Tiểu Sử Thầy Thích Chân Tính Tiểu Sử Sư Ông Chân Tính » Chùa Hòa Phúc

Thầy Thích Chân Tính, thế danh Nguyễn Sỹ Cường, sinh năm 1958, tại Daklak, nguyên quán Bắc Ninh. Thầy là con thứ 2 trong gia đình có 7 anh chị em, thân phụ là cụ Nguyễn Sỹ Hiệu theo nghiệp nhà binh, thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Đảng đảm đang việc nội trợ. Quãng thời thơ ấu của Thầy ngoài việc làm lụng phụ giúp gia đình, với bẩm tính siêng năng, hiếu học và rất mê đọc sách nên Thầy đã tích lũy cho mình được một nguồn tri thức vững vàng.

Bạn đang xem: Thích chân tính tiểu sử

*Năm 1973, vào dịp nghỉ hè, nhân đọc cuốn sách “ Lược Truyện Đức Phật Thích Ca ”, Thầy đã hiểu về lý vô thường và thấy rõ thực chất đời sống trần gian là giả tạm. Từ đó, thiện căn ngày càng tăng trưởng và chủng tử Phật pháp như được hồi sinh phát khởi, do vậy, trong thời hạn này, đã có lúc Thầy trốn nhà vào chùa xin xuất gia học đạo, trước ý chí quyết tâm tha thiết hướng về Phật pháp, sau cuối nguyện vọng xuất gia học đạo cao quý của Thầy cũng được mái ấm gia đình đồng ý chấp thuận .

Cuối năm 1973, khi vừa tròn 15 tuổi, Thầy xuất gia với Đại lão Hòa thượng Ngộ Chân Tử tại chùa Hoằng Pháp. Xuất gia được 3 năm, năm 1976 Thầy được ân sư cho thọ giới Sa-di.

Đến năm 1979, Thầy vào TP. Hồ Chí Minh theo học những khóa Phật học. Năm 1981, Thầy thọ giới Tỳ-kheo, tại giới đàn chùa Long Hoa, Q. 3. Bên cạnh việc học Phật, năm 1985, Thầy là sinh viên khoa Ngữ Văn, trường Đại học Tổng hợp TP. TP HCM ( nay là trường ĐHKHXH&NV ) .Năm 1988, khi Hòa thượng ân sư viên tịch, Thầy được Giáo hội và huynh đệ trong tông môn tin tưởng giao trách nhiệm tiếp nối trụ trì chùa Hoằng Pháp cho đến ngày này. Vào cuối năm 1998, Thầy có chuyến hoằng pháp tại Đài Loan. Nhận thấy phương pháp hành trì, tu tập của chư Tăng và Phật tử nước bạn rất văn minh nên khi về nước, Thầy đã mạnh dạn biến hóa. Thầy quyết tâm triển khai quy mô tu tập dựa trên những kỹ năng và kiến thức đã học, nhưng có nhiều cải cách để tương thích hơn với truyền thống dân tộc bản địa, quốc gia, con người Nước Ta nói chung và Phật tử Nước Ta nói riêng. Từ đó, những Khóa Tu Phật Thất được mở ra và tăng trưởng cho đến ngày ngày hôm nay .

Năm 2005, với định hướng phát huy tinh thần hiếu đạo của con cái đối với cha mẹ, tập trung rèn luyện nhân cách, đạo đức làm người và phát triển nhận thức về lý nhân quả cho các bạn trẻ, lần đầu tiên Thầy tổ chức Khóa Tu Mùa Hè dành cho thanh thiếu niên để các bạn có cơ hội về chùa tu học.

Xem thêm:

Có nhiệt huyết, đạo tâm và hoài bão lớn trong các công tác Phật sự, nhất là trong việc ứng dụng giáo lý đạo Phật vào cuộc sống gia đình, Thầy đã dành nhiều tâm sức suy ngẫm về vấn đề đổi mới phương thức hoằng pháp, sao cho phù hợp với căn cơ và trình độ của quần chúng nhân dân, nhằm gieo duyên cho mọi người biết quay về nương tựa Tam bảo.

Hằng năm, ngoài việc tổ chức triển khai những công tác làm việc Phật sự tại bổn tự, Thầy còn dành thời hạn đến với những đạo tràng trong và ngoài nước. Không chỉ hướng dẫn oai nghi cho Phật tử và chứng tỏ những đại lễ Phật giáo, Thầy còn tổ chức triển khai những buổi san sẻ Phật pháp nhằm mục đích giúp mọi người phát khởi niềm tin Tam bảo, bổ trợ những kỹ năng và kiến thức, giáo lý cơ bản để ứng dụng trong tu học, giúp mọi người hướng đến một đời sống an nhàn, niềm hạnh phúc .Là một trưởng tử Như Lai luôn lấy trí tuệ làm sự nghiệp, ngoài việc tham học, giảng dạy Thầy còn dành nhiều thời hạn để viết, phiên dịch và biên soạn những đầu sách : Tôn Giáo Học So Sánh, Vua Pasenadi, Lược Truyện Đức Phật Thích Ca, Sữa Pháp Ban Mai, Tu Nhà, Phật Pháp Cứu Đời Tôi, Bằng Tất Cả Tấm Lòng, Chuyện Bình Thường, Những Điểm Đặc Sắc Của Phật Giáo, Đời Người, Nhìn Lại, Biết Lỗi Nên Sửa …

2. NHÂN DUYÊN THẦY TRÒHT Thích Chân Tính

Tôi chào đời tại Đắk Lắk năm 1958. Ý thức về cuộc đời bắt đầu tại Thành Ông Năm, Hóc Môn, Gia Định từ năm 1964 lúc học lớp 5 (bây giờ là lớp 1). Ba tôi là lính Liên Đoàn 30 Công Binh Chiến Đấu, sát bên cạnh chùa Hoằng Pháp. Nhà gần chợ Thành Ông Năm, thỉnh thoảng ba mẹ đi chùa Hoằng Pháp vào những dịp lễ, tết và tôi cũng diễm phúc được đi theo. Hòa thượng trụ trì chùa Hoằng Pháp có tặng cho ba mẹ tôi một số sách do Ngài biên soạn và ấn tống. Năm 1967 ba tôi chuyển về Sóc Trăng theo lệnh của cấp trên. Năm 1969 tiếp tục chuyển về Long Xuyên. Đi đâu ba mẹ tôi cũng đem theo những kinh sách mà Hòa thượng trụ trì chùa Hoằng Pháp tặng. Năm 1972 trong lúc nghỉ hè tôi có thời gian rảnh rỗi nên đã tìm đọc những cuốn kinh sách đó. Có lẽ do căn lành nhiều đời nên khi đọc tôi liền thích và bén duyên với Phật pháp. Tôi bắt đầu đi chùa tụng kinh, nghe pháp tại chùa Hội Tông gần nhà. Thỉnh thoảng đến tịnh xá Ngọc Giang tại thành phố Long Xuyên dự lễ cúng hội, quý sư có tặng những cuốn sách như Tứ Kệ Tĩnh Tâm, Ánh Nhiên Đăng, Giác Huệ Thi Tập,… đọc những sách này như thêm động lực thúc đẩy tôi hướng đến con đường xuất gia giải thoát. Nhờ thâm nhập kinh tạng, nên mỗi ngày đạo tâm tăng trưởng, tôi đã xin cha mẹ xuất gia nhưng không được sự đồng ý. Tôi quyết chí trốn nhà đi tu. Lần thứ nhất thất bại. Từ kinh nghiệm đó, lần thứ 2 tôi đã thành công và đến ở tu một ngôi chùa tại Chợ Mới, Long Xuyên. Thầy trụ trì đồng ý cho ở tập sự, thế nhưng được vài ngày thì tôi lại chán, vì lúc đó trong tâm tôi thích xuất gia theo hạnh khất sĩ. Tôi xin thầy trở về nhà, sau đó đến xin các sư ở tịnh xá xuất gia nhưng không được chấp nhận với lý do chưa đủ 18 tuổi. Tôi ở nhà tiếp tục nuôi chí xuất trần, để tâm vào việc tìm hiểu Phật pháp. Một hôm tôi đọc được cuốn Trên Đường Hành Đạo của Hòa thượng Ngộ Chân Tử, trụ trì chùa Hoằng Pháp. Biết được cuộc sống và đạo nghiệp của Hòa thượng từ bắc vào nam, thể hiện một bậc chân tu “Thượng cầu hạ hóa”. Tôi hết sức kính phục đạo hạnh và việc hoằng pháp lợi sinh của ngài. Tôi nghĩ đây chính là bậc thầy khả kính mà mình có thể nương tựa tu học. Tôi năn nỉ ba mẹ cho về chùa Hoằng Pháp xuất gia và song thân đã đồng ý.

Giữa năm 1973 tôi rời nhà ở Long Xuyên về Gia Định đến chùa Hoằng Pháp mở màn cuộc sống mới. Hòa thượng trụ trì lúc đó tuy tuổi đã 73 nhưng ngài còn rất khỏe mạnh, trông giống ông tiên, toát lên vẻ đẹp của bậc xuất trần thượng sĩ. Ngài có vầng trán cao, mũi to, khuôn mặt phúc hậu hồng hào, tai dài, đặc biệt quan trọng có chùm lông mọc từ lỗ tai, giọng nói tiếng cười rất có lực, đi đứng rất vững và nhanh. Sau 3 tháng tập sự tôi được thế phát xuất gia. Khi tôi đến chùa đã có 1 số ít sư huynh xuất gia trước và hơn 10 sư ở làng Cô Nhi Long Thành đến y chỉ với Hòa thượng tu học cũng như phụ giúp nuôi dưỡng những em cô nhi. Ngoài ra còn có 1 số ít chư Ni xuất gia với Hòa thượng và một số ít đến lệ thuộc tu học .

Sự có mặt của tôi tại chùa Hoằng Pháp nghĩ lại cũng là nhân duyên. Khi nhỏ lần đầu tiên tôi đến chùa Hoằng Pháp năm 1964. Chín năm sau (1973) tôi trở lại chùa Hoằng Pháp xuất gia. Năm 1979 tôi rời chùa lên thành phố tu học. Năm 1981 tôi vượt biên ra nước ngoài tưởng là không còn cơ hội trở lại chùa Hoằng Pháp, thế nhưng sự việc không thành. Năm 1988 Hòa thượng viên tịch, không còn huynh đệ nào khác kế thừa, tôi phải về gánh vác trọng trách trụ trì chùa Hoằng Pháp cho đến ngày nay. Có phải tất cả đều là nhân duyên.

Xem thêm:

… … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … ..

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp