Lời Phật Pháp Vô Biên Quay Đầu Là Bờ, * Biển Khổ Vô Biên, Quay Đầu Là Bờ

Xin mời xem đến đoạn thứ 57 trong Cảm ứng thiên: “Tri quá bất cải. Tri thiện bất vi.” (Biết lỗi không sửa. Biết thiện không làm.) Đây là đoạn thứ ba nói về ác báo. Toàn bộ đoạn văn này, từ đây cho đến đoạn thứ 60, tức là đến câu “xâm lăng đạo đức” (xâm hại hủy nhục người đạo đức), tôi đọc qua thì trong lòng cảm khái hết sức sâu xa. Đọc qua rồi, suy ngẫm thật kỹ thì không còn giảng kinh được nữa.

Bạn đang xem: Phật pháp vô biên quay đầu là bờ

Công phu của thánh hiền không gì khác hơn là sửa lỗi. Trong phần chú giải rất hay, vừa khởi đầu nói : “ Bồ Tát Văn Thù bạch Phật : ‘ Tuổi trẻ tạo tội, đến già tu hành, hoàn toàn có thể thành Phật không ? ’ Phật dạy : ‘ Biển khổ vô biên, quay đầu là bờ. ’ ”Quay đầu tức là sửa lỗi. Thiền sư Viên Ngộ nói : “ Con người ai không có lỗi ? Có lỗi sửa được thì không gì tốt hơn. Chỉ có người quân tử mới hoàn toàn có thể sửa lỗi hướng thiện, đức hạnh ngày thêm trong sáng. ” Thế nào là quân tử ? Trong Phật pháp thì người chân chính phát tâm tu hành chính là quân tử .

Tu học Phật pháp có ba giai đoạn. Trong “Lục tức Phật” của tông Thiên Thai thì địa vị thứ hai là Danh tự vị chưa thể sửa lỗi, chỉ có danh không thật, quyết định chưa chịu sửa lỗi hướng thiện. Hành giả ở địa vị này là mô phỏng học Phật, chưa phải chân thật học Phật. Địa vị thứ ba, Quán hạnh vị là chân thật học Phật. Quán hạnh vị là gì? Là vận dụng thực tế, đem những lời răn dạy của Phật-đà ra thực hiện, y theo lời dạy vâng làm. Đó là Quán hạnh vị.

Chúng ta niệm Phật cầu vãng sinh, phải đạt đến Quán hạnh vị thì việc vãng sinh mới nắm chắc được, vãng sinh về cõi Phàm thánh đồng cư. Nếu đạt Tương tự vị, quý vị hoàn toàn có thể sinh về cõi Phương tiện hữu dư. Đạt được Phần chứng vị ắt sinh về cõi Thật báo trang nghiêm .Cho nên cần phải sửa đổi. Biết lỗi là giác ngộ, người biết lỗi là đã giác ngộ. Sửa lỗi là dụng công, là công phu vận dụng thực tiễn. Tôi đọc qua thấy quá khó. Tôi vừa giảng qua thì không dám giảng kinh nữa, chỉ muốn quay về ở nơi lều tranh, đóng cửa tĩnh tu. Vì sao vậy ? Những người theo học với tôi không biết sửa lỗi, không biết tự làm trong sáng, việc giảng kinh thuyết pháp của tôi trọn vẹn thất bại. Tôi biết rõ ràng như vậy, vì sao còn làm mặt dày ở đây giảng giải ? Là vì có những người không có cơ duyên gặp tôi, trong đó không ít người muốn học. Tôi tận dụng mạng Internet, tận dụng băng ghi hình để truyền bá, đưa đến với những người có lòng muốn học. Vì những người ấy, cho nên vì thế tôi mới làm mặt dày ở lại đây giảng giải, không sợ người khác chê cười .Từ xưa đến nay, chỉ người hiếu học mới không phụ lòng thầy. Nhưng vị thầy trong suốt một đời hoàn toàn có thể thu nhận được mấy học viên như vậy, thật quá khó ! Người lúc bấy giờ hiểu được thực sự như vậy, do đó cũng cảm thông tha thứ cho tôi, không làm tôi xấu hổ .Trước đây tôi từng đi nhiều nơi trên quốc tế, tuy chưa tuyệt vời nhưng cũng là triển khai sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh. Tôi luôn tự cảm thấy rất là đơn độc, rất là buồn khổ vì không có ai cùng chí hướng, hợp tâm đạo. Cho nên, cứ mỗi lần quay về Đài Loan, tôi nhất định phải đến thăm thầy, luôn khuyến thỉnh thầy, mong thầy giảng dạy thêm 1 số ít học viên nữa, để khi ở quốc tế tôi hoàn toàn có thể có người trợ giúp. Thầy cũng rất là cảm động, nhận cho là đúng vậy .Trong rất nhiều năm, mỗi lần thăm thầy tôi đều nhắc lại yếu tố này, đại khái cũng đến bảy, tám lần. Lần ở đầu cuối, thầy bảo tôi : “ Không phải là tôi không muốn dạy, nhưng ông thay tôi tìm người học đi. ” Từ đó về sau, tôi không dám nói đến chuyện này nữa. Vì sao vậy ? Vì tôi không tìm được người học. Khi ấy tôi mới hiểu được thầy. Không phải thầy không dạy, mà là không có người học .

Học phải thực sự lắng nghe, phải thực sự vâng theo lời dạy mà làm. Ngoài mặt ra vẻ vâng lời, trong lòng ngấm ngầm trái nghịch, đó là lừa dối thầy. Thầy có biết điều đó hay không? Biết rất rõ. Tại Đài Loan, được nghe thầy Lý Bỉnh Nam giảng kinh có đến hơn nửa triệu người, những người thường xuyên thân cận bên thầy có hơn hai mươi người, từ sáng đến tối luôn ở bên thầy. Trong số hai mươi mấy người này, những ai thật học, những ai giả học, trong lòng thầy biết rất rõ. Thầy biết, tôi cũng biết. Thầy Lý Bỉnh Nam ở Đài Trung, trong suốt nửa cuối của đời thầy là cống hiến toàn bộ cho nơi đây. Thực sự theo học được với thầy có mấy người? Chỉ có ba người mà thôi. Thầy đã xem như thế là được an ủi lắm rồi.

Cho nên, về sau tôi có đến Bắc Kinh thăm Hoàng Niệm Tổ, là người đã cùng tôi gặp gỡ tại nước Mỹ. Hồi đó ở Mỹ tôi đang là Hội trưởng Hội Phật giáo Mỹ quốc, mang cái danh hảo là Hội trưởng. Quý vị đồng tu ở đó rất tôn trọng tôi. Họ bàn với tôi việc họ muốn thỉnh một vị Thượng sư Mật tông đến truyền pháp. Tôi không chấp thuận đồng ý. Tôi nói, tất cả chúng ta nhận truyền thừa qua nhiều đời tổ sư, chỉ sâu xa một pháp, huân tu vĩnh viễn, không nên tu tập thêm pháp khác .Rồi sau, tôi lại hỏi xem vị Thượng sư đó từ đâu đến. Họ nói, từ Bắc Kinh. Tôi lại hỏi thương hiệu, họ nói tên là Hoàng Niệm Tổ. Tôi vừa nghe qua cái tên Hoàng Niệm Tổ thì có ấn tượng rất là thâm thúy, vì trước đây thầy Lý Bỉnh Nam từng nhắc đến vị này với tôi. Tôi liền hỏi thêm một câu : “ Có phải là cháu ngoại ngài Mai Quang Hy không ? ” Mọi người đáp : “ Đúng vậy. ” Tôi nói, vậy thì hãy mời vị ấy đến .Mai Quang Hy là thầy của lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, vậy với tôi cùng môn phái. Học cùng môn phái, bất kể là giảng về pháp môn nào, đường lối cũng không sợ rơi lệch, không sợ dẫn dắt sai lầm đáng tiếc. Tôi trọn vẹn không có ý bài xích bất kể vị pháp sư nào, chỉ sợ làm rối loạn pháp môn mình đang tu học mà thôi. Hoàng Niệm Tổ với tôi cùng một dòng truyền thừa, ông là truyền nhân của cư sĩ Hạ Liên Cư, cháu ngoại của Đại sư Mai Quang Hy. Tôi nói, người này với tôi tuy chưa gặp nhau, nhưng chỗ hiểu biết của ông ấy nhất định không rơi lệch. Tôi hoan nghênh ông ấy đến đây .Khi ông ấy đến Mỹ, có mang theo bộ Chú giải kinh Vô Lượng Thọ, bản thảo in ronéo, in theo kiểu quay ronéo. Chúng ta đều biết, kỹ thuật in này không hề in nhiều hơn 150 bản mỗi lần. Từ bản thứ 150 trở đi thì chữ bị mờ đi, không rõ ràng. Cho nên, số lượng in như vậy rất ít, ông chỉ mang đi một bộ duy nhất. Ông Tặng bản sách này cho tôi. Tôi đọc qua rồi rất là hoan hỷ. Tôi hoằng dương bộ kinh này, ông ấy cũng hoằng dương bộ kinh này. Lúc ấy hoằng dương bộ kinh này trên toàn quốc tế vậy là được hai người, do đó tôi xem rồi rất là hoan hỷ .Tại nước Mỹ không có thời cơ gặp mặt, ông ấy ở Mỹ một tháng thì quay về Bắc Kinh, cho nên vì thế tôi nhất định phải đến Bắc Kinh gặp ông ấy. Chúng tôi vừa gặp nhau như đã quen lâu, vì cùng một dòng truyền thừa. Ông ấy cảm khái bảo tôi : “ Thầy Lý Bỉnh Nam có được một học trò như ông cũng đủ rồi. ”

Chúng ta theo học với một vị thầy, phải biết ơn thầy, phải báo ơn thầy. Bằng cách nào báo ơn? Phải y theo lời dạy vâng làm. Phật dạy chúng ta “diệt sạch tham sân si”, dạy chúng ta “siêng tu giới định tuệ”,

chúng ta tham sân si vẫn ngày một tăng trưởng, giới định tuệ quên sạch sành sanh, thật phụ lòng chư Phật, Bồ Tát, phụ lòng chư vị đại đức, tổ sư nhiều đời truyền pháp.

Xem thêm: Thiên Long Bát Bộ Là Gì ? Thiên Long Bát Bộ Và Tứ Đại Thiên Vương

Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam tại Đài Trung dạy học trong 38 năm, chỉ hoàn toàn có thể gặp được ba người học trò thực sự chịu nỗ lực làm theo. Bằng cách nào làm theo ? Chỉ gói gọn trong hai câu : “ Biết lỗi sửa được, biết thiện chịu làm. ” Ngoài ra không còn gì khác. Không thể sửa lỗi, không chịu làm thiện, đó là tự hại mình, tự vất bỏ mình, làm thế nào hoàn toàn có thể thành tựu ?Một đời tôi luôn sống trong sự biết ơn, nhận lãnh sự răn dạy của thầy, tôi nhận hiểu rất rõ ràng, biết được tự mình phải tu học như thế nào .Pháp sư Đàm Loan trong chú giải Luận Vãng Sanh nói rằng, thời mạt pháp có quá nhiều a-tu-la, la-sát. Thế nào là a-tu-la ? Ganh ghét, đố kỵ, sân hận là a-tu-la. Chúng ta suy ngẫm xem tự mình có ganh ghét, đố kỵ, sân hận hay không ? Thế nào là la-sát ? Tham lam, sân hận, si mê là la-sát. Cho nên, tổ sư nói ra lời ấy, tất cả chúng ta đọc qua rồi, suy ngẫm xem mình có rơi vào những trường hợp đó hay không ? Nếu

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp