V. Văn hóa thẩm mỹ của người Việt – Tài liệu text

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản khá đầy đủ của tài liệu tại đây ( 3.73 MB, 90 trang )

Huyền thoại về Sơn Tinh – Thủy Tinh, về Thánh Gióng, các truyện cổ dân gian không

đơn thuần là các sáng tạo văn học, nó là một hình thức nhận thức thế giới của người xưa, là

thể hiện khát vọng vượt ra ngoài cái thực tế vốn có.

Giữa hai yếu tố thực dụng và thẩm mỹ, người Việt coi trọng cái thực dụng: “ăn chắc mặc

bền”, “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”… Song họ không quên yếu tố thẩm mỹ : “người đẹp vì lụa”…

Như vậy, trong văn hóa thẩm mỹ người Việt luôn chú ý sự kết hợp giữa cái thực dụng và cái

thẩm mỹ. Trong dân gian có lưu truyền câu chuyện: một anh thợ cày thích ăn cơm trắng

trong một cái bát đàn. Còn một cụ đồ thích ăn cơm gạo hẩm trong một cái bát hoa. Nhưng

người Việt không tán thành cách chọn của bác nông dẫn cũng như cách chọn của cụ đồ.

Quan niệm đúng là phải thấy được sự kết hợp giữa cái thực dụng và cái thẩm mỹ.

2/ Trong mối quan hệ giữa con người và con người, giữa con người và cộng đồng :

Những giá trò đạo đức truyền thống đã thâm nhập vào các quan hệ thẩm mỹ và trở

thành cơ sở, chuẩn mực cho sự đánh giá thẩm mỹ đối với các hiện tượng của cộng đồng

người Việt. Quan niệm cái đẹp của người Việt trong cuộc sống, trong tự nhiên, trong nghệ

thuật đều lấy chuẩn mực đạo đức như là một chuẩn mực cần và phải có trong việc đánh giá

con người và xã hội. Trong quan niệm thẩm mỹ, người Việt coi trọng cái chân, cái hùng, cái

nghóa. Trong thời phong kiến, mọi biểu hiện của cái đẹp đều chòu sự chi phối của hệ tư tưởng

phong kiến, đều mang màu sắc đạo đức. Thời phong kiến có quan niệm: một xã hội tuân

theo vương đạo. Một con người đẹp là con người tư đoan văn chương hay là “văn dó tải đạo”…

Đặc biệt là trong thái độ thẩm mỹ, trong đánh giá thẩm mỹ nguyên tắc đạo đức chi phối cách

nhìn, cách đánh giá các hiện tượng thẩm mỹ của con người.

Quan niệm này có mặt tiến bộ là góp phần giáo dục con người, hình thành nhân cách

cho con người. Nhưng nên nhớ là không phải mọi cái đạo đức đều có thể trở thành cái thẩm

mỹ. Chỉ có những cái đạo đức nâng lên đến mức hoàn thiện và đẹp thì mới trở thành một giá

trò thẩm mỹ.

3/ Văn hóa thẩm mỹ của người Việt gắn bó mật thiết với thiên nhiên :

Trong cuộc sống của người Việt, thiên nhiên trở thành người bạn đồng hành, là niềm

vui, là vẻ đẹp. Do vậy, cuộc sống của họ, quan niệm thẩm mỹ của họ luôn gắn bó với thiên

nhiên. Tổ tiên của người Lạc Việt là con rồng, cháu tiên, gắn liền với sông nước, với núi non,

cảnh trí, cảnh vật. Ý thức hòa nhập với thiên nhiên là một ý thức thường trực của người Việt

Nam xưa, nay… Trong mọi nơi, mọi lúc người Việt cố lồng cái thiên nhiên vào trong cuộc

sống của mình. Khi xây cất nhà họ thường chọn hướng. Khi đònh vò trí của làng, của đô thò họ

thường chọn: nhất cận giang, nhò cận sơn. Mọi công trình kiến trúc của người Việt luôn tìm

thấy sự hài hòa, hòa nhập với thiên nhiên. Trong ngôn ngữ của tiếng Việt các từ biểu đạt màu

sắc luôn gắn với các màu của tự nhiên như : màu lá mạ, cánh sen, nõn chuối, da trời, cánh

chả, lá cây, nâu gụ, xanh nước biển, hạt dẻ.. Trong cách ví von cũng lấy hình dáng của sự

vât, động vật làm đối tác để so sánh: nham hiểm như cáo, độc ác như rắn, khoẻ như voi, bạc

như vôi, tươi như hoa, sáng như trăng, mặn như muối, ngọt như mía lùi..

Các phẩm chất của người quân tử cũng thường được so sánh với cây cối tự nhiên:

thẳng như cây tùng, cây bách, thanh cao như cây trúc, vững vàng như cây cổ thụ…

Trong sáng tạo nghệ thuật, đặc biệt trong thơ văn, khuynh hướng nhân hóa thiên nhiên

là nét đặc thù trong cảm quan thẩm mỹ của người Việt.

Ca dao có câu :

Vì mây cho núi lên trời

Vì chưng gió thổi hoa cười với trăng.

Nguyễn Trãi, nhà thơ lớn của dân tộc cũng thường mượn thiên nhiên để thể hiện cảm

hứng nghệ thuật của mình :

Ba câu hát của ngư ông làm khói trên mặt hồ tỏa rộng

Một tiếng sáo mục đồng nâng trăng trời lên cao.

(Chu trung ngẫu thạch-bà 2).

Với người Việt, thiên nhiên là chiếc nôi nuôi lớn thể xác, tâm hồn của mỗi con người.

Thiên nhiên tô điểm cho con người có ích hơn, thi vò hơn. Mặt khác con người cũng biết làm

cho thiên nhiên đẹp hơn, duyên dáng hơn. Quan niệm thẩm mỹ của người Việt luôn gắn với

thiên nhiên. Đó là nét đẹp của văn hóa người Việt.

PHỤ LỤC

]^

1. NHỚ VỀ QUAN HỌ – LƯU NGỌC VANG

2. VỀ THĂM LAM KINH – MẠNH HÀ

3. VĂN HÓA VĂN LANG VIỆT NAM –

GS. TRẦN VĂN GIÀU

NHỚ VỀ QUAN HỌ

Tôi có dòp trở lại tuổi thơ Quan họ, cái tuổi hát lỡ nhòp bò ông Chánh quất lằn mông.

Ông Chánh không ai khác là ông nội các con của bà xã nhà tôi. Ông đánh rát rạt vậy mà tôi

vẫn lớn lên cùng thế hệ chơi khăng chọi cù. Thời gian gió chạy trên đồng, tôi trở thành chàng

trai Kinh Bắc. Chiến tranh lan tới sông Cầu nước chải lơ thơ, tôi đeo ba lô con cóc, cúi đầu

leo dốc Trường Sơn đánh giặc. Giã biệt tháng năm trận mạc sa trường, tôi trở về nơi đã ra đi.

Vui sao người Quan họ lại về miền quai thao nón thúng.

Từ lúc mắt tròn xoe nhìn hoa gạo đỏ rực cổng làng tôi đã nghe và hát Quan họ Bắc

Ninh. Sau sát nhập Bắc Ninh và Bắc Giang thành Hà Bắc, Nhà nước gọi “Quan họ Hà Bắc”,

người làng tôi vẫn gọi “Quan họ Bắc Ninh”. Gọi vậy bởi Bắc Ninh vốn là quê hương các làn

điệu Quan họ.

Mỗi làng Quan họ có từ một đến nhiều đội nhóm văn nghệ đủ mặt các lứa tuổi. Hội

Quan họ mở ra cuối vụ thu hoạch lúa vụ mười và cấy xong chiêm xuân. Hai mươi ngày trước

và sau Tết Âm lòch là rộ nhất. Đỉnh tưng bừng lễ hội từ mười ba đến mười tám tháng giêng

hàng năm. Dù ai đi đâu ở đâu, họ xếp mọi việc sau lưng, cơm đùm cơm nắm, hối hả chen

chân, mười phương hành hương một phương. Vào hội, liền anh áo dài khăn xếp ô đen chân

hài, liền chò áo tứ thân, gót hài nhung, tóc vấn đuôi gà, nón thúng quai thao e ấp bên mình.

Hội Quan họ xuất phát từ sân đình rồi tỏa khắp đường làng. Đoàn người vừa đi vừa hát

thay cho lời chúc mừng cả làng sang năm mới an khang thònh vượng. Làng nào cũng vậy, họ

hát hết làng mình hát sang láng giềng như nhắc nhau muôn làng như một, hòa thuận bên

nhau tối lửa tắt đèn. Mọi nhà ra ngõ gặp nhau, cơ hội may mắn cho trai gái giáp mặt tỏ bày

điều ấp ủ lòng mình, không ít đôi bạn trẻ sống đời với nhau kể từ hội này.

Không chỉ Quan họ sân đình – bến nước – gốc đa – đồi sim mà người Quan họ còn đưa

Quan họ xuống sông ngòi – ao hồ – đầm sen. Quan họ du thuyền từ sáng sớm sương mù se

lạnh mặt nước đến lúc trăng gác đỉnh ngọn gạo sân đình. Người dự hội ngồi dọc bờ sông cổ

vũ. Quan họ dưới sông hát đối đáp thuyền nọ, thuyền kia, thuyền cùng giới tính đối nhau,

thuyền khác giới tính đối nhau, thuyền làng nọ đối thuyền làng kia. Người ra đối thì dễ nhưng

người đáp đối thì khó, do vậy, người xuống thuyền Quan họ thường là sếp cứng cựa do làng

cử ra làm “bộ tham mưu” quyết đònh bài đáp lễ. Liền anh liền chò sừng sỏ gặp nhau, cuộc đối

đáp dằng dai nửa ngày không phân thắng bại.

Thông thường hai bên ngang cơ nhau thì họ cũng dừng. Cặp nào có bên thua thì nợ

bên thắng một bài, món nợ này họ hẹn nhau sẽ trả vào dòp Quan họ năm sau. Đây là cái cớ

để Quan họ “đến hẹn lại lên” với mong mỏi “bao giờ cho đến tháng mười” (tháng hội làng),

gặp lại Quan họ xưa (năm trước) cho “thỏa nỗi ước mong”.

Mùa lễ hội ta gặp không ít khách nước ngoài tham dự hội làng Quan họ với đam mê

thích thú. Tại Hà Nội, một số người Mỹ (nam) hát chèo và hát Quan họ bằng giọng Hà Nội

nghe thật dễ thương. Người Nhật (nữ) hát Quan họ không khác mất Quan họ làng Nội Doi.

Người Nhật, người Mỹ hát khá chuẩn lời – luyến – láy – nhòp – phách. Người Mỹ, người Nhật

hát giữa thành phố cổ 36 phố phường làm ngỡ ngàng chính Quan họ cố đô Thăng Long và

Kinh Bắc. Cô Si-kô-ny-ka tâm sự: “Em học tiếng Việt bốn năm, em mê Quan họ và chèo”.

Anh Giôn Mác-Hoay trả lời “Tôi học tiếng Việt bảy năm, Quan họ tuyệt vời, cô bạn này hát

hay hơn tôi nhiều” (chỉ cô tóc vàng bên cạnh).

Bảo vệ di sản văn hóa bản sắc dân tộc theo từng vùng dân cư, mang tính đặc thù là rất

cần thiết. Đây là nhòp cầu âm thanh nối đôi bờ quá khứ tương lai cho các thế hệ Lạc Hồng

gần nhau hơn trong nhân cách làm người. Người trực tiếp nuôi dưỡng bảo vệ vật báu âm

thanh này không ai khác là nhân dân vùng đã sinh ra nó. Qua nhiều thế hệ, với bao chìm nổi

thăng trầm nhưng Quan họ vẫn sinh tồn phát triển như màu xanh làng quê Kinh Bắc.

Từ bao đời vùng trời Quan họ đêm đêm tràn ngập âm thanh đồng nội cha truyền con

nối. Vài năm lại đây, mặt đất Kinh Bắc pha tạp ngổn ngang băng nhạc hải ngoại làm băng

hoại bầu trời Quan họ vốn trong xanh. Không biết có ai lo ngại một ngày nào đó Quan họ ta

mặc soọc Tây, mũ cối… Ôi nếu thế thì buồn ai và ai buốn. Khi ngoái lại nhìn Nội Duệ, lời cụ

Đình Bẩm văng vẳng bên tai: “Tao già rồi, gốc đa, bến nước là của chúng mày, lo mà giữ

đừng để người ta xây phòng ngủ, phòng nhảy như làng bên kia”…

Đến đây tôi lại nhớ trận đòn ông Chánh vì tôi lỡ rơi vài nhòp, trận đòn ấy rát rạt đến bây

giờ.

Lưu Ngọc Vang

VỀ THĂM LAM KINH

Từ trung tâm thành phố Thanh Hóa, đi ngược về phía Tây chừng 50 km ta tới một vùng

quê lòch sử – Lam Kinh – ở vùng núi Lam Sơn, cạnh con sông Chu, thuộc xã Xuân Lam,

huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

Nơi đây, năm 1418 Lê Lợi đã phất cờ khởi nghóa, tiến hành cuộc kháng chiến chống

quân Minh, giành lại nền độc lập thống nhất cho đất nước. Sau cuộc kháng chiến chống

Minh thắng lợi, vương triều nhà Lê được thành lập Thăng Long làm đế đô và Lam Sơn được

xây dựng làm Lam Kinh, với nhiều cung điện, đền, miếu đón vua, quan nhà Lê hàng năm về

tổ chức lễ tế, ghi công đức tổ tông và các bậc tiền liệt.

Theo sử cũ cho biết: Lam Kinh được vua Lê Thái Tông cho xây dựng năm 1433 (năm

Lê Lợi mất). Tiếp năm sau dựng thêm miếu Thái Mẫu, nhưng một nạn hỏa tai đã tàn phá các

công trình. Năm 1448 vua Lê Nhân Tông cho xây dựng lại các triều đại sau đó bổ sung thêm,

có nhiều điện nguy nga như điện Quang Đức, điện Sùng Thiếu, điện Diên Khánh… Lam Kinh

trở thành một bức tranh tuyệt đẹp.

Khu vực Lam Kinh rộng khoảng 41 ha, đoạn sông Chu uốn vòng chảy dưới cung điện

gọi là Ngọc Khê, trước kia có cầu bắc qua, nay sông cạn, cầu đã mất. Có hồ bán nguyệt nơi

đây xưa các thi nhân đã ca ngợi: “Chen chúc hồ sen, ngát vò hương”. Lối lên, xuống có bốn

rồng đá lớn. Điện thờ hình chữ vương, nằm cao hơn. Hiện nay còn hơn 50 tảng đá còn lại,

đường kính mỗi tảng đến 80cm, điều đó cho thấy cung điện có quy mô khá to lớn. Có 17 gian

nhà với diện tích chừng 1000m2 mặt nền được lát bằng gạch lớn, một lối đi ngắn dẫn từ điện

đến hậu cung. Khu này gồm 9 gian, cấu trúc theo hình cánh cung, như ôm lấy điện thờ. Phía

sau có giếng ngọc, có đường trục dẫn vào mộ Lê Lợi. Dãy thành bao quanh được dựng theo

cách bố cục của các kiến trúc bên trong hình thành nên thành nội và thành ngoại.

Lam Kinh là nơi qui tụ nhiều bia mộ của các triều vua Lê. Ngày nay còn lại bia Vónh

Lăng (Lê Lợi) dựng năm 1433, bia Chiêu Lăng (Lê Thánh Tôn) dựng năm 1498, bia Du Lăng

(Lê Hiến Tông) dựng năm 1505, bia Lê Túc Tông (dựng năm 1504), và bia Hoàng hậu Ngô

Thò Ngọc Dao (dựng năm 1498).

Mỗi mộ có một bia, đáng chú ý nhất là bia Vónh Lăng. Đây là tấm bia to nhất nước ta

còn lại hiện nay. Bia có chiều cao 2,7m rộng 2m dày 0,27m. Trán và diền bia có chạm rồng,

đám mây, hoa văn hoa lá. Đỉnh bia tạc theo hình vòng cung 1200, có trang trí vòng tròn. Hai

bên có hai con rồng vươn đầu đối diện, nổi rõ trên nền đám mây chạm thưa. Phần cuối bia,

nơi tiếp giáp với thần rùa là những hình họa tiết hình sóng nước và các đường song hành kéo

ngang kết cạnh của tấm bia. Mặt sau của bia cũng trang trí nhưng đơn giản hơn. Bia được

đặt trên lưng con rùa lớn tạc bằng đá nguyên khối. Kỹ thuật khắc chữ trên bia rất đặc sắc,

nét chữ sâu. Bia Vónh lăng do Nguyễn Trãi – một danh nhân và công thần của nhà Lê soạn

thảo. Đây là một tài liệu lòch sử q giá còn được lưu giữ lại. Sự nghiệp của Lê Lợi và cuộc

giải phóng dân tộc ta đầu thế kỷ XV đã được trình bày đầy đủ, súc tích, hào hùng trên tấm

bia.

Ngoài ra, còn cần phải nhắc đến những con rồng đá ở bậc lên xuống điện thờ, đó là

những phiến đá lớn tạc thành hình con rồng, dáng điệu hùng mạnh. những áng mây được thể

hiện và bố cục rất khéo léo, tưởng như rồng đang vươn mình bay lên, trong hình tam giác bệ

rồng chính giữa là một bông hoa lớn đang nở với những nét chạm khắc dứt khoát. Đây là

những sáng tạo mới của nền nghệ thuật khắc đá Việt Nam thế kỷ 15– 16.

Cùng với những di tích, danh thắng nổi tiếng tiêu biểu của xứ Thanh: núi Nhồi với tượng

Vọng Phu (hình dáng một người phụ nữ bồng con chờ chồng), núi Đọ với di chỉ khảo cổ cùng

trống đồng của nền văn hóa Đông Sơn, núi Nưa gắn với tên tuổi của Triệu Thò Trinh chống

ách đô hộ của nhà Ngô và Hàm Rồng – đòa danh đã ghi dấu trong những tháng năm chống

Mỹ… Lam Kinh là một di tích lòch sử – văn hóa lớn, một điểm du lòch hấp dẫn của xứ Thanh

nói riêng và của đất nước Việt Nam nói chung.

Năm 1995, Lam Kinh được Nhà nước đầu tư 800 triệu đồng trong tổng số 22 tỉ đồng

được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt luận chứng phục hưng, trùng tu và tôn tạo từ năm 1995

đến 2005. Tỉnh Thanh Hóa đã trùng tu bia Vónh lăng, khu lăng mộ Lê Lợi, xây dựng nhà bia,

khu mộ Lê Thánh Tông và tôn từ Hoàng thái hậu Ngô Thò Ngọc Dao, tu sửa miếu nhà Hậu

Lê ở thành phố Thanh hóa.

Lam Kinh là một di tích lòch sử văn hóa chung của dân tộc, một đòa danh du lòch hấp

dẫn. Lam Kinh luôn mãi là niềm tự hào, kiêu hãnh của người Việt Nam nói chung và của

người dân xứ Thanh nói riêng.

Mạnh H

VĂN HÓA VĂN LANG VIỆT NAM

Giao lưu văn hóa là hiện tượng lòch sử đã có từ thû có loài người. Giao lưu văn hóa

cũng là bảo vệ văn hóa. Xưa nay, bảo vệ văn hóa dân tộc gắn liền mật thiết với bảo vệ độc

lập dân tộc.

Nước Văn Lang (Âu Lạc) rơi vào tròng đô hộ của Bắc phương từ trước Công Nguyên và

mang ách đó trên một ngàn năm. Trong ngàn năm dòng nước suối hiền lành đủ thời giờ để

bào mòn tất cả các khía cạnh của một hòn đá. Huống hồ nước chảy rất mạnh, đổ từ cao. Bắc

phương đô hộ Văn Lang là một nước lớn, bao giờ cũng đông dân hơn, bao la hơn ta gấp mấy

chục lần! Bắc phương lại là dân tộc có văn hóa cao hơn, nước ấy trong hàng chục thế kỷ

nhất luật thực hiện một đường lối trước sau như một, đường lối “bình thiên hạ”, đường lối đồng

hóa, quyết đem tất cả về một mối. Kết quả của đường lối “bình thiên hạ” đó là tất cả các quốc

gia dân tộc cổ đại dưới sông Dương Tử và sau Ngũ Linh đều Hán hóa, đều tiêu mất – Duy

ngoại lệ còn có Văn Lang, đất nước tổ tiên Việt Nam; Sau hơn một ngàn năm bò đô hộ, Văn

Lang đã không chết mất, mà nó còn xuất hiện trở lại với danh xưng Đại Việt, với các đặc tính

dân tộc càng đậm đà hơn, với sức sống dân tộc càng mãnh liệt hơn. Vì sao? Vì sao ngàn

năm nước chảy mà đá không mòn? Bài này không tìm cách lý giải trong đất hiểm tài cao mà

xứ nào, dân nào cũng có; bài này đi tìm lý giải trong các nguyên nhân văn hóa, chủ yếu là

trong những yếu tố tâm hồn, trong những hạt nhân tư tưởng của văn hóa Văn Lang.

Xa xưa, ở Đông – Nam châu Á, ở lưu vực sông Hồng, sông Mã có một nước, không biết

nước ấy tự lấy tên gì, nhưng nó không phải là một nước trong “thiên hạ” nhà Chu. Nó sinh ra

độc lập, Bắc phương chưa với tới; họ gọi nó là Văn Lang. Dân tộc Văn Lang lại là một dân tộc

đònh canh, đònh cư hoàn toàn không phải là một “nước trên lưng ngựa” như các dân tộc ở

miền Tây Bắc của Bắc phương. Đònh canh, đònh cư thì đất nước có điều kiện phát triển rực

rỡ, dân tộc có điều kiện thuận lợi để xây dựng văn hóa.

Nước Văn Lang không biết ra đời từ bao giờ, từ thế kỷ nào. Tiền sử cho là đêm đen,

nhưng khoa học lòch sử xác đònh được niên đại của trống đồng sản phẩm đặc sắc nhất của

Văn Lang, của thời đại Hùng Vương. Trong thời đại đó cộng đồng xã hội nguyên thủy phân

hóa để đi lên một trật tự mới trên có vua Hùng, dưới có Lạc hầu, Lạc tướng; Lạc dân cày cấy

lạc điền, lễ hội theo tiếng trống đồng, chống xâm lăng bằng mũi tên đồng, vượt biển cả đến

quần đảo Nam Hải bằng thuyền lớn, trồng lúa nứơc dư thừa thì chứa đựng bằng thạp đồng,

làm nhiều món trang sức bằng đá quý cho phụ nữ. Gần đây có nhà khoa học thấy trên một

trống đồng một quan niệm về vũ trụ và một thứ chữ viết sơ khai.

Như vậy, Văn Lang là một thực tế lòch sử, một nước bền vững lâu dài, có bờ cõi, lòch sử,

chế độ xã hội, phong tục tập quán của riêng mình. Trong thời đại như thế người Văn Lang tập

hợp đủ điều kiện để sáng tạo một nền văn hóa có bản sắc Văn Lang, bản sắc dân tộc của

riêng mình. Nền văn hóa đó mang những đặc tính gì mà đã làm được nhiệm vụ bảo vệ đất

nước khỏi bò đồng hóa bởi hơn ngàn năm đô hộ?

Người Văn Lang chưa có chữ viết, còn Bắc phương thì chưa đến Văn Lang, cho nên

không có chữ viết về xã hội Văn Lang, nhưng Văn Lang để lại cho các đời sau không ít

truyền thuyết, “Văn học truyền miệng” các thế hệ đều nhớ cả, về sau mới ghi bằng chữ. Tính

chân thật của truyền thuyết tới mức nào, nhiều người đã bàn, ta không trở lại. Điều đáng chú

ý là : trong số truyện cổ dân gian phong phú của Việt Nam, có những truyện đứng đầu, nghóa

là tiêu biểu nhất, không có chuyện nào nói về tạo thiên lập đòa, về Thượng đế toàn lương,

toàn năng mà phần lớn các truyện nếu không nói là tất cả, đều nói về nguồn gốc của dân tộc

và của đất nước mình. Trí “siêu việt” không có mấy mà óc “thực tế” thì đầy đủ cho cuộc sống

của cộng đồng người Văn Lang. Tổng hợp lại nội dung các truyền thuyết căn bản thì có thể

thấy rõ 5 điểm tâm hồn, tư tưởng nổi bật hơn hết trong thời đại xa xưa ấy, mà lạ thay những

điểm tâm hồn, tư tưởng xa xưa ấy đã theo dõi lòch sử dân tộc Việt Nam từ thû ấy cho đến

ngày nay. Năm điểm ấy không phải rời rạc mà kết thành hệ thống.

Thứ nhất: Nghóa đồng bào. Nghóa “đồng bào” là nội dung tư tưởng, tâm hồ của truyện

họ Hồng Bàng, truyện Lạc Long Quân sánh duyên với bà Âu Cơ sinh trăm trứng nở trăm con.

Xét kỹ đây là di chúc đầu tiên, di chúc số một, của tổ tiên: hãy thương yêu nhau, hãy sống

chết có nhau, có người lớn mạnh hơn ra rình rập ngoài cửa. Về sau sẽ có câu: “Nhiễu điều

phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”. Người trong một nước đã

phải thương nhau cùng, thì người trong một nhà, cùng tổ tiên, cùng một học sinh ra thì tự

nhiên phải thương nhau thân thiết hơn nữa. Đây là khởi điểm của đạo thờ tổ tiên của ta.

Thứ hai : Sự tích nước Văn Lang hình thành bằng sự hợp nhất của 15 bộ lạc anh em.

Trong văn học truyền miệng ngày xưa của nước ta không thấy có chuyện xung đột, sát

phạt nào giữa các bộ lạc. Thường lẽ nhất, tới nay vẫn còn, trong sự lập quốc của các dân tộc,

khó tránh cái lẽ tranh hùng, mạnh đặng yếu thua, lớn nuốt bé. Trái lại Văn Lang bắt đầu

bằng sự hợp nhất cả vì lý, lẫn vì tình. Văn Lang tồn tại lâu dài bởi sự hợp nhất. Hợp nhất

cũng là của tổ tiên ta. Thống nhất sức mạnh tồn tại của đồng bào ta đứng trước kẻ đòch.

Thứ ba: “vì nước quên mình”; tư tưởng lớn này được tiêu biểu bởi truyện Ông Gióng.

Truyện Ông Gióng là truyện anh hùng. Truyện anh hùng thì các dân tộc cổ đại đều có,

nhưng truyện anh hùng cứu nước như truyện Ông Gióng, truyện vì nước quên mình như

truyện Ông Gióng, thì quả là không nhiều, ít có lắm! Truyện Ông Gióng Văn Lang là truyện

sức mạnh của tâm hồn. Truyện Ông Gióng thật ra là chủ nghóa yêu nước trong như lọc. Đó là

tâm hồn vì nước quên mình. Từ thû đó đến mấy ngàn năm về sau, mỗi lần giặc vào biên

cương toàn dân ta nhớ đến “gươm núi Sóc, cọc Bạch Đằng” là vậy.

Thứ tư : Lẽ trò quốc trước hết là trừ bạo an dân. Tư tưởng trừ bạo an dân thònh đạt nhất

với Nguyễn Trãi nhưng nảy sinh từ thû Văn Lang và toát ra từ truyện lớn Lạc Long Quân diệt

Thủy Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh. Về sau đến “Bình Ngô đại cáo” có câu “Việc nhân nghóa cốt

để an dân, quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Lòng trừ bạo an dân của người Văn Lang đã

được nói lên từ ngàn xưa. Kỳ vọng đẹp. Trách nhiệm cao. Nước nhỏ mà mạnh là nhờ vậy.

Nếu chỉ có chuyện diệt ba con tinh thì trăm đời sau con cháu nhớ để làm gì.

Thứ năm : Cuối cùng xin nói đến sự tín ngưỡng, sự tôn thờ, nghóa là nói cái “Đạo” của

người Văn Lang. Tư tưởng và tín ngưỡng thường cặp kè đi chung với nhau, đều thuộc về tâm

hồn, thuộc về văn hóa của một dân tộc. Qua các truyền thuyết còn lưu lại đến ngày nay, tín

ngưỡng đời xưa được nói lên quá rõ. Khá rõ là thû ấy chưa có một tôn giáo lớn nào đã hay

đang vào Văn Lang. Tuy vậy người Văn Lang có tín ngưỡng của riêng mình. Hẳn là chủ

nghóa vật linh, thời xưa, dân tộc nào cũng có. Nhưng kề bên hay là trước hết, cái đạo của

người Văn Lang không phải là tôn thờ một vò Thượng đế toàn lương, toàn năng xa lạ, cao

siêu mà tôn thờ chính tổ tiên của mình, tôn thờ các vò sáng lập ra nước mình, tôn thờ các anh

hùng dân tộc có nhiều công đức với quần chúng, tôn thờ không phải những thiên thần đâu

đâu mà tôn thờ linh khí núi sông của mình.

GS. Trần Văn Giàu

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

ĐÀO DUY ANH –VIỆT NAM VĂN HÓA SỬ CƯƠNG

NXB TP.HCM, 1992

2.

PHẠM VĂN ĐỒNG –VĂN HÓA VÀ ĐỔI MỚI

NXB CHÍNH TRỊ QG, HN, 1994

3.

TRẦN VĂN GIÀU – HỆ TƯ TƯỞNG PHONG KIẾN

NXB TP.HCM, 1993

4.

TRƯƠNG CHÍNH, ĐẶNG ĐỨC SIÊU – SỔ TAY VĂN HÓA VIỆT NAM

NXB VĂN HÓA HN, 1978

5.

NGUYỄN PHI HOANH – MỸ THUẬT VIỆT NAM

NXB TP.HCM, 1984

6.

ĐINH GIA KHÁNH – VĂN HÓA DÂN GIAN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH VĂN HÓA ĐNÁ

NXB VHTT, HN, 1993

7.

PHAN NGỌC – VĂN HÓA VIỆT NAM VÀ CÁCH TIẾP CẬN MỚI

NXB VHTT, HN, 1994

8.

VĂN HÓA VIỆT NAM (BAN VĂN HÓA VĂN NGHỆ TRUNG ƯƠNG)

NXB VĂN HÓA HN, 1989

9.

CON NGƯỜI VIỆT NAM

NXB TPHCM, 1992

10. PHONG TỤC VIỆT NAM

NXB TPHCM, 1992

11. NHỮNG CỘT MỐC LỊCH SỬ

NXB SÁCH GK MÁCLÊNIN, HN, 1989

12. GIẢI THÍCH CÁC DANH TỪ TRIẾT HỌC SỬ TRUNG QUỐC

NXB GD, HN, 1994

13. TỪ ĐIỂN TRIẾT HỌC (BẢN TIẾNG NGA)

NXB TÀI LIỆU CHÍNH TRỊ, M, 1986

14. VỀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA TINH THẦN VIỆT NAM