TT Thích Chân Quang giải đáp một số nghi vấn về thiền – Thiền Tôn Phật Quang

Vừa qua, chiều ngày 03/10/2020 (nhằm ngày 17/08AL), nhận lời mời của TT Thích Đồng Bổn – Phó Viện trường Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam, TT Thích Chân Quang, Phó Ban Kinh tế Tài chánh TƯ GHPGVN đã quang lâm thuyết giảng giải đáp một số nghi vấn, thắc mắc về Thiền tại Giảng đường Chánh Trí thuộc Trung tâm Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam (Chùa Phật Học Xá Lợi, 89, Bà Huyện Thanh Quan, Phường 7, Quận 3, Tp HCM), với sự tham dự của hơn 1.000 thiền sinh và đông đảo Phật tử nhân khóa tu Thiền định kỳ hàng tháng.

Với lòng từ bi và trí tuệ, Thượng tọa nêu ra 1 số ít câu hỏi cơ bản rồi trực tiếp trả lời đúng trọng tâm, khiến cho những Phật tử tăng trưởng được niềm tin vững chãi khi quay về lệ thuộc Tam Bảo và củng cố sự kiên trì dũng mãnh để văn minh trên con đường Thiền, tìm ra được những giá trị sống đích thực .
Câu hỏi thứ nhất : Tại sao ta phải tu Thiền ? Theo Thượng tọa nếu nói nguyên do thì rất nhiều, có nguyên do nằm ở góc nhìn trong Phật Pháp, trong khoa học ; có nguyên do nằm ở góc nhìn so với quả đât, so với nền văn minh, so với sự tiến hóa của loài người, v.v.. Bởi Thiền ngoài đỉnh điểm là giác ngộ giải thoát, Thiền không chỉ góp thêm phần kiến thiết xây dựng Phật giáo, Thiền còn góp phần rất lớn trong việc thiết kế xây dựng con người và xã hội văn minh .

Nói về lý do nằm ở khía cạnh trong Phật Pháp, Thượng tọa nhắc lại một đoạn Kinh Tượng Pháp trong Tương Ưng Bộ Kinh (16.13), bằng ngôn ngữ của thời đại, đó là: Điều gì khiến cho đạo Phật rời xa thời chánh pháp, rơi vào thời kỳ tượng pháp? Trong kinh còn ghi lại lời Phật dạy rằng đó là vì những người đệ tử Phật đã thiếu mất 5 điều:
1. Lòng tôn kính Phật
2. Lòng tôn kính Pháp
3. Lòng tôn kính Tăng
4. Lòng tôn kính Giới Luật
5. Lòng tôn kính Thiền Định

Dịp này, Thượng tọa lý giải tại sao chúng sinh không đủ lòng tôn kính Phật, tôn kính Pháp, tôn kính Tăng, tôn kính Giới luật và tôn kính Thiền định. Đầu tiên, vì chưa đủ trí tuệ hiểu về sự vĩ đại của Đức Phật nên ta không có cảm hứng tôn kính. Có hiểu thì mới tôn kính sâu đậm được. Đây là chỗ rất khó. Tuy nhiên, suôn sẻ thay có một công thức ngược lại là ta cứ tôn kính trước rồi từ từ hiểu sau. Hiểu rồi mới tôn kính là logic của tâm ý, nhưng tôn kính trước rồi hiểu sau là logic của nhân quả. Ta cứ tôn kính Phật vô điều kiện kèm theo đi, vậy mà tự nhiên ta sẽ có thời cơ tu hành, thưởng thức và từ từ ta hiểu được Phật .
Thứ hai là tôn kính Pháp. Pháp là lời dạy của Đức Phật. Chỉ khi đủ lòng tôn kính Phật tuyệt đối thì tất cả chúng ta mới trân trọng, giữ gìn lời dạy của Ngài và cố gắng nỗ lực hiểu thâm thúy, hiểu đúng mực. Vì không đủ lòng tôn kính Phật nên người đời sau hiếm ai tôn kính Pháp, từ từ người ta mở màn chế ra những giáo lý mới, nghĩ rằng mình hay hơn Phật. Rất nhiều thời đại, rất nhiều vị Tông sư, nhiều vị Giảng sư đã bị cái lỗi này, tức thấy mình cũng mưu trí, nói giỏi, có năng lực lý luận, và đã thiết lập những lý luận mới mà không biết rằng khi so sánh so sánh với lời Phật dạy có ăn khớp hay không .
Còn người có lòng tôn kính Pháp rồi, mỗi khi nghĩ ra một điều gì hay liền so sánh Phật có dạy cái này không. Hoặc khi nghe một giáo pháp nào mới lạ thì so sánh liền xem có đúng với lời Phật dạy hay không .
Người tôn kính Pháp thật sự thì dù ngôn từ sử dụng không giống thời Đức Phật nữa nhưng phải làm thế nào nói cho đúng ý của Phật. Thứ hai, dù sử dụng chiêu thức, văn phong, phong thái mới thì cũng không được chế ra một kim chỉ nan, một một đạo lý lạ để gọi là thuyết phục con người. Đó là sự phản bội, vì toàn nói ý mình nghĩ ra mà không hề có so sánh với lời Phật dạy từ ngàn xưa. Đâu biết rằng mình thấy hay nhưng trọn vẹn sai với lời Phật dạy, vì sao ? chính bới thiếu lòng tôn kính Phật nên thiếu lòng tôn kính Pháp. Và vì thiếu lòng tôn kính Pháp cho nên vì thế không hiểu Chánh pháp của Phật dạy và tu sai, rồi kéo theo nhiều người cùng sai theo mình, làm cho đạo Phật suy tàn mau hơn .
Hễ nói sai lời Phật dạy, tất cả chúng ta lập tức ra ngoài Chánh pháp, dù hoàn toàn có thể vẫn mang hình thức của đạo Phật. Mà tu sai Chánh pháp cũng khiến năng lượng, phước đức, đạo đức, tâm linh của ta đều kém đi. Thực tế, biết bao người vì không có Chánh pháp mà cuộc sống thê lương đau khổ, vì tu sai với Chánh pháp mà sự tu hành bị gián đoạn, gãy đổ. Đây là điều ta phải rất là cẩn trọng .
Thứ ba là tôn kính Tăng. Tăng là những đệ tử của Phật, tuy nhiên không phải ai đầu tròn áo vuông cũng gọi là Tăng bởi có rất nhiều người giả tu. Mà khi gặp những người này thì ta không đủ lòng tôn kính Tăng và tự nhiên mình cũng không có động lực tu hành. Đó cũng là nguyên do đạo Phật suy tàn .
Đạo Phật hưng thịnh là bởi những đệ tử của Đức Phật tinh tấn tu hành và siêng năng làm phước. Mà để hoàn toàn có thể như vậy thì vai trò của Tăng rất là lớn. Vì nghĩa vụ và trách nhiệm của một vị Tăng là bằng tấm gương giới hạnh, đạo đức, trí tuệ của mình làm thế nào cho người ta bị hấp dẫn, tin cậy, yêu kính, khởi được lòng tôn kính Tăng để họ đi tới tinh tấn tu hành .
Theo Thượng tọa, không tôn kính Phật ; không tôn kính Pháp là lỗi của Phật tử, nhưng không khởi được lòng tôn kính Tăng không phải lỗi của họ mà là lỗi của Tăng. Ai muốn đi xuất gia xin hãy chú ý nghĩa vụ và trách nhiệm của một vị Tăng là “ giữ được niềm tin và làm chỗ phụ thuộc cho chúng sinh ” có một cánh cửa để bước vào Phật Pháp .
Thứ tư là tôn kính Giới luật. “ Giới ” là ngôn từ thời xưa, giờ đây ta phải nói rõ hơn là giới hạnh và đạo đức. Giữ giới là một yếu tố rất lớn mà cũng rất khó. Nhân đây, Thượng tọa nêu ra vài ví dụ trong thực tiễn để chứng tỏ cho quan điểm này, đồng thời đánh giá và nhận định “ Nếu Tăng Ni cho đến cư sĩ Phật tử có tôn kính đạo đức, tôn kính giới luật thì đạo Phật mới hưng thịnh. Mà đạo đức phải như Đức Phật dạy là 3.000 oai nghi ; 8 muôn tế hạnh, chứ không phải một vài điều đơn thuần .
Khi ta có một nền tảng đạo đức như thế ta sẽ ứng xử phát minh sáng tạo, ảnh hưởng tác động với mọi người trong từng trường hợp, từng trường hợp, từng con người, từng thời gian khác nhau mà đều đẹp, đều hài hòa và hợp lý cả, làm cho mọi người có thêm niềm tin có sự yên tâm so với chánh pháp. Nên nói tôn kính đạo đức và giới hạnh thì đây vừa là nghĩa vụ và trách nhiệm của chư Tăng và cũng vừa là nghĩa vụ và trách nhiệm của tổng thể cư sĩ, làm cho Phật Pháp được lan rộng đến nhân quần xã hội, thuyết phục được mọi người quy ngưỡng về đạo Phật .
Thứ năm là tôn kính thiền định, đây là câu trả lời “ Tại sao ta phải tu Thiền ”. Tu Thiền rất khó, có vậy ta mới thấy giá trị của sự tu hành. Ai tinh tấn ngồi thiền mỗi ngày là người đó tôn kính thiền định .
Mà để có được bước thứ 5 này, ta phải có đủ 4 bước trước. Theo trình tự, để có được cái thứ 5 thì ta phải có cái thứ tư là biết tôn kính đạo đức, giới hạnh ; để có được cái thứ tư thì ta có cái thứ ba là tôn kính Tăng ( có xúc cảm với bậc thầy nào đó ) ; và để được cái thứ ba này ta phải có cái thứ hai, thứ nhất là ta có tôn kính Pháp, có tôn kính Phật .
Kết lại, ta tu Thiền là để cho Phật pháp được vững chắc và hưng thịnh đúng với chánh pháp bắt đầu của Phật ; mà nếu nói với bản thân mình, nhờ tu thiền tự nhiên ta đỡ bệnh hơn ; và ta phải tu thiền vì sự giác ngộ của chính bản thân mình ; còn nếu đề cập tới tác động ảnh hưởng quốc tế thì ta tu Thiền là người góp phần cho sự cân đối giữa một quốc tế hỗn loạn. Và nếu nói tới tương lai của trái đất thì người tu Thiền là người mở đường để đưa quả đât tiến lên một tầm cao văn minh mới .
Để tiến lên tầm cao văn minh mới ngoài yếu tố khoa học kỹ thuật ( đưa con người lên một tầm cao văn minh mới ), còn có mạng lưới hệ thống văn hoá mới, cư xử mới, lao lý mới, và tâm linh mới. Tâm linh mới đó chính là Thiền định. Hiện nay trên quốc tế có rất nhiều tôn giáo, nhiều tín ngưỡng nhưng chưa phải nền văn minh mới. Chỉ khi nào hàng loạt những tín ngưỡng, những tôn giáo đó đều gặp nhau nơi cái giải pháp Thiền định hướng về vô ngã thì đó là ngày quốc tế được nâng lên tầm cao văn minh mới .
Ngày nay, ngoài vô số lời Phật dạy thì Thiền chính là yếu tố quan trọng làm cho quốc tế yêu quý đạo Phật. Cho nên, khi đã là đệ tử Phật thì ta phải ngồi Thiền. Đây là giá trị chính của đạo Phật. Còn ta chưa biết ngồi Thiền thì là một điều rất uổng phí trong cuộc sống tu hành của mình, nhất là Tăng Ni .
Tiếp theo, câu hỏi thứ hai : Tại sao có những người tu Thiền bị điên ?
Có hai dạng : một là điên do cấu trúc não bộ bị hư ; hai là điên do cấu trúc tâm ý bị hư. Trong hai cấu trúc này cái nào hư cũng làm ta điên cả, làm ta tâm lý không còn logic nữa, nên nhìn quốc tế ta hiểu sai, ta ứng xử sai .
Và người tu Thiền mà bị điên là người tu sai với lời Phật dạy, khiến cho một trong hai cấu trúc bị hư ( não bộ hoặc tâm ý bị hư ), hoặc hư cả hai .
Thế nào là tu không đúng lời Phật dạy ? Có thể sai về kỹ thuật, về tiềm năng và cái cơ bản sai. Về tiềm năng sai là do họ không nhắm đến vô ngã mà nhắm đến siêu ngã, hoặc đặt tiềm năng phải hơn người … Người như vậy tâm ý và não bộ đều sẽ hư. Người tu đúng thì chỉ thấy mình là cỏ rác cát bụi tầm thường .
Còn cơ bản sai là gì ? Để có cơ bản ta có 3 điều : đạo đức, phước và khí công. Một người tu Thiền cần phải chuẩn bị sẵn sàng cái cơ bản này cho kĩ. Ta chưa có đạo đức mà muốn làm Thiền sư đắc đạo, đó là một loại tham vọng ; ta chưa đủ phước mà muốn tu cho nhanh đắc đạo là sai ; hoặc ta chưa đủ nội lực mà nỗ lực quá sức làm hư não là sai. Cho nên tu hành ta đừng xem thường việc tập luyện tăng cường nội lực, nhất là nội lực luôn có hơi thở đi theo ( tức nội lực từ khí công ). Đó là cơ bản phải đủ .
Ngoài ra, giải pháp kỹ thuật sai cũng làm hư bộ não. Trong cái chiêu thức này vừa là giải pháp an trú tâm, chiêu thức hơi thở và chiêu thức quán tưởng .
Với chiêu thức quán tưởng ta phải giữ cái căn bản quán thân này là vô thường, hư ảo, một ngày nào đó sẽ tan hoại. Và ta phải chiêm nghiệm vô thường thật kĩ cho đến nơi đến chốn, không được cạn cợt … Thân này chẳng có gì là ta, đó là cái quán tưởng cơ bản nhìn mọi điều trên trần gian này là vô thường tạm bợ ; nhìn chúng sinh phải hiểu nghĩa vụ và trách nhiệm của mình là yêu thương ; nhìn mọi vinh quang phong phú này thấy là giấc mộng .
Phương pháp quán tưởng đúng là ta phải giữ căn bản quán “ thân này là vô thường ”, “ tâm này là vô ngã ”. Trong cái đúng giải pháp thì hướng về vô ngã là cái đúng tiên phong. Tu mà làm tăng bản ngã, càng tu càng kiêu mạn thì cuộc sống ta tan vỡ liền .

Về kỹ thuật hơi thở, ta thở đúng thì có sức khoẻ, có sự tỉnh giác, ngược lại ta thở sai thì tâm ta bị động loạn. Hơi thở phải chậm – êm – ít, đừng ham thở nhiều, thở mạnh, thở gấp rút. Để đạt hơi thở chậm – êm – ít thì trước tiên ta biết hơi thở mà không điều khiển, nghĩa là ta theo dõi sự chuyển động của hơi thở một cách sát sao từng chút một, biết rõ cơ thể mình đang thở vào… cơ thể mình đang thở ra. Ta chỉ quan sát thôi chứ không được can thiệp để kéo hơi thở dài hay ngắn theo ý mình, căn bản là vậy.

Sau này, khi đã quen với hơi thở, chỉ cần nhìn hơi thở là biết tâm mình động hay tịnh. Nhìn hơi thở nhanh là biết tâm đang động, liền đó ta kiểm soát và điều chỉnh hơi thở giữ nó chậm – êm – ít lại. Đó là ta nắm hơi thở để điều chỉnh tâm mình .
Trong cái hơi thở chậm – êm – ít đó thì thường ta thở vào biết thân này vô thường … rồi thở ra biết thân này vô thường … cứ thế trong suốt tiến trình tu, nguyên tắc nó chỉ vậy .
Tuy nhiên, người khởi đầu đạt được hơi thở chậm – ít – êm thì khi nó vào rồi nó rất chậm để đi ra, tự nó như vậy. Và trong quy trình tiến độ này nó giống như dừng hơi thở lại mặc dầu ta không cố ý. Giống như là thở ba thì, nó vào … dừng một lát … rồi thở ra … đều chậm – êm – ít. Và để tâm ở body toàn thân kể cả nơi thấp nhất của thân. Đó là kỹ thuật đúng .
Khi ta có kỹ thuật đúng, cơ bản đúng, tiềm năng đúng thì bộ não mình không hư, tâm ý không hư, nên tu Thiền không bị điên, vậy thôi .
Ngoài ra, cái cơ bản tôn kính Phật sẽ giữ cho ta không bị sai, không bị điên, khi nào cũng khiêm hạ hướng về vô ngã. Ta phải tu làm thế nào càng lúc bản ngã mình càng mềm ra, khiến ai đến gần cũng thấy thư thái thoải mái và dễ chịu, đó là tu đúng .
Câu thứ ba : Tu thiền có khó chứng không ?
Câu trả lời là, từ thân phận phàm phu tiến lên thân phận của một bậc Thánh không khi nào là dễ cả. Có những trường hợp đốn ngộ, chỉ nghe một bài pháp, một câu kinh … là đã được chứng đạo thì tất cả chúng ta đừng nghĩ vị đó như mong muốn trong hiện tại mà phải hiểu rằng họ cũng đã tu hành, gieo trồng duyên lành trong rất nhiều kiếp xưa rồi, nhiều khi ta thấy bất ngờ đột ngột chứ không phải bất ngờ đột ngột. Cái bất thần của họ thật sự là giọt nước tràn ly, họ đã nhiều kiếp tiến dần, tiến dần đến quả vị rồi .

Trong đạo Phật, chứng Thiền có 4 tầng bậc: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Như vậy, người tu chứng trong đạo Phật không đột ngột chứng cao mà luôn phải chứng từng bước. Cái tâm nghĩ dễ tu dễ chứng là cái tâm sai, sẽ khiến ta tổn phước nặng nề ngay từ khi bắt đầu tu. Sự tu hành, chứng ngộ là cả một quá trình lâu dài, theo trình tự cụ thể, chứ không thể xốc nổi, vội vàng ngày một ngày hai mà thành tựu đươc.
– Câu thứ tư: Có phải tu Thiền rồi sẽ được thần thông không?

Khi tâm ta thanh tịnh, vào định sâu rất sâu thì thần thông phải Open, đó là quy luật tự nhiên. Đúng là nếu tu thiền có hiệu quả thì có thần thông. Tuy nhiên thần thông có hai loại : một loại của người chứng Thiền và một loại của người chứng Thánh. Với người chứng thiền mà chưa chứng Thánh thì cũng có thần thông, hễ tâm họ vào định sâu thì có thần thông, nhưng khi có thần thông, họ hay tự hào, hay nói về sự tự tại, khoe khoang thần thông thấy mình có năng lượng cao siêu .
Còn với người thật sự đã chứng Thánh thì dù có thần thông nhưng kèm theo đó vẫn là đạo đức thâm thúy tinh xảo, sự kín kẽ khiêm cung. Họ giữ được tình cảm hùng vĩ, có nghĩa vụ và trách nhiệm với chúng sinh, với cuộc sống. Người chứng Thánh có thần thông nhưng không khoe vì họ quan tâm đạo đức nhiều hơn. Đạo đức mới quan trọng, mới đem đến quyền lợi, niềm hạnh phúc và đổi khác được số phận của người khác .
Ta cần người có thần thông trên cuộc sống này để làm gì .
Số phận của ta do nghiệp, Luật nhân quả chi phối nhưng ta lại muốn nhờ thần thông của ai đó để đổi khác số phận. Điều này trên cơ bản là sai. Quan trọng ta có công đức hay không mới chuyển được nghiệp, chứ không phải nhờ vả thần thông của người khác để hay đổi được số phận của mình .
Tu thiền nếu chứng thì có thần thông nhưng quan trọng cái lợi của thần thông là gì ? Đầu tiên thần thông của người kia không có phải là đổi khác số phận của mình, nhưng mà phần lớn con người thích tìm những người có thần thông để nhờ vả. Quan điểm đó sai, vì ở đầu cuối vần là cái duyên phước, công đức của chính mình biến hóa số phận của mình. Tuy nhiên vẫn có cái sự đối sánh tương quan, một sự tương hỗ tương đối, khiến cho người có thần thông hoàn toàn có thể giúp ta qua được nạn tai, qua được quy trình tiến độ khó khăn vất vả, để sau này ta làm những điều công đức bù lại .
– Câu thứ năm : Có phải tâm thanh tịnh, không tâm lý nữa làm cho trí tuệ phát sinh ( định sinh tuệ ) không ? Đúng, nhưng chưa đủ. Để có trí tuệ tất cả chúng ta cần nhiều yếu tố gộp lại chứ không phải chỉ có thiền định. Bên cạnh việc giữ tâm thanh tịnh yên lắng, ta còn phải làm nhiều việc thiện nữa. Không phải tâm thanh tịnh không tâm lý gì mà gọi là định sinh tuệ, vì ta còn có giới nữa. Giới sinh định ; định sinh tuệ ; mà cái nghĩa lớn của giới nó gồm cả đạo đức và điều thiện ở trong. Nên cái đầu này phải biết tâm lý những điều tốt để làm những điều tốt cho người khác, nói những điều tốt đẹp và ở đầu cuối là phải biết thiền định lắng mọi tâm lý xuống thì người đó sẽ có trí tuệ .
Nhiều người đệ tử Phật sợ bận tâm nên không làm gì cả ( do tưởng rằng định là toàn bộ ), thế là họ thiếu phước, dẫn tới tâm không thanh tịnh nổi mà cũng góp thêm phần làm cho hàng loạt Phật giáo suy tàn. Chính việc ta bận tâm tâm lý cách trợ giúp mọi người trong đời sống cũng như trong sự tu hành sẽ làm cho trí tuệ mình ngày càng sắc bén hơn. Vì vậy, trong Bát Chánh Đạo mới có cái logic của nó từ Chánh kiến đến Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, dẫn từ từ ta mới vào được Chánh định. Chứ không ngắt ngang, chỉ cần tâm mình vào định ( tâm như hư không ) là mình có trí tuệ, thần thông. Đó là hiểu sai .
– Câu thứ sáu : Nhờ tâm lý, sự mưu trí, phát minh sáng tạo thì xã hội mới tăng trưởng. Vậy nếu ta lôi kéo mọi người tĩnh tâm đừng tâm lý gì cả thì có phải Thiền đã dẫn quốc tế đi vào sự lạc hậu đình trệ hay không ?
Nếu nói rằng do mưu trí phát minh sáng tạo rồi đưa đến một xã hội tăng trưởng thì câu nói này thiếu, vì sự tăng trưởng gồm có nhiều yếu tố chứ không phải chỉ riêng phát minh sáng tạo về kỹ thuật. Đừng khi nào bỏ quên yếu tố đạo đức. Nếu con người cứ thi nhau sản xuất ra máy móc thì chính con người sẽ bị giết hại, hủy hoại do chính kỹ thuật mình tạo ra. Sự mưu trí phát minh sáng tạo mà không có đạo đức xu thế thì sẽ hủy hoại cả quốc tế. Một quốc tế đáng sống không phải là một quốc tế căng đầu ra sản xuất cái mới mà là một quốc tế con người có quyền được nghỉ ngơi, thư giãn giải trí và nhất là tĩnh tâm ( thiền định ) .
– Câu thứ bảy : Có hai loại Thiền, một loại đi tìm siêu ngã và một loại đi tìm vô ngã, vậy bên nào đúng ?
Chúng ta xác lập mình tu Thiền để đi tìm tiềm năng vô ngã như lời Phật dạy, không có gì hoài nghi nữa. Chúng ta tu hành khó khăn vất vả để trở thành cát bụi hư vô, không là gì cả, chứ không phải tìm một bản ngã rồi gán cho nó những danh từ hoa mỹ, là cao siêu trùm khắp ( siêu ngã ) .
Tuy nhiên, có rất nhiều người không suôn sẻ do lòng tôn kính Phật không đủ nên họ đã chọn con đường đi tìm siêu ngã thì ta không tranh cãi, ta vẫn giữ thái độ khiêm hạ, yêu thương, độ lượng, thông cảm. Nếu có thời cơ để chia sẽ, lý giải thì ta cũng chuẩn bị sẵn sàng mở lòng đưa người ta về với chánh đạo. Chính thái độ này lại là sự thuyết phục hiệu suất cao nhất, còn nếu ta stress cãi lý thì hai bên đều giống nhau, chẳng ai thuyết phục được ai cả .
Do thời hạn có hạn nên phần phỏng vấn tạm ngưng tại câu hỏi thứ bảy. Khóa tu tiếp theo Thượng tọa sẽ liên tục phỏng vấn những câu hỏi còn lại .
Trên đây là những giải đáp cho những Phật tử những vướng mắc tương quan đến Thiền, khả dĩ làm hành trang tư lương cho mọi người suốt cuộc sống tu tập. Những câu hỏi thì sắc bén mà lời giải đáp lại thâm sâu, vừa lôgic, vừa hài hòa và hợp lý, dễ hiểu, trải qua những ví dụ đơn cử, giản dị và đơn giản, rất có ích cho người điều tra và nghiên cứu, cũng như sự tu học của những hàng hậu tấn, Phật tử về con đường Thiền đúng lại từ thời Đức Phật dạy .
Chỉ cần tất cả chúng ta tu đúng giải pháp Thiền Phật giáo thì sẽ có nhiều tân tiến trong quy trình thực hành thực tế. Hành giả sẽ không khi nào bị những điều tai hại, ai tu thiền bị điên chắc như đinh người đó đã tu lạc Pháp hoặc tu theo Thiền định của ngoại đạo .

Chúng ta không phủ nhận tu Thiền cực khổ vô cùng, nhưng cái khổ đó sẽ đưa ta vào sự giác ngộ tâm linh. Đức Phật và tất cả Thánh nhân khác cũng đều đắc đạo nhờ Thiền định. Tu Thiền là cuộc hành trình của mỗi người và ai cũng cần dũng cảm dấn thân thực hành để có thể thấu hiểu và làm chủ. Tuy nhiên, trong tu tập luôn cần những vị Thầy có sự tu tập hành trì, có kinh nghiệm hướng dẫn, giúp đỡ để trên đường tu của ta mỗi ngày mỗi tiến cho hết khổ được vui.

Ngoài ra, cùng với sự yêu quý học hỏi giáo lý, những câu phỏng vấn quan trọng trên sẽ giúp tất cả chúng ta tránh được sự ngộ nhận trong tu tập, dẫn đến việc tổn phước. Đồng thời, tránh được sự dẫn dụ, mê mị của ngoại đạo, để giữ được sự kiên trì với con đường tu hành của mình. Con đường giác ngộ nhờ đó sẽ trở nên đúng đắn, thuận tiện hơn. / .

Tổ truyền thông

Dưới đây là 1 số hình ảnh khóa thiền :

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp