Sơ đồ tư duy Làng dễ nhớ, ngắn gọn

Sơ đồ tư duy Làng dễ nhớ, ngắn gọn

Sơ đồ tư duy Làng dễ nhớ, ngắn gọn

Tải xuống

Nhằm mục tiêu giúp học viên thuận tiện hệ thống hóa được kiến thức và kỹ năng, nội dung những tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 9, chúng tôi biên soạn bài viết Sơ đồ tư duy Làng dễ nhớ, ngắn gọn với vừa đủ những nội dung như tìm hiểu và khám phá chung về tác phẩm, tác giả, bố cục tổng quan, dàn ý nghiên cứu và phân tích, bài văn mẫu nghiên cứu và phân tích, …. Hi vọng qua Sơ đồ tư duy Làng sẽ giúp học viên nắm được nội dung cơ bản của Làng .

Bài giảng: Làng – Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

A. Sơ đồ tư duy Làng

1

B. Tìm hiểu Làng

I. Tác giả

– Kim Lân ( 1920 – 2007 ) tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở huyện Từ Sơn – tỉnh Thành Phố Bắc Ninh .
– Ông là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông thường viết về nông thôn và người nông dân .
– Tác phẩm chính : Nên vợ nên chồng ( tập truyện ngắn, 1955 ), Con chó xấu xí ( tập truyện ngắn, 1962 ) .
– Năm 2001, Kim Lân được khuyến mãi phần thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật và thẩm mỹ .
– Phong cách thẩm mỹ và nghệ thuật : Kim Lân có một lối viết rất tự nhiên, chậm rãi, nhẹ nhàng, hóm hỉnh và giàu cảm hứng ; cách miêu tả rất thân thiện, chân thực. Đặc biệt ông có biệt tài nghiên cứu và phân tích tâm lí nhân vật .

II. Tìm hiểu chung tác phẩm

1. Thể loại : Truyện ngắn
2. Hoàn cảnh sáng tác
Truyện ngắn Làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng trên Tạp chí văn nghệ năm 1948 .
3. Tóm tắt truyện :
Truyện kể về ông Hai rất yêu làng, yêu nước. Khi Pháp quay trở lại xâm lược, ông phải rời làng đi tản cư nên rất nhớ làng, do đó ông thường ra phòng thông tin đến nghe tin tức kháng chiến. Ở khu tán cư, ông nghe được tin làng Chợ Dầu là làng Việt gian theo Tây. Ông rất bàng hoàng, xấu hổ, lo ngại sợ tin này loan ra thì người dân làng Dầu ở đây biết sống thế nào. Suốt mấy ngày trời ông chẳng dám đi đâu. Rồi tin này ai cũng biết. Nhà ông và những người dân làng Dầu đều bị xa lánh và khinh bỉ. Trong thực trạng bế tắc, vô vọng đó ông dù yêu làng nhưng vẫn không ưng ý với hành vi theo Tây của làng. Ông vẫn quyết giữ trọn lòng trung thành với chủ với Cách mạng, với kháng chiến và ông chỉ biết tâm sự điều đó với con trai của mình. Cuối cùng, ông quản trị xã của làng Chợ Dầu lên khu tản cư để cải chính tin làng Dầu theo Tây. Ông rất vui đi khoe tin với tổng thể mọi người. Ông nhủ lòng càng phải yêu làng, yêu nước hơn nữa .
4. Bố cục : 3 phần

– Phần 1: (Từ đầu đến… múa cả lên vui quá): Tâm trạng của ông Hai trước khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.

– Phần 2: (Tiếp đến… đôi phần): Tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng theo giặc.

– Phần 3 : ( Còn lại ) : Tâm trạng ông Hai khi nghe tin cải chính .
5. Giá trị nội dung
Tác phẩm đề cập tới tình yêu làng quê và lòng yêu nước cùng ý thức kháng chiến của người nông dân phải rời làng đi tản cư khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra được biểu lộ một cách chân thực, thâm thúy và cảm động ở nhân vật ông Hai .
6. Giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ
Tác giả đã rất thành công xuất sắc trong việc tạo dựng trường hợp thắt nút và cởi nút câu truyện rất tự nhiên và thẩm mỹ và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật qua hành vi tâm lý và lời nói, từ đó tạo ra được một tác phẩm hoàn hảo nhất .

III. Dàn ý phân tích tác phẩm

1. Hoàn cảnh đặc biệt của ông Hai

– Xuất thân là một người nông dân quanh năm gắn bó với lũy tre làng .
– Một người yêu làng nhưng phải rời làng đi tản cư .

2. Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai

a. Người nông dân mang tình yêu làng tha thiết
– Ông tự hào, hãnh diện về làng và kể nó với niềm mê hồn, náo nức đến quái đản :
+ Trước cách mạng tháng tám : Ông khoe con đường làng lát toàn đá xanh, trời mưa đi chẳng lấm chân ; ông khoe sinh phần của một vị quan tổng đốc trong làng .
+ Khi kháng chiến bùng nổ : Ông khoe về một làng quê đi theo kháng chiến làm cách mạng ; ông kể một cách rành rọt những hộ, những ụ, những giao thông vận tải hầm hào, ….
– Khi buộc ông phải tảm cư, ông Hai đã rất nhớ về làng :
+ Ông tiếp tục chạy sang nhà bác Thứ để kể lể đủ thứ chuyện về làng, để vơi đi cái nỗi nhớ làng .
+ Ông kể cho sướng cái miệng, cho vơi cái lòng mà không cần biết người nghe có thích hay không .
+ Ông tiếp tục theo dõi tình hình của làng cũng như tình hình chiến sự .
b. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc :
– Ban đầu, ông chết lặng vì đau đớn, tủi hổ như không hề điều khiển và tinh chỉnh được khung hình của mình : “ Có ông lão nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng hẳn đi, tưởng như không thở được ” .
– Cái tin ấy quá giật mình và khi trấn tĩnh lại, ông còn cố không tin vào cái tin dữ ấy. Nhưng rồi những người đi tản cư kể rành rọt quá, lại khẳng định chắc chắn họ “ vừa ở dưới ấy lên ”, “ mắt thấy tai nghe ”, làm ông không hề không tin .

– Sau giây phút ấy, tất cả dường như sụp đổ, tâm trí ông bị ám ảnh, lo lắng, day dứt: Ông vờ lảng ra chỗ khác, rồi về thẳng nhà. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”.

– Về đến nhà ông nằm vật ra giường, nhìn lũ con, tủi thân mà “ nước mắt ông cứ tràn ra ” .
– Muôn vàn nỗi lo ùa về trông tâm lý ông :
+ Ông lo cho số phận của những đứa con rồi sẽ bị khinh bỉ, hắt hủi vì là trẻ con làng Việt gian : “ Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư ? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu ” .
+ Ông lo cho bao nhiêu người tản cư làng ông sẽ bị khinh, tẩy chay, thù hằn, ghê tởm : “ Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian ! … Suốt cái nước Nước Ta này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước … ” .
+ Ông lo cho tương lai của mái ấm gia đình rồi sẽ đi đâu, về đâu, làm ăn sinh sống thế nào : “ Rồi đây biết làm ăn, kinh doanh làm thế nào ? Ai người ta chứa ” .
– Trong trạng thái khủng hoảng cục bộ, khó chịu ông nắm chặt hai tay mà rít : “ chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để rồi nhục nhã thế này ”. Niềm tin bị phảm bội, những mối hoài nghi bùng lên và giằng xé trong ông : “ ông kiểm điểm từng người trong óc ” .
– Mấy ngày sau đó, ông sợ hãi, sợ hãi khi phải đối lập với đời sống xung quanh : Ông không dám đi đâu, chỉ quẩn quanh ở nhà và nghe ngóng tình hình ngoài. Ông không dám trò chuyện với vợ, hay ông không dám nhìn thẳng vào trong thực tiễn phũ phàng đang làm ông đớn đau .
– Tình yêu làng quê và ý thức yêu nước đã dẫn đến cuộc xung đột nội tâm ở ông Hai :
+ Ông thoáng có ý nghĩ “ hay là trở lại làng ” – rồi ông lại gạt bỏ ý nghĩ về làng bởi “ làng đã theo Tây, về làng là rời bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu quay trở lại kiếp sống nô lệ ” .
+ Buộc phải lựa chọn một, ông đã tự xác lập một cách đau đớn nhưng dứt khoát “ Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù ”. Nhưng dù đã dứt khoát như vậy, ông vẫn không hề dứt bỏ tình cảm với nơi mà ông đã sinh ra, lớn lên và gắn bó đến gần hết cuộc sống. Bởi vậy, ông muốn được tâm sự, như để phân bua, để minh oan, cởi bỏ nỗi lòng .
+ Ông rút hết nỗi lòng vào những lời thủ thỉ, tâm sự với đứa con ngây thơ, nhỏ xíu .
⇒ Dưới hình thức trò chuyện, tâm sự với đứa con, nhưng thực ra là lời tự vấn, để tự minh oan và chứng minh và khẳng định tấm lòng thủy chung của mình với làng, kháng chiến, cách mạng ; để làm vơi đi phần nào những khổ tâm đã dằn vặt ông bấy lâu nay .

3. Tâm trạng ông Hai khi nghe tin cải chính.

– Thái độ ông Hai đổi khác hẳn :
+ “ cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng vui tươi, rạng rỡ hẳn lên ” .
+ Mồm bỏm bẻm nhai trầu, mắt hấp háy .
+ Chạy đi khoe khắp nơi về làng của mình .
⇒ Vui mừng tột độ, tự hào, hãnh diện khi làng không theo giặc, cũng đồng thời thấy được tình yêu làng, yêu nước của người nông dân như ông Hai .

V. Bài phân tích

Với người nông dân Nước Ta, có lẽ rằng không có thứ tình cảm nào tự nhiên hơn tình yêu quốc gia. Tình yêu ấy nhẹ nhàng thấm vào máu thịt qua tình cảm dành cho người thân trong gia đình, làng xóm, quê nhà. Nó tưởng như xa xôi nhưng lại thật thân mật, đơn giản và giản dị. Thấu hiểu những điều đó, nhà văn Kim Lân đã có một thiên truyện thật hay viết về tình yêu quê nhà quốc gia của người nông dân : “ Làng ”. Diễn biến tâm trạng nhân vật chính của tác phẩm – nhân vật ông Hai là một thành công xuất sắc lớn của tác giả khi viết về đề tài yêu nước .
Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết, yêu đến nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng Chợ Dầu, ông nói một cách say sưa mà không cần biết người nghe có quan tâm hay không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt hạng sang, không có lấy một hạt thóc đất. Ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc lạ, có bề dày lịch sử dân tộc. Nhưng khi cách mạng thành công xuất sắc, nó đã giúp ông hiểu được sự sai lầm đáng tiếc của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập những buổi tập quân sự chiến lược có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập. Ông còn khoe cả những hố, những ụ, những hào, … lắm khu công trình không để đâu hết. Chính cái trường hợp ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng ông mang theo toàn bộ nỗi niềm thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day dứt khôn nguôi. Quả thật, cuộc sống và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng. Tự hào và yêu nơi “ chôn rau cắt rốn ” của mình trở thành một truyền thống lịch sử và tâm lí chung của mọi người nông dân thời giờ đây. Có thể tình yêu nước của họ bắt nguồn từ cái đơn thuần : cây đa, giếng nước, sân đình … và nâng cao lên đó chính là : tình yêu quốc gia. Tới đây, là chợt nhớ đến câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua : lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc .
Tình yêu làng của ông Hai càng được bộc lộ rõ qua những ngày ông đi tản cư. Ông luôn nhớ về làng những ngày ở vùng tản cư, ông yêu làng, yêu đường làng, ngõ xóm, yêu nhà ngói, sân gạch. Ông yêu tổng thể những gì thân thiện, độc lạ của làng. Ông yêu những giờ phút niềm hạnh phúc được cùng bạn bè đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá. Từ tình yêu làng nồng cháy ấy, truyền thống lịch sử ấy, ông đến với cách mạng từ khi nào, từ khi nào mà chính ông cũng không hay biết. Ông tham gia tản cư vì tản cư cũng là tham gia kháng chiến. Ở vùng tản cư, ông luôn dõi theo tin tức của làng, ông hay đến phòng thông tin nghe đọc báo. Hôm ấy, ông nghe được bao nhiêu là tin hay : “ Một em nhỏ xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì lên Tháp Rùa ”, “ Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn sau cuối ” ; “ Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt được một tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ. Chao ôi ! Bao nhiêu là tin hay, ruột gan ông lão cứ náo nức cả lên ”. Đến đâu, ông cũng thấy hãnh diện, ông hay khoe về làng, về niềm tin kháng chiến của làng. Sau Cách mạng, ông khoe về làng cũng khác, ông không còn tự hào vì cái sinh phần cụ Thượng nữa mà thấy thù nó. Cách mạng tháng Tám thành công xuất sắc đã đưa đến cho người nông dân những nhận thức mới, tâm lý mới về làng. Họ đã biết nhận thức được rằng cái gì đúng, cái gì sai .
Thế nhưng, niềm vui chưa kịp bày tỏ thì một cú sốc lớn đã đến với ông Hai : đó là cái tin làng Chợ Dầu là Việt gian theo Tây. Có thể nói, dưới tác động ảnh hưởng của trường hợp, vấn đề khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, tâm ý nhân vật ông Hai đã có những diễn biến phức tạp và nhà văn đã trực tiếp nhập vai vào nhân vật để nói bằng lời nói nhân vật, miêu tả sự giằng xé trong quốc tế nội tâm với những xích míc, xung đột nóng bức, kinh hoàng. Cũng như biết bao người dân quê khác, ông Hai gắn bó sâu lặng với nơi chôn rau cắt rốn của mình – làng chợ Dầu. Tình yêu ấy của ông thật đặc biệt quan trọng, biểu lộ của nét tâm lí đó là luôn tự hào và thích khoe về làng. Nhưng có một sự kiện giật mình đã xảy ra với ông, từ phòng thông tin bước ra đang rất phấn khởi, náo nức vì những tin vui của kháng chiến, gặp người tản cư, nghe họ nhắc tới tên làng, ông Hai quay lại, lắp bắp hỏi, hy vọng được nghe những tin tốt đẹp về làng, nào ngờ lại hay tin : cả làng chợ Dầu theo giặc. Trước tin dữ ấy, ông Hai sững sờ chết lặng “ Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như không thở được ”. Từ niềm vui, niềm tin hy vọng, ông Hai rơi xuống vực thẳm đau buồn, xót xa, vô vọng. Ông cố gắng nỗ lực trấn tĩnh bản thân và tìm cách lảng ra về, muốn che giấu đi tâm trạng ấy nhưng nỗi tủi hổ, bẽ bàng, lo ngại khiến ông “ cúi gằm mặt mà đi ”, còn văng vẳng tiếng chửi “ giống Việt gian bán nước ”. Lòng ông lão như bị giằng xé, có cái gì như đang bóp nghẹt quả tim ông khiến ông khó thở, đau đớn tột cùng. Rồi ông lại tự mình chuyện trò với mình, lúc thì ông bảo không phải và lấy cớ để thanh minh cho chuyện ấy. Rồi ông lại thấy điều đó là thực sự thì phải chăng hơn : “ Không có lửa làm thế nào có khói. Ai hơi đâu người ta bịa tạo ra những chuyện ấy làm gì ? Chao ôi ! Cực nhục chưa ? Khắp cái nước Nước Ta này người ta ghê tởm cái giống Việt gian bán nước … ”. Rồi lòng ông lại quặn đau, nội tâm ông luôn luôn đổi khác, luôn có hai quan điểm trái chiều nhau. Rồi ông lại trò chuyện với đứa con út để vơi đi đôi phần, ông hỏi đứa con ông ủng hộ làng hay Cụ Hồ, nghe nó ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh, lòng ông như được vun đắp phần nào, càng vững trí hơn. Cái lòng bố con ông như vậy đấy, đâu dám đơn sai : “ Các chiến sỹ biết cho bố con ông, Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông ”. Ông rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan khi biết ở vùng tản cư không ai chứa những người làng Chợ Dầu nữa để đi đến một quyết định hành động cao đẹp. “ Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù ”. Đó là một hành vi cao đẹp của ông Hai – một người dân yêu nước. Cuối cùng, ông đã chọn đi theo Cụ Hồ theo lí tưởng cách mạng, ở đây ta thấy được sự hòa quyện giữa tình yêu làng với tình yêu nước. Đó là bước chuyển biến mới trong tư tưởng tình cảm của người nông dân Nước Ta buổi giao thời mới – cũ .
Và rồi tin làng ông Việt gian theo Tây đã được cải chính, ông lại rơi vào sự hả hê sung sướng, niềm hạnh phúc vô bờ. Ông lại được khoe về làng, được tự hào về làng thậm chí còn ông khoe cả cái nhà ông bị Tây đốt cháy, ông kể tỉ mỉ, chi tiết cụ thể cho bác Thứ nghe về trận đánh hôm Tây nó vào khủng bố, chúng nó cả bao nhiêu thằng tất cả chúng ta đánh được bao nhiêu, làng ông chống đỡ, phòng ngự ra làm sao, như chính ông lão vừa dự trận đánh vậy. Đến đây, ta thấy được nội tâm, tâm trạng ông Hai đã có sự biến hóa rõ ràng, từ trường hợp đổi khác mà con người cũng thay đổi, sự đau đớn tột cùng giờ đã chuyển sang hả hê sung sướng. Qua đây ta thấy được tầm quan trọng của thẩm mỹ và nghệ thuật kiến thiết xây dựng tình, huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật so với một tác phẩm văn học .
Bằng sự am hiểu thâm thúy về đời sống niềm tin của những người nông dân cùng với kĩ năng thẩm mỹ và nghệ thuật xuất sắc, nhà văn Kim Lân trong truyện ngắn Làng đã kiến thiết xây dựng thành công xuất sắc trường hợp truyện mang tính thử thách, qua đó tình cảm của người nông dân với quốc gia, với cách mạng được thể hiện rõ nét hơn khi nào hết. Thông qua việc kiến thiết xây dựng nhân vật ông Hai, tác giả Kim Lân đã miêu tả chân thực sự chuyển biến trong tình cảm của người nông dân, đồng thời truyện ngắn cũng giúp tất cả chúng ta tưởng tượng được một thời kì cách mạng sôi sục của quân dân ta, trong đó toàn thể dân tộc bản địa đều nhất trí, đồng lòng đoàn kết, đi theo sự dẫn dắt, chỉ huy của Đảng, của Bác Hồ .

V. Một số lời bình về tác phẩm

1. Đó là nhân vật lão Hai, người nông dân bần hàn ấy có những nét rất mới không giống bất kỳ người nông dân nào trong những truyện ngắn truyện dài trước kia. Đó là người nông dân vừa được cách mạng giải phóng. Cách mạng đã đem lại quyền sống, quyền làm người, quyền tự do, bình đẳng với mọi người. Không thấy còn bóng hình bọn cường hào, ác bá nào trong tâm lý lão. Không còn bóng hình thấp hèn, cắn răng cam chịu trước những bất công, tàn ác đã vùi dập người nông dân trước kia. Trong truyên “ Làng ” lão Hai là một người nông dân hồ hởi, phấn khởi, tự tin, tự biết vị trí mình, nghĩa vụ và trách nhiệm mình trong mọi việc làm của xóm làng, của quốc gia. Lão là nông dân tiên phong chăm sóc đến thời sự, chính trị, đến những tin tức có tương quan đến thời vận của quốc gia, người mà không ngày nào không ra phòng thông tin nghe ngóng tin tức và mừng cuống khoe với mọi người rằng “ chuyến này Đác-giăng-li-ơ còn là phải đi đi về về ạ … ”. Phải nói đây là một chuyển biến rất quan trọng về con người nông dân sau Cách mạng .
( Theo Kim Lân, Nghĩ về nghề văn, Hà Minh Đức ghi, trong Nhà văn nói về tác phẩm )

Tải xuống

Bài giảng: Làng – Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)

Xem thêm sơ đồ tư duy của những tác phẩm, văn bản lớp 9 hay, chi tiết cụ thể khác :

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:

Giới thiệu kênh Youtube VietJack

Ngân hàng trắc nghiệm lớp 9 tại khoahoc.vietjack.com

Đã có app VietJack trên điện thoại cảm ứng, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi trực tuyến, Bài giảng …. không lấy phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS .

Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k7: fb.com/groups/hoctap2k7/

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Theo dõi chúng tôi không tính tiền trên mạng xã hội facebook và youtube :

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.

Source: https://thevesta.vn
Category: Nhà Sách