sẵn số phận. Hễ sanh sinh ra, đời sống vui khổ như thế nào là chịu như vậy ấy, không biến hóa được. Hoặc có ý niệm : Con người sanh ra là do số mạng đời trước đã định sẵn. Bởi số mạng định sẵn nên phải sao chịu vậy. Thế nên gặp cảnh khổ, nói “ tại số tôi khổ ”, gặp cảnh sướng thì nói “ tại số tôi sướng ”. Hoặc ý niệm “ đời người sanh ra là do rủi may, rủi thì khổ, may thì vui, được là may, mất là rủi … ”, chớ sự sướng khổ của con người không do nhân duyên .

Cả ba thuyết trên, quí vị có người nào không mắc kẹt không ? Nếu không đổ thừa Tạo hóa thì đổ thừa số mạng, không đổ thừa số mạng thì đổ thừa rủi may. Cả ba thuyết trên Phật giáo không thừa nhận, mà Phật nói : “ Con người sanh ra kẻ khổ người sướng là do nghiệp. ” Vậy Nghiệp của đạo Phật có khác với Tạo hóa, có khác với số mạng, có khác với rủi may không ? Trong kinh A-hàm ( Agama ) Phật dạy : “ Chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp tươi kẻ thô xấu, người vui sướng kẻ xấu số, đều do hạnh nghiệp của chúng. ”

 kinh thập thiện giảng giải 3

Những ảnh hưởng tác động từ nơi tâm gọi là ý nghiệp, nơi miệng gọi là khẩu nghiệp, nơi thân gọi là thân nghiệp. Thân khẩu ý của con người tạo nên nghiệp, vì thế mà khổ vui là do mình tạo, chớ không do ai khác, cũng không phải Tạo hóa sắp định, cũng không do số mạng hay may rủi gây nên. Thí dụ một chú người trẻ tuổi thương một cô thiếu nữ, nhưng cô thương người khác, nên chú thất tình đau khổ. Một hôm chú thức tỉnh, tự trách mình là ngu dại. Từ đó chú buông bỏ tâm luyến ái cô gái ấy, nên hết đau khổ. Như vậy, cái khổ của chú người trẻ tuổi đó do ai tạo ? Do cô gái, do Tạo hóa, do số mạng, do rủi may, hay do chú ? – Do tâm ý chú mê lầm nên chú mới khổ ! Vậy khi mình khổ đổ thừa ai ? – Không đổ thừa ai cả, mà phải xét lại mình, coi nghiệp mình tạo có lỗi chỗ nào, để chuyển hóa nó .

Chú người trẻ tuổi lầm tưởng cô gái thương chú, nên chú thương cô. Nhưng thực sự thì cô gái thương người khác, nên chú khổ. Khi chú biết chú lầm, liền chuyển nghiệp ý bằng cách buông bỏ lòng luyến ái cô gái là chú hết khổ. Lại một ví dụ nữa : Ông A là người tương đối lương thiện, ông có một người bạn không tốt hay trộm cắp của người. Một hôm người bạn ông trộm được một món đồ quí, trị giá độ năm bảy triệu đồng. Khi bị mất đồ chủ nhà báo động tìm kiếm. Bạn ông A tới nhà ông, nói : “ Lâu nay ai cũng biết anh lương thiện, anh làm ơn cất giùm tôi món đồ này, sau tôi bán sẽ chia cho anh vài ba triệu. ” Ông A dấy khởi lòng tham nhận giữ của phi nghĩa đó. Người bạn ăn trộm bị bắt, bị tra khảo liền khai của quí ấy gởi tại nhà ông A, nên ông A cũng bị bắt lây. Khi bị bắt ông A ở tù đau khổ. Vậy cái khổ của ông A là tại ai ? Có phải tại Tạo hóa xếp bày cho ông A ở tù không ? Hay tại năm nay ông A rủi ro đáng tiếc ? Hay tại số mạng của ông A là phải ở tù ? Rõ ràng tại ông A không làm chủ được lòng tham, để cho ý ông tạo nghiệp ác khiến cho thân ông làm ác, nên ông phải chịu khổ .

Nếu lúc lòng tham dấy khởi ông chuyển được, ông khước từ không nhận cất của phi nghĩa để được chia tiền, thì ông đâu có bị bắt và bị ở tù vì tội chứa đồ gian ! Vậy, trước một thực trạng con người hoàn toàn có thể bị khổ mà cũng hoàn toàn có thể không khổ. Nghĩa là chỉ trong năm mười phút đồng hồ đeo tay, nếu con người hành vi với trí tuệ sáng suốt thì tất cả chúng ta chuyển được khổ. Cũng chỉ trong năm mười phút, con người hành vi với tham sân thì bị đau khổ. Khổ hay không khổ là do hạnh nghiệp của con người thiện hay ác mà ra vậy. Nếu biết do nghiệp ý của mình tham lam nên bị tù đày, cố gắng nỗ lực chuyển tâm niệm tham lam trở thành thanh bạch thì không khổ. Ngược lại không có nghĩa vụ và trách nhiệm với hành vi của mình, cứ đổ thừa cho số mạng, cho rủi may, thì không khi nào sửa đổi nghiệp chẳng lành của mình, đương nhiên là phải khổ. Đó là tôi nói nghiệp ở hiện tại .

Sau đây là nghiệp ở quá khứ kết tụ quả trong đời hiện tại và vị lai. Có người vừa được sanh ra là đã giàu sang sung sướng. Như vậy là do cái gì định ? Có phải do số mạng định không ? – Cũng không. Chúng ta nên biết nghiệp quả trong đạo Phật nói thông cả ba đời : quá khứ, hiện tại, vị lai. Nghiệp không phải chỉ thành tựu quả báo trong một đời. Có nhiều nghiệp tạo trong đời này, quả báo kết tụ cũng trong đời này, như ông A chứa đồ gian ở trên. Lại cũng có những nghiệp tạo ở hiện tại, tương lai mới thọ quả báo. Ví dụ ông Xoài hiện tại có thế lực giàu sang, ông làm khốn khổ ông Mít là người láng giềng. Lúc bấy giờ ông Mít cô thế nên nuốt hận. Vài mươi năm sau ông Mít có thế lực, ông Xoài thì cô thế, nên ông Mít báo thù ông Xoài, khiến ông Xoài trớ trêu khổ sở .

Khi bị ông Mít báo thù thì ông Xoài tức tối kêu oan : “ Tại sao người ta quá hung ác hại tôi khốn khổ như thế này ? ” Quí vị thấy ông Xoài có oan không ? – Không. Ông đã tạo nghiệp xấu với ông Mít mà ông quên, khi quả báo chẳng lành của nghiệp xấu kết tụ thì ông lại than trách. Đó là do ông không thấy được nghiệp xấu của ông đã tạo. Lại nữa, nghiệp của đời quá khứ trong kinh A-hàm Phật nói : “ Những chúng sanh nào nơi thân khẩu ý tạo nghiệp ác, thì khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ. Ngược lại những chúng sanh nào nơi thân khẩu ý tạo nghiệp lành, thì khi thân hoại mạng chung được sanh vào cõi lành. Và một phen sanh ra rồi chết đi, chết đi rồi sanh lại, cứ sanh rồi tử, tử rồi sanh không biết bao nhiêu lần. ”

Nhưng mỗi lần sống chết đó, thọ biết bao nỗi khổ niềm vui, do thân khẩu ý đã tạo nghiệp thiện hay ác ở đời trước. Xin hỏi quí vị lớn tuổi, xét lại tất cả chúng ta từ lúc biết đi đứng nói năng, cho đến nay bốn năm mươi tuổi, hoặc sáu bảy mươi tuổi, có ai làm lành trọn vẹn không ? Hay có khi làm cho người được quyền lợi vui cười, lại cũng có lúc làm cho người buồn chán đau khổ ? Đời này tất cả chúng ta vừa làm lành và cũng vừa làm ác. Lấy đó mà xét, đời trước cũng vậy, một trăm điều, tất cả chúng ta làm được bảy tám chục điều lành là tối đa, còn lại vài ba chục là điều ác. Vì vậy mà đời này sanh ra tuy cũng được giàu sang sung sướng, nhưng lâu lâu cũng có xảy ra tai nạn đáng tiếc đau khổ .

Người không đồng cảm nhân quả thông cả ba đời thì sẽ than trách : “ Tại sao tôi ăn ở hiền lành, mà gặp phải những chuyện bất tường khổ đau ? ” Ở đời có ai lương thiện trọn vẹn đâu ? Như tất cả chúng ta thấy trong đời hiện tại tuy biết tu làm lành, nhưng đôi lúc bất giác cũng làm cho người buồn khổ. Thế nên đôi lúc tất cả chúng ta cũng gặp khổ, cũng có buồn là do nghiệp thiện và ác mà tất cả chúng ta đã tạo xen lẫn ở đời trước đó vậy. Khi gặp khổ đừng đổ thừa cho ai cả, mà phải biết : Trước mình đã tạo nhân rồi nên đời này phải thọ nhận quả. Và cũng có nhiều người tuy họ ác, nhưng đâu phải suốt đời họ làm ác hết, mà đôi lúc họ cũng có làm một hai điều lành. Nên những người bần hàn nhiều lúc cũng có vài niềm vui .

Vậy muốn cho đời sau được an vui hết khổ thì, ngay giờ đây tránh những việc khiến cho người đau khổ và làm những việc giúp cho người hiện tại được quyền lợi sau cũng an vui. Đó là tạo nghiệp lành, ngược lại là tạo nghiệp ác. Như vậy, nghiệp trong đạo Phật khác với số mạng mà người đời đã nghĩ. Số mạng đã định rồi thì bó tay bất lực, không quy đổi được, đành chịu vậy. Còn nghiệp thì quy đổi được. Vì nghiệp là hành vi tạo tác của con người. Tạo tác xấu ác thì khổ, biết đó là việc ác khổ, liền đổi thao tác lành thì được an vui. Ví dụ ông Xoài tiêu pha phung phí nên mắc nợ, bị chủ nợ vây đòi làm phiền phức .

Muốn cho hết nợ, ông Xoài phải siêng năng thao tác, ăn tiêu chừng mực, dành tiền để trả nợ, trả một thời hạn là dứt nợ, không ai đến quấy rầy ông, ông được an ổn. Đó là cách chuyển nghiệp trong thực tiễn không ai phủ nhận được. Nếu tin theo số mạng cho rằng số tôi nghèo phải mang nợ, dù có nỗ lực làm cũng vô ích vì không quy đổi được, đành chịu nghèo, nợ nần vây phủ … Chuyển nghiệp bằng hai cách : Cách thứ nhất là đối trước của cải quí đắt tiền, lòng tham dấy khởi, biết đó là ý nghiệp ác, liền buông xả niệm tham, thì nghiệp thân không theo ý để tạo duyên lấy của người, không bị người bắt bớ, bỏ tù, đánh đập. Đó là chuyển nghiệp ý ác ngay khi khởi .

Trường hợp thứ hai là đang ở trong cảnh nghèo túng bệnh tật, ráng ăn ở hiền lành, làm điều phước đức, khiến cho nghiệp ác quá khứ mòn dần thì sẽ được an vui. Đó là chuyển nghiệp quá khứ từ từ. Người hiểu được lý nghiệp báo thì có sức mạnh ý thức, không yếu ớt trốn tránh nghĩa vụ và trách nhiệm mà mình đã tạo. Không làm ác gây đau khổ cho người, luôn nghĩ nói làm thiện, tạo cho mình một đời sống lành mạnh an vui, kiến thiết xây dựng xã hội tốt đẹp. Tóm lại, kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo là mười điều lành, Phật dạy cho chúng sanh nên làm để đi đến chỗ an ổn vui tươi …

 kinh thập thiện giảng giải 4

MỤC LỤC

00. Trang Bìa

01. Lời Đầu Sách

02. Kinh Thập Thiện Giảng Giải

03. Giảng Đề Kinh

04. Giảng Văn Kinh 1

05. Giảng Văn Kinh 2 :Thập Thiện

06. Giảng Văn Kinh 3 :Sát Sanh

07. Giảng Văn Kinh 4 :Trộm Cướp

08. Giảng Văn Kinh 5 :Tà Hạnh

09. Giảng Văn Kinh 6 :Vọng Ngữ

10. Giảng Văn Kinh 7 :Nói Hai Lưỡi

11. Giảng Văn Kinh 8 :Ác Khẩu

12. Giảng Văn Kinh 9 :Ỷ Ngữ

13. Giảng Văn Kinh 10 :Tham Dục

14. Giảng Văn Kinh 11 :Sân Hận

15. Giảng Văn Kinh 12 :Tà Kiến

16. Giảng Văn Kinh 13 :Thập Thiện Và Bố Thí

17. Giảng Văn Kinh 14 :Thập Thiện Và Lục Độ Ba-La-Mật

18. Giảng Văn Kinh 15 :Thập Thiện Và Từ Bi Hỉ Xả

19. Giảng Văn Kinh 16 :Thập Thiện Và Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo

20. Giảng Văn Kinh 17

21. Mục Lục

 thông tin cuối bài viếtthông tin new 2

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp