Chuyện huyền bí về hoa ngải ở đèo Hải Vân – Tạp chí Doanh nghiệp Việt Nam

Vào cuối mùa xuân, từ trên vùng núi Hải Vân, gió thổi rụng xuống biển một loại hoa ngải thần bí mà loài cá nào ăn lá ấy sẽ hóa thành rồng …Bữa sáng đẫm máu của mái ấm gia đình sư tử / Khám phá loài trăn đỏ béo múp, ngắn cũn của Nước TaNhắc đến “ Hải Vân sơn ” người ta hoàn toàn có thể mường tượng không chỉ “ một ngọn ” ( Cao An Lĩnh ) mà là cả “ một dải ” núi cao ( Ngãi Lĩnh ), trùng trùng lừng lựng đứng bên bờ biển Đông, trên đoạn đường thiên lý từ kinh đô Huế vào Thành Phố Đà Nẵng thời xưa .

Ở đó thể hiện rõ nét nhất sự kết hợp tiêu biểu của 3 yếu tố sống động: phong + thủy + sơn của duyên hải miền Trung…

Một loài cá mang “ bào thai ” như người
Cũng ở đó, khi đến xứ Đàng Trong vào thế kỷ 17 theo lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu ( Hiển tông nhà vua ), hòa thượng Thích Đại Sán đã đi thuyền ngang qua và ghi lại một cụ thể mà đến nay những nhà nghiên cứu vẫn thường nhắc :
“ Từ Thuận Hóa vào Hội An đường đi bộ tất do Ngãi Lãnh ( đèo Hải Vân ). Sách Dư ký bảo rằng : Khoảng tháng hai, tháng ba, hoa ngãi nở, trôi ra biển, cá ăn hoa ấy hóa rồng – tức là hoa ngải núi này vậy ” ( 1 ). Nhưng theo những bô lão, không hẳn bất kỳ loài cá nào “ ăn hoa ngải ” cũng hóa thành rồng. Vậy loài nào có đủ sức cảm ứng và hóa thân để bay lên khỏi sóng thần ?
Để tìm hiểu và khám phá, chúng tôi thử điểm lại một số ít loài cá sinh sống ở sông biển nước ta ghi trong Đại Nam nhất thống chí qua bản dịch của Phạm Trọng Điềm – do Đào Duy Anh hiệu đính – như cá gáy ( lý ngư ) là loại cá quý với 36 chiếc vẩy chạy thành một đường dài dọc theo xương sống, trên mỗi chiếc vẩy lại có điểm một chấm đen nhỏ .
Hoặc cá chình ( man lễ ngư ) uốn éo như con rắn dài và có bốn mắt thì không được bắt ăn, vì nếu ăn thịt nó sẽ trúng độc chết. Lại có loại cá sấu ( ngạc ngư ) với “ mồm rồng, móng hổ, mắt cua, vẩy kỳ đà, đuôi dài vài ba thước, to như lá cờ, có gai như móc câu, lặn dưới nước, thấy người hoặc súc vật đi qua, thì vung đuôi lên chụp bắt cũng như loài voi dùng vòi ( cuốn lấy ) vậy ” .
Cá ông voi hiền lành hay cứu người, có loại Bạch ngư dài 20 trượng, loại Hải thu phun nước lên trời “ gió bay đi như mưa ”, đầu đời Minh Mạng ban tên là Nhân ngư – đến đời Tự Đức ban tên Đức ngư. Cá lờn bơn ( điệp ngư ) thân mình gồm hai mảnh, khi bơi phải ghép hai mảnh ấy vào nhau mới bơi được, miệng ở gần dưới bụng .
Cá nóc ( giang đồn ) thường nhởn nhơ làm dáng, ra vẻ ham chơi, lấy mỡ của nó để thắp đèn “ khi chiếu vào chỗ cờ bạc thì sáng, chiếu vào chỗ đọc sách thì tối ” … Cả mấy chục loài cá được nêu, chưa biết loài nào có linh tánh để “ ăn hoa hóa rồng ” ? Chỉ nghe kể chuyện cá giao ngư gần với câu vấn đáp như dưới đây .
Giao ngư vốn là một loài cá lớn nhất trong hệ cá hải sa ( cá nhám – vì trên da sống lưng có cát ) to lớn dị thường và dài tới vài trượng “ mắt đỏ, miệng to, tính nanh ác, hay ăn thịt người ”. Khi chúng giao hợp nhau sinh con bằng bào thai ( thai sinh ) chứ không phải bằng trứng ( noãn sinh ) như những loài cá khác ( chúng cũng có loài hung ác tên là Hải đầu sa hoàn toàn có thể hóa thành hổ ) .
Một con giao ngư như vậy đã sinh ra một con thủy quái lớn nhanh như thổi. Thủy quái chiếm một hang đá làm sào huyệt dưới chân núi để tìm ăn những bông hoa lạ từ rừng rơi xuống. Loài hoa này cũng thuộc loại “ kỳ hoa ” theo gió rụng xuống những dòng suối để trôi ra sông biển .
Ăn hoa xong, con thủy quái biến thành một quái vật đầu rồng, miệng khi nào cũng há rộng với hai chiếc nanh nhọn. Từ đó nó tu luyện thêm, hóa thành người và bay lên đỉnh núi, đằng sau dãy núi cao ngất kia có một “ nữ vương Chăm-pa ” đang trị vì xứ sở nhỏ bé thanh thản của mình .
Nó bay đến đó với đoàn tùy tùng mang sính lễ theo sau để ép nữ vương làm vợ. Từ cõi trời, thần hộ mạng của nữ vương được Shiva được cho phép đã giương cung bắn những mũi tên với đầu lửa Agni sáng rực đốt cháy bùa phép của quân ma khiến chúng hiện nguyên hình những con cá sấu, cá gáy, cá chình, xà ngư, rùa và cả mãng xà, trăn đốm nữa. Ngay thủy quái tóc cũng dựng đứng chạy dọc sống sống lưng thành một cái bờm dài, với những chiếc vẩy cứng sắp lớp và … biến mất !

Về hình tượng, thủy quái “ ăn hoa ngải ” hóa thành rồng trong chuyện trên giống với “ thủy quái Makara ” trong nghệ thuật và thẩm mỹ điêu khắc Chăm miêu tả qua một tượng thế kỷ 12 ( tọa lạc ở Bảo tàng Chăm – TP. Đà Nẵng ) : Makara “ hóa thành rồng ” với “ mình và chân sư tử, đuôi của rắn Naga ” và với “ lòng hai bàn chân trước mở ra như tay người, hai chân sau giấu dưới bụng – đầu Makara có bờm tóc cứng ( … ) miệng có hai răng nanh dài nhọn chìa ra ngoài ( … ), hai hàm răng nhiều chiếc nhô ra, miệng có lưỡi uốn cong lên phía trên hàm, hai tai bộc lộ thành hình chiếc lá quyến rũ – Makara là loài thủy quái, nguyên thủy đó là một con cá sấu Ấn Độ to lớn nhưng sau lại là một con cá heo Hy Lạp ” ( 2 ) .
Về nội dung, chuyện nữ vương Chăm-pa trên từa tựa như một truyện cổ khác được kể ở vùng núi cách rất xa Hải Vân sơn về hướng Tây Bắc, giáp Lào, xưa có “ một con thuồng luồng sống trăm ngàn mùa lũ, nó biết nhiều phép, đã hóa ra 100 mâm vàng bạc, 100 mâm ngọc trai, ngà voi quý hiếm, da báo đem đến hỏi cưới nữ vương làm vợ ” nhưng bị phủ nhận nên đã tức giận dâng nước ngập kinh thành, rồi kéo “ bao nhiêu quân ma tướng quỷ đến tàn phá xóm làng ” .
Giữa lúc nguy ngập bỗng một chàng trai xứ Việt mặc áo choàng xanh Open vượt mặt Quỷ vương rồi lặng lẽ biến đi mất :

“Thần dân thành Mahuân tưởng nhớ công ơn dựng đầu núi đất Mường một pho tượng người trai mặc áo choàng rách bươm vì trận chiến ác liệt – nữ vương suốt ngày đêm ngóng chờ, thương cảm vô cùng, nước mắt tuôn thành suối, chảy uốn quanh chân núi, dồn đọng vào văng Ca Phúc (vực Anh Phúc). Đến nay dân tộc Lào Ngam vẫn được các mỏ lăm (tức thầy hát dạo) kể chuyện về sự tích mỏm đá Áo Rách với vực Anh Phúc là tượng trưng tình nghĩa Việt – Lào.Hai di tích huyền thoại này ở mường Sê-pôn đang là điểm du lịch kỳ thú của tỉnh Savanakhet – Trung Lào” (3).

So sánh chuyện “ Nữ vương Chăm-pa ” nghe được ở vùng Hải Vân với chuyện ở Mường Sê-pôn trên, chúng tôi thử hỏi phải chăng có một “ mạch ” văn hóa truyền thống Việt – Chăm – Lào ứng theo thế núi “ từ những núi Đại Tu Nông, Tiểu Tu Nông, núi Tía và núi Kiền Kiền ở phía biên giới Ai Lao về phía tây, từng đợt kéo đến ngọn núi trùng điệp, cao vót tầng mây thẳng đến sát biển ” ( ĐNNTC ) .
Thiên hạ đệ nhất hùng quan
Nằm ở phía đông nam huyện Phú Lộc, vùng núi Hải Vân với nửa đèo phía bắc thuộc địa phận Thừa Thiên – nửa đèo phía nam thuộc Quảng Nam : “ phía tây ( núi Hải Vân ) là núi Bà Sơn, phía bắc là núi Hải Sơn ; ba ngọn núi ấy liên tục xen nhau, trên cao vót đến tầng mây, dưới chạy giăng đến bờ biển, đường đi chín khúc vòng mới vượt qua đèo, hai bên cây lớn xum xê, người đi như vượn leo chim vượt, thật là hiểm trở ” ( ĐNNTC ) .

Đèo Hải Vân .

Trường hợp ba ngọn núi cận kề và “ liên tục xen nhau ” như vậy, theo những nhà dịch lý và phong thủy học Nước Ta cần được xem xét theo những toàn cảnh khác nhau. Nếu ba ngọn nằm dưới vùng đồng bằng có hình tam thai hoặc hình chữ phẩm đều quý vì “ như hình tam thai, phẩm tự, vị chi thượng thư ”, Cao Trung lý giải :
“ Ba trái núi nhọn đầu, ngọn giữa cao, ngọn hai bên thấp, là hình tam thai – còn ba trái núi tròn đầu là hình chữ phẩm – nơi ấy ( sẽ có người ) làm tới thượng thư ”. Nếu núi có hình như chiếc mão, đứng tựa, đất kết nơi ấy sẽ có người làm tới đông cung thị giảng, dạy những hoàng tử trong cung vua “ hình như tịch mạo, ỷ lập đông cung thị giảng “. Nếu núi có hình như tòa thành tháp, ngọc bộ, sẽ sản sinh người làm chức ngự sử đảm nhiệm quyền can gián vua “ hình như thành tháp, ngọc bộ, chức cư ngự sử “ .
Nếu núi rời rạc, tán loạn, mái ấm gia đình sẽ chia lìa, cha con phân ly “ hình như tán loạn phụ tử phân ly “ … Nhưng ở đây là cả một dải núi liên hoàn dồn tụ nên khí lực phong thủy không chỉ ảnh hưởng tác động can đảm và mạnh mẽ đến một hai số phận mà chung cho cả hội đồng ( gọi là cộng nghiệp ) Từ đặc thù ấy, trong lịch sử dân tộc, vùng Thuận Hóa với dải Hải Vân là “ đất phên giậu ” của nước ta một thời. Hải Vân cũng là danh sơn được viết đến bởi nhiều tác gia Nước Ta như Dương Văn An ( 1555 ), Lê Quý Đôn ( 1776 ) …

Thiên hạ đệ nhất hùng quan .

Đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu tuần du qua núi Hải Vân có thơ ngự đề với câu khởi đầu “ Nước Ta hiểm ải thử sơn điên ” ( Núi này ải hiểm đất Nước Ta ) và Quốc sử quán triều Nguyễn chép : “ về phía bắc chân núi kề bãi biển có hang Dơi, có bãi Cháy, tương truyền xưa có sóng thần, thuyền đi qua đây hay bị đắm nên dân gian có câu ca rằng “ đi bộ thì sợ Hải Vân – đi thủy thì sợ sóng thần hang Dơi ” là chỉ chỗ này ” .
Vua Minh Mạng cũng sai xây cửa Hải Vân năm 1826, cửa hướng về phía kinh đô Huế đề 6 chữ “ Thiên hạ đệ nhất hùng quan ” và cửa hướng về phía Quảng Nam đề 3 chữ “ Hải Vân quan ” – bằng đá thanh – và cho khắc nổi hình Hải Vân sơn và Hải Vân quan vào Cửu đỉnh ( Dụ đỉnh ). Vua Minh Mạng cũng sai lập đền thờ thần núi Hải Vân trên đất xã An Cư ( Phú Lộc ) là một trong những đền thờ sơn thần lớn nhất với điển lệ cúng tế riêng ( 4 ) .
Đặt núi Hải Vân ( cùng Bạch Mã và Đèo Ngang ) trong toàn cảnh chung của những vùng văn hóa truyền thống trên toàn nước để xem xét : “ từ bắc tới nam ta thấy nơi đây có nhiều mạch núi ăn ra tận chân sóng biển ( … ) Ngô Thì Trí trong bài văn Đăng Hải Vân quan phú đã diễn đạt cảnh sắc hùng vĩ của Hải Vân : Ngọn núi này khí át sông Ngân, thế nuốt bờ biển, tầng đá trập trùng khó vịn, cây cối sum sê rợp bóng, sóng vỗ ầm ầm như tiếng sấm vang trời, suối chảy rào rào như mưa từ sống lưng trời đổ xuống ” .

Kỹ sư Nguyễn Hữu Đính trong một tờ trình năm 1962 đã ghép Hải Vân với Bạch Mã vào tên gọi “Lâm viên quốc gia Bạch Mã – Hải Vân”.Ở độ cao 1.000 – 1.444 m, Bạch Mã có một quần thể kiến trúc gồm 139 biệt thự nghỉ mát được xây từ nửa đầu TK 20, mỗi biệt thự có một dáng riêng về tạo hình mỹ thuật, tạo thành một góc phố núi nhỏ nhắn êm đềm bên dải Hải Vân hùng vĩ.Nhưng rất tiếc, khu biệt thự trên bị triệt phá bỏ hoang trong thời chiến và Bạch Mã trở thành “nàng công chúa ngủ trong rừng” nằm mơ màng cô độc ở cuối dãy Trường Sơn bắc…

Theo Một quốc tế
Có thể bạn chăm sóc

Source: https://thevesta.vn
Category: Tâm Linh