Một tâm thanh tịnh

Phật chỉ ở ngay tại lòng của tất cả chúng ta, mà không phải ở một nơi nào khác. Dù cho có đi sang Ấn Độ, đến tận nơi đức Phật thành đạo, nhưng nếu không khéo tu thì sẽ không khi nào nhìn thấy được Phật .Vô niệm không phải là đoạn niệm

Hỏi: Vì sao gọi là tụng kinh ‘thâm nhập pháp tánh’? 

Đáp: Việc tụng kinh được phân chia thành ba cấp độ khác nhau:

Bạn đang đọc: Một tâm thanh tịnh

1. Đọc tụng trên văn chữ. 2. Theo lời kinh mà xét sâu nghĩa lý, gọi là ‘ tùy văn nhập quán ’. 3. Tụng kinh được vào trong chánh định, gọi là ‘ xâm nhập pháp tánh ’. Cấp độ thứ nhất là đọc tụng trên văn chữ, trong sách viết bao nhiêu chữ thì đọc tụng đúng y hệt như vậy, không có bỏ sót. Mỗi ngày đều ngồi trang nghiêm trước bàn thờ cúng Phật và đọc tụng như vầy : “ Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Cấp cô độc viên … ”, cứ đều đặn đọc tụng suốt mấy mươi năm, nhưng khi có ai hỏi câu đó là ý nghĩa gì, thì mới giật mình phủ nhận vì không biết. Do toàn bộ những tầm cỡ được lưu hành và sử dụng phổ cập đều được viết bằng âm Hán Việt, cho nên người không có học về chữ Hán thì sẽ không biết được câu nói đó nói về điều gì ; mà đã không biết được nghĩa của câu kinh thì làm thế nào mà biết cách vận dụng để tu tập ? Đọc kinh mà hiểu được nghĩa lý như vậy rồi mới đem ra ứng dụng vào cuộc sống giao tiếp hằng ngày để có được an lạc nhẹ nhàng cho mình và người.

Đọc kinh mà hiểu được nghĩa lý như vậy rồi mới đem ra ứng dụng vào cuộc sống giao tiếp hằng ngày để có được an lạc nhẹ nhàng cho mình và người.

Làm bạn với nỗi sợ hãi Hoặc ngay cả khi tụng đọc những bản kinh được chuyển sang chữ Việt như kinh Phổ Môn có đoạn : “ Giả sử hắc phong suy kỳ thiền phưởng, phiêu đọa La-sát quỷ quốc … ”, khi được chuyển sang tiếng Việt là : “ Giả sử gió đen thổi ghe thuyền trôi dạt vào nước của quỷ La-sát … ”, thì tuy tụng đọc mà không hiểu được ý nghĩa sâu kín bên trong của lời kinh đó thật sự chỉ dạy về điều gì ? Sự tụng đọc trên văn tự tuy cũng có phước, nhưng rất nhỏ bé và do không biết cách thực hành thực tế để đoạn trừ phiền não, do đó dù đọc tụng nhiều tầm cỡ mà khổ vẫn hoàn khổ. Cấp độ thứ hai là cách đọc tụng mà hoàn toàn có thể hiểu được nghĩa lý sâu xa của kinh, gọi là ‘ Tùy văn nhập quán ’. Trong kinh, đức Phật thường dùng những ví dụ để chỉ bày những nghĩa lý sâu xa của việc tu Đạo, mà phần lớn người đọc tụng hiếm khi nhận rõ, mà chỉ xét trên những nghĩa nông cạn của câu kinh mà thôi. Ví dụ như khi đọc đến đoạn : Nếu bị người hãm hại Xô vào hầm lửa lớn Do sức niệm Quán Âm Hầm lửa biến thành ao. Thì người ở Lever thứ nhất sẽ nghĩ nếu trong đời sống mà có ai hãm hại thì liền xưng niệm thương hiệu của Bồ tát Quán Thế Âm thì liền được ngài cứu thoát khỏi mọi tai nạn đáng tiếc. Tuy nhiên, so với người tụng kinh ở Lever thứ hai này với trình độ học hiểu Phật pháp khá, cho nên vì thế hoàn toàn có thể hiểu được nghĩa lý sâu xa là ‘ hầm lửa lớn ’ tượng trưng cho tánh nóng nảy sân giận của mình. Khi bị người chọc tức thì trong lòng nổi giận, lửa sân phát khởi ngùn ngụt đốt cháy cả thân và tâm, khiến cho bản thân không còn tỉnh táo sáng suốt và hoàn toàn có thể phát ra những lời nói hoặc hành vi làm tổn hại đối phương. Tuy nhiên, nhờ có sự tu tập trì niệm thương hiệu Quán Thế Âm mà tâm lý được sáng suốt an định, chánh niệm quán xét thấy lời nói kia như gió thoảng mây bay và bản thân của mình đâu có thật, cho nên vì thế hoàn toàn có thể buông bỏ mọi việc nhẹ nhàng. Chính khi ấy là ‘ Hầm lửa biến thành ao ’ mà trong kinh muốn nói đến. Có một câu truyện trong nhà Phật cũng nói về việc đọc tụng mà không hiểu rõ nghĩa lý như sau : Một vị tướng quân có tâm ngưỡng mộ Phật pháp, do đó hằng ngày ông ta đều siêng năng đọc tụng kinh Phổ Môn. Nhiều lần ông đọc tụng đến đoạn “ Giả sử hắc phong suy kỳ thiền phưởng, phiêu đọa La-sát quỷ quốc … ”, mà ông không hiểu được danh từ ‘ hắc phong ’ tức là ngọn gió đen mà trong kinh nói là chỉ về điều gì ? Bởi vì từ nhỏ cho đến khi ông đã trạc độ ngũ tuần mà chưa từng khi nào nhìn thấy có ngọn gió nào gọi là gió đen, vì thế mà trong lòng ông luôn ôm ấp vướng mắc này. Ứng dụng lời dạy đó ở mức độ nào thì mình được cái kết quả an lạc ở mức độ đó. Cho đến khi nào ứng dụng được hoàn mãn một trăm phần trăm là tới đạt chỗ cứu cánh đại từ đại bi giống như Bồ tát Quán Thế Âm.

Ứng dụng lời dạy đó ở mức độ nào thì mình được cái kết quả an lạc ở mức độ đó. Cho đến khi nào ứng dụng được hoàn mãn một trăm phần trăm là tới đạt chỗ cứu cánh đại từ đại bi giống như Bồ tát Quán Thế Âm.

Sống tỉnh thức để thưởng thức chân niềm hạnh phúc Một hôm, ông quyết định hành động đi đến chùa để gặp Hòa thượng và trình diễn rằng : – Bạch Hòa thượng ! Từ trước đến giờ, con đọc tụng kinh Phổ Môn và trong đó có nói về danh từ ‘ gió đen ’, nhưng dù tâm lý mãi mà con vẫn không biết ‘ gió đen ’ là gió như thế nào ? Vậy xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy cho con hiểu. Ngay lúc đó, vị Hòa thượng mới quát một lời khiến vị tướng quân giật mình :

– Ông đường hoàng là một vị tướng quân mà lại hỏi câu hỏi ngớ ngẩn như vậy sao ? Vừa nghe được những lời lẽ xúc phạm của Hòa thượng, vị tướng quân không hề kiếm chế được cơn giận, do đó ông đã rút gươm ra khỏi vỏ và trợn mắt, nghiến răng hét lớn rằng : – À ! Lão Hòa thượng dám cả gan chê bai một người như bổn Tướng như thế thì Ta sẽ trị tội ông. Lúc ấy, Hòa thượng vẫn thản nhiên nhìn thẳng vào mặt vị tướng quân kia và nói : – Ông đến đây vì muốn biết về ‘ gió đen ’ và Ta đã chỉ cho ông thấy nó là như thế nào rồi đó. Vậy sao ông còn nổi giận ? Nghe những lời ấy, vị Tướng quân như bị hóa đá và không biết vấn đáp thế nào, do tại ông ta đã kịp nhận ra lỗi lầm của mình và thật sự hiểu được danh từ ‘ gió đen ’ được nói đến trong Kinh là như vậy ! Cũng vậy, hằng ngày tất cả chúng ta tuy đã biết tu học Phật pháp mà đôi lúc cũng còn bị ‘ gió đen thổi tấp vào nước quỷ La sát ’ khiến mặt mũi đang hiền từ biến dạng thành hung tợn, chuẩn bị sẵn sàng tư thế chiến đấu với mọi người. Từ cái tâm sân hận, những ngọn lửa của sự chấp ngã và tham dục đã phục cháy làm cho sắc mặt và hình tướng đều đổi khác biến dạng. Ngay lúc đó, dù là người có đẹp như Tây Thi hay Điêu Thuyên đi nữa, nhưng ‘ tam bành lục tặc ’ đã nổi lên thì nhìn giống như quỷ La-sát xấu xí và hung tàn, khiến mọi người không ai dám ở gần. Cái tâm sân khởi lên và mình để cho nó tự tự do phát tác ra bên ngoài ở nơi lời nói và hành vi thì nó sẽ đưa mình người cảnh khổ sầu. Đó chính là hình ảnh bị trôi dạt vào nước của quỷ La-sát và như vậy là sẽ bị nguy hại đến tánh mạng. Bây giờ khéo biết niệm : ” Nam mô Đại Từ Đại Bi Linh Cảm Quán Thê Âm Bồ Tát ” tức là dùng nước cam lồ mát của từ bi mà tưới mát thì ngọn lửa sân giận đâu còn phựt cháy được nữa. Chính vì thế mà trong kinh cũng nói rằng : ” Do sức niệm Quán Âm, chúng đều không dám hại ”. Nhờ niệm Quán Âm nương về tâm từ bi thì hoàn toàn có thể hóa giải được sân si thù hận. Đọc kinh mà hiểu được nghĩa lý như vậy rồi mới đem ra ứng dụng vào đời sống tiếp xúc hằng ngày để có được an nhàn nhẹ nhàng cho mình và người. Ứng dụng lời dạy đó ở mức độ nào thì mình được cái hiệu quả an nhàn ở mức độ đó. Cho đến khi nào ứng dụng được hoàn mãn một trăm Phần Trăm là tới đạt chỗ cứu cánh đại từ đại bi giống như Bồ tát Quán Thế Âm. Cấp độ thứ ba là hạng ngưòi tụng kinh có trình độ cao nhất. Do hiểu được nghĩa lý của kinh, do đó khi đọc tụng đến đâu thì tâm sáng tỏ đến đấy và được an nhàn, thanh tịnh, trong sáng không có vọng tưởng, phiền não xen tạp. Đang lúc tụng kinh, tâm được vào chánh định. Ngày xưa, Đại sư Thiên Thai Trí Khải, là vị Tổ của tông Pháp Hoa, chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa. Một hôm, trong lúc ngồi tụng kinh Pháp Hoa, khi đến phẩm Dược Vương Bổn Nguyện Công Đức, có đoạn : “ Bồ tát Dược Vương lần lượt đốt tay trái, tay phải và ở đầu cuối là đốt luôn tấm thân để cúng dường Đức Phật … Đức Phật khen ngợi rằng : Đây mới thật là chân công đức, là pháp cúng dường chân thực ”. Khi ấy, ngài liền nhập vào chánh định và nhìn thấy Pháp hội Linh Sơn vẫn còn chưa tan, đức Phật Thích Ca còn đang giảng nói kinh Pháp Hoa ở đó. Đã có sẵn cái tâm sáng suốt rồi, thì cần phải nhọc lòng đi tìm ở đâu nữa, hãy xoay trở lại cái tâm ấy mà tu hành thì chắc chắn được Giác ngộ.

Đã có sẵn cái tâm sáng suốt rồi, thì cần phải nhọc lòng đi tìm ở đâu nữa, hãy xoay trở lại cái tâm ấy mà tu hành thì chắc chắn được Giác ngộ.

Nếu tất cả chúng ta đã có đọc tụng kinh Pháp Hoa sẽ thấy đức Phật có nói rằng : ” Người nào tu hành tinh tấn có công đức sẽ thấy Ta và chư Tỳ-kheo tăng vẫn còn ở trên núi Linh Thứu chưa hề nhập diệt ”. Qua sự kiện trên, tất cả chúng ta thấy được hai mặt : – Do tâm được an định, lặng lẽ do đó hoàn toàn có thể cảm thông với Phật và nhìn thấy Pháp hội Linh sơn. – Chính là Pháp thân của mỗi người, tức là tâm sáng suốt sẵn có. Khi tụng kinh, tâm được an nhàn, thanh tịnh thì tổng thể những ‘ Hóa thân ’ tức là những vọng niệm đều tụ hội về một chỗ, thì liền hoàn toàn có thể nhìn thấy ” tháp báu của Phật Đa Bảo ” và mở được cửa tháp thấy được đức Phật – bản tâm sẵn có này. Ngay lúc này, cái thấy, cái biết nghe đang hiển bày lồ lộ ở nơi tai mắt của mỗi người, không còn một vật gì ngăn che. Giống như mặt trời tỏa sáng gữa khung trời trong xanh, không một gợn mây. Cho nên nói : Phật tại Linh Sơn đâu có xa Linh Sơn chỉ ở tại lòng ta Người người sẵn có Linh Sơn tháp

Hãy hướng Linh Sơn tháp ấy tu.

Phật chỉ ở ngay tại lòng của tất cả chúng ta, mà không phải ở một nơi nào khác. Dù cho có đi sang Ấn Độ, đến tận nơi đức Phật thành đạo, nhưng nếu không khéo tu thì sẽ không khi nào nhìn thấy được Phật. Phải nhìn lại ngay nơi bản thân này thì sẽ thấy được ‘ đức Phật thật sự ’ chính là cái tâm thanh tịnh sáng suốt ở nơi mỗi người. Đã có sẵn cái tâm sáng suốt rồi, thì cần phải nhọc lòng đi tìm ở đâu nữa, hãy xoay trở lại cái tâm ấy mà tu hành thì chắc như đinh được Giác ngộ. Như vậy đọc tụng kinh mà thấu suốt được bản tánh thanh tịnh thuần nhất vốn sẵn có của mình chính là công phu tụng kinh ‘ xâm nhập Pháp tánh ’ cao nhất của người chuyên đọc tụng kinh. Sống tỉnh thức để thưởng thức chân niềm hạnh phúc

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp