01. Phật Pháp căn bản
PHẬT PHÁP
Bạn đang đọc: 01. Phật Pháp căn bản
TRONG ĐỜI SỐNG
Tâm Diệu
Nhà xuất bản Hồng Đức năm trước
01
PHẬT PHÁP CĂN BẢN
Hỏi: Đạo Phật là gì?
Danh từ Đạo Phật “Buddhism” là một danh từ của người phương Tây dùng để gọi một tôn giáo kiến thiết xây dựng trên nền tảng các lời dạy của Đức Phật. Tuy nhiên, tại các vương quốc Nam Á và Đông Nam Á, danh từ thường dùng là “Buddha-Sasana”, có nghĩa là lời dạy của Đức Phật, Phật pháp hay Phật Giáo.
Từ Buddha được phiên âm ra tiếng Việt là Bụt hay Phật, không phải là tên riêng. Đó là một quả vị, có nghĩa là người Giác ngộ, người Tỉnh thức, hoặc là người Biết như thật, là người đã trọn vẹn giải thoát, không còn bị sinh tử luân hồi. Tên riêng của Đức Phật là Sĩ Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhattha Gotama). Tuy nhiên, ngày nay có rất ít người dùng tên gọi nầy. Chúng ta thường gọi Ngài là Đức Phật.
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào khoảng chừng hai ngàn sáu trăm năm trước (từ thế kỷ thứ sáu trước Tây lịch), khi Ngài Sĩ Đạt Đa Cồ Đàm, hay Đức Phật, tự mình giác ngộ vào lúc 35 tuổi. Sau khi Ngài Niết Bàn gần hai trăm năm mươi năm thì Phật giáo trở thành tôn giáo mang tính quốc tế, do công của vua A Dục đã lập những đoàn truyền giáo mang giáo lý Phật truyền sang Á Châu và một số vương quốc Châu Âu.
Hỏi: Đạo Phật có phải là một Tôn giáo không?
Đối với nhiều người, Phật Giáo không phải chỉ là một tôn giáo mà còn có thể xem như là một triết học, hay đúng hơn là “một lối sống” hay “một con đường”. Gọi Phật Giáo là một triết học, vì danh từ “triết học – philosophy ” – bắt nguồn từ hai chữ “philo” nghĩa là “tình thương (love)” và “sophia” nghĩa là “trí tuệ (wisdom)”. Do vậy – triết học, nói gọn là tình thương và trí tuê. Với ý nghĩa nầy, không thể không cho rằng Phật Giáo là một triết học được vì Phật Giáo là đạo từ bi và trí tuệ. Tuy nhiên, Phật giáo không thể trọn vẹn được xem như một triết học. Triết học tương quan chính yếu đến sự tìm hiểu và khám phá biết và không chú trọng đến phần thực hành thực tế, trong khi đó Phật Giáo đặc biệt quan trọng chăm sóc đến sự thực hành thực tế và chứng ngộ. Có nhiều người cho rằng Phật giáo siêu việt trên cả triết học và tôn giáo.
Hỏi: Nếu nói Đạo Phật là một tôn giáo, vậy Đạo Phật có gì khác biệt với các tôn giáo khác không?
Học giả Smith Huston, trong cuốn The Religions of Man trình bày những tôn giáo lớn của trái đất, ông nêu ra sáu điểm khác biệt của Phật Giáo là: (1) một tôn giáo không quyền lực tối cao, (2) một tôn giáo không nghi lễ, (3) một tôn giáo không tính toán, suy lường, (4) một tôn giáo không tập tục truyền thống, (5) một tôn giáo không có khái niệm về quyền tối thượng và ân điển của một đấng Thượng-đế, (6) một tôn giáo không thần bí.
Ông cũng nhắc lại câu truyện một người hỏi Phật: “Ngài có phải là Thượng Đế không?”. Đức Phật vấn đáp: “Không”. “Là một bậc Thánh?”. “Không”. Là một Thiên Thần?. “Không”. “Vậy Ngài là người thế nào?”. Đức Phật đáp: “Ta là người đã giác ngộ”. Câu vấn đáp của đức Phật đã trở thành thương hiệu của Ngài, bởi đây là điều đức Phật đã thuyết bày.
Hỏi: Đức Phật là người Giác ngộ. Đạo Phật là đạo Giác Ngộ. Vậy Đức Phật giác ngộ cái gì?
Sau bốn mươi chín ngày thiền định dưới cội bồ đề, Đức Phật đã tự thân chứng nghiệm nguyên lý duyên khởi, thấu rõ mối quan hệ hỗ tương của mọi sự vật hiện tượng kỳ lạ, thấy rõ bản thể của nhân sinh ngoài hành tinh. Nguyên lý duyên khởi nói rằng, tất cả hiện hữu trong quốc tế bát ngát bát ngát này, không một hiện hữu nào có thể sống sót một cách độc lập mà không nương tựa vào nhau. Sự nương tựa và tùy thuộc nhau để hình thành và sống sót..vv.. là nguyên lý quản lý và vận hành của ngoài hành tinh nhân sinh này, tựa như như thế đối với hằng hà sa quốc tế.
Hỏi: Con người thông thường có thể giác ngộ như Ngài được không?
Đối với Phật Giáo, con người có thể giải thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi bằng các nỗ lực tu tập tự thân: làm lành, tránh ác và tự thanh tịnh hóa tâm ý. Bốn chân lý nền tảng của Phật giáo cho rằng mọi khổ đau (Khổ đế) của chúng sinh đều có một hay nhiều nguyên do (Tập đế) gây nên, chúng có thể bị giải trừ (Diệt đế) và có con đường để giải trừ khổ đau đó (Đạo đế). Con đường đó chính là con đường giải thoát, là Bát Chánh Đạo trong giáo lý cơ bản của nhà Phật. Giáo lý này được qui thành ba bộ môn: Giới, Định và Tuệ. Thực hành Giới và Định là đưa tới trí Tuệ, là giải thoát khỏi sự mê muội, lòng ích kỷ và khổ đau, là đạt tới cảnh giới Niết Bàn.
Hỏi: Vậy Niết bàn là gì?
Niết bàn được xem là mục tiêu cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã thanh lọc hết mọi vô minh phiền não, sự giải thoát khỏi tất cả mọi khổ đau, sự đoạn diệt trọn vẹn mọi tham ái, sự dập tắt tham sân si. Trạng thái an tịnh tuyệt đối không còn bị bốn tướng sanh lão bệnh tử chi phối, không còn chịu sự ảnh hưởng tác động của nghiệp và của quy luật nhân duyên sinh.
Hỏi: Niết bàn ở đâu?
Niết Bàn có thể chứng nghiệm được ngay trong xác thân này, trong quốc tế này, trong cuộc sống hiện tại này, nghĩa là bất cứ trong giây phút nào con người không khởi tâm điên đảo, phân biệt chấp trước đối với cuộc sống, xa lìa được chấp ngã, không còn chấp cái tôi, cái của tôi và cắt đứt được cội nguồn tâm ý tham lam, sân hận và si mê là tâm hồn được thanh thản, tự do, tự tại, thì ngay giây phút đó là an nhàn, giải thoát, là Niết bàn.
Hỏi: Đức Phật đã dạy những gì?
Sau sáu năm khổ hạnh và bốn mươi chín ngày tịnh tọa dưới gốc cây bồ đề, Ngài bừng tỉnh, trở thành bậc Giác Ngộ. Từ sự giác ngộ này, Ngài thấu suốt nguyên do mọi nỗi thống khổ của kiếp người và giải pháp để chấm hết nỗi thống khổ đó, đó là Tứ Diệu Đế, tức là bốn chân lý hay bốn thực sự nhiệm mầu. Bài giảng về bốn chân lý nhiệm mầu có thể xem như là những lời dạy của một vị y sĩ: định bệnh (Khổ đế), xác định nguyên do của bệnh (Tập đế), diễn đạt trạng thái khi lành bệnh (Diệt đế), và cách thức trị bệnh (Đạo đế). Bốn chân lý đó là:
Sự Thật Về Khổ: Đây là thực sự về khổ kinh qua các yếu tố của đời sống, qua sinh, già, bệnh, chết, mong ước mà không được toại nguyện, thương mến nhau mà phải chia lìa nhau, ghét nhau mà cứ phải gặp nhau và thân tâm thay đổi bất thường. Dù tất cả chúng ta có chối bỏ đến đâu đi nữa, thân này rồi một ngày sẽ già nua, bệnh hoạn và chết đi. Dù ta có tìm quên lãng trong những thú vui bao nhiêu đi chăng nữa, thì sự có mặt của tham luyến, giận hờn, thù ghét, lo âu, hoảng sợ và stress vẫn còn sống sót.
Sự Thật Về Tập: Còn gọi là nguyên do của khổ.Cái gì đã trói buộc tất cả chúng ta vào vòng bánh xe khổ lụy? Đức Phật thấy rằng sự trói buộc ấy nằm ngay trong tâm của mỗi người tất cả chúng ta, tất cả chúng ta bị trói buộc vì lòng ái dục, cố chấp vào quan điểm và quan điểm của mình, mê tín dị đoan tin rằng những lễ nghi, hình thức bên ngoài có khả năng diệt được khổ đau, và nhất là cố chấp vào một cái tôi thường hằng, không bao giờ thay đổi. Chúng ta lăn theo bánh xe khổ đau vì ta đeo theo nó, và tất cả chúng ta đeo theo nó cũng chỉ vì vô minh của mình.
Sự Thật Về Dứt Khổ: Sự thật thứ ba là kết quả sau khi con người đã diệt trừ và chấm hết được ái dục, nguồn gốc của mọi khổ đau. Đó gọi là thực sự về sự chấm hết khổ, là Niết Bàn. Nếu ai giải thoát được mọi trói buộc đau khổ bằng cách không khởi tâm điên đảo, phân biệt chấp trước đối với cuộc sống, thì người đó sẽ đạt được Niết Bàn ngay trong cuộc sống này.
Sự Thật Về Con Đường Dứt Khổ: Sự thật thứ tư này là con đường trực tiếp đưa đến sự giải thoát, chấm hết khổ đau. Con đường này thường được diễn đạt là Bát chính nghĩa, tức tám con đường chân chính hay còn gọi là tám bước nhiệm mầu dẫn đến an nhàn hạnh phúc. Đây không phải là con đường quá khích, sung sướng hay khổ hạnh, cũng không phải là con đường của sự chìm đắm trong sắc dục. Đây chính là con đường trung đạo. Còn đường của sự tỉnh thức. Tám bước nhiệm mầu là lời Đức Phật dạy về cách thức tu tập để Phật tử nương theo mà hành trì, ngõ hầu kết thúc được mọi nỗi thống khổ, đạt được trạng thái tâm an nhàn. Gom chung tám bước này thành ba bộ môn tu tập, gọi là Tam Học, tức là ba môn học chung cho mọi người tu Phật là: Giới học, gồm có: Chính ngữ, Chính nghiệp và Chính mệnh. Định học, gồm có: Chính tinh tấn, Chính niệm và Chính định. Tuệ học, gồm có: Chính kiến và Chính tư duy.
Nói tóm lại, Sự thật về khổ phải được ý thức rõ ràng. Sự thật về nguyên do của khổ phải được thấu hiểu. Chân lý về sự chấm hết khổ phải được kinh nghiệm tay nghề. Và con đường để chấm hết khổ đau ấy phải được bước đi bởi mỗi người trong tất cả chúng ta. Đức Phật đã giác ngộ giải thoát và Ngài đã vẽ lại con đường đó để tất cả chúng ta đi theo. Ngài không giúp tất cả chúng ta hết khổ đau được, Ngài chỉ cho tất cả chúng ta thấy một con đường để đi tới. Không có một công thức huyền bí nào có thể đem ta ra khỏi những khổ đau này. Mỗi người tất cả chúng ta phải tự thanh lọc tâm mình, bởi vì chỉ có những ái dục trong tâm mới có khả năng trói buộc được ta mà thôi. Trong suốt 49 năm hoằng pháp Đức Phật đã giảng dạy rất nhiều đề tài, nhưng các điều cơ bản trong Phật Giáo có thể tóm tắt trong Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo như trên.
Hỏi: Tôi muốn đi theo con đường của Đức Phật, vậy xin cho biết một cách tóm lược con đường tu tập của một người Phật tử.
Giáo lý của nhà Phật có thể tóm gọn trong ba tiềm năng tu hành như sau:
Thứ nhất là chấm hết làm các việc xấu, ác.
Thứ hai là siêng năng làm các việc lành, thiện.
Thứ ba là nỗ lực thực hành thực tế các pháp môn tu tập để cho tâm thức được đạt tới cảnh giới thanh tịnh tịch tĩnh.
Chấm dứt làm các việc xấu ác và siêng làm các việc tốt đẹp là tiềm năng của các tôn giáo và luôn cả các nền giáo dục của các vương quốc trên trên giới. Duy có sự phân biệt thế nào là xấu ác và thế nào là tốt đẹp thì các tôn giáo và các vương quốc trên quốc tế lại có một số quan điểm khác nhau, tùy theo các nền văn hóa truyền thống khác nhau, có những điều mà ở thời buổi này, tôn giáo này, xã hội này cho là điều lành thì ở thời buổi khác, tôn giáo khác và xã hội khác lại cho là điều xấu ác. Cho nên định nghĩa tốt xấu trong trần gian cũng chỉ là tương đối.
Theo quan điểm của nhà Phật thì nội dung của Năm Giới cấm đã phân biệt rõ ràng thế nào là tốt đẹp và xấu ác. Giữ gìn không vi phạm, sống một cuộc sống chân thật, không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không bị mê muội vì các chất men say và cần sa, ma túy, không điêu ngoa gian dối, nói lời thêu dệt, nói lời thô tục, chửi mắng người khác, v.v… là đã tránh được yếu tố làm điều xấu ác.
Trong bản kinh ngắn khi đức Phật dạy các hoàng tử Kalama, Ngài đã định nghĩa rõ ràng về những điều gì là điều lành (thiện) và những điều gì là điều không lành (bất thiện), như sau:
“Hành động gì có hại cho mình, có hại cho người, có hại cho cả hai, bị người trí chỉ trích, nếu gật đầu và triển khai sẽ đem lại tâm khổ sở, tâm ưu tư, hành động như vậy là hành động bất thiện, và tất cả chúng ta phải vô hiệu hành động ấy.
Hành động gì không có hại cho mình, không có hại cho người, không có hại cho cả hai, được người trí tán thán, nếu gật đầu và triển khai sẽ đem lại tâm an nhàn, tâm hoan hỷ. Hành động như vậy là hành động thiện và tất cả chúng ta phải thực hành”.
Như thế, đối với đạo Phật, có thể nói, tiêu chuẩn để xác định lành thiện hay xấu ác địa thế căn cứ vào hai yếu tố là niềm hạnh phúc và khổ đau. Hành động đem lại niềm hạnh phúc cho chúng sinh là lành thiện và hành động gây khổ đau cho chúng sinh là xấu ác. Việc làm nào có quyền lợi cho mình và cho người là lành thiện. Trái lại, nếu chỉ đem lại niềm hạnh phúc cho cá thể mình mà gây khổ đau cho chúng sinh khác là xấu ác.
Tu là chuyển nghiệp, chuyển từ những hành động xấu ác tạo ra nghiệp xấu sang qua hành động lành thiện tạo ra nghiệp lành. Giai đoạn tu hành này có tiềm năng đào tạo và giảng dạy nên những con người tốt đẹp để cùng sống chung với mọi người trong mái ấm gia đình, xã hội, ngõ hầu cùng nhau kiến thiết xây dựng nếp sống lành mạnh trong một thế giới an vui, hòa bình, ổn định của đời sống tương đối tại thế gian.
Con đường tu tập của đạo Phật không dừng lại ở đây. Điều cốt tủy mà đức Phật muốn trao truyền lại cho tất cả chúng ta nằm ở giai đoạn thứ ba, giai đoạn “Tự tịnh kỳ ý “, tự mình thanh lọc tâm ý cho nó trọn vẹn tịch tịnh, trong sáng, vượt lên phạm trù đối đãi thiện ác, có không, vượt ra khỏi vòng luân hồi quanh co trong sáu nẻo nơi tam giới.
Trong kinh Pháp Cú, đức Phật dạy tất cả chúng ta phải vượt lên phạm trù đối đãi thiện ác như:
“Người sống ở đời này
Không nhiễm cả thiện ác
Không sầu, sạch không bụi
Ta gọi [là] Bà La Môn.”
Ai vượt qua thiện ác
Chuyên sống đời Phạm Hạnh
Sống thẩm sát ở đời
Mới xứng danh Tỳ Kheo”.
Hỏi: Tại sao phải vượt lên trên cả Thiện và Ác?
Tại vì hành động thiện tạo ra thiện nghiệp, hành động ác tạo ra ác nghiệp, cả hai đều gây nhân tái sinh để hưởng phước báo tốt hoặc chịu quả báo xấu, cũng như sợi dây xích dù có bằng vàng thì cũng trói buộc tất cả chúng ta mà thôi. Còn có hành động, dù là hành động ác hay hành động thiện, thì vọng tâm còn bay nhẩy, dòng tâm lý còn miên man không dừng, vòng luân hồi còn tùy theo nghiệp thiện ác mà trôi lăn miên viễn.
Hỏi: Cái gì là cốt tuỷ của đạo Phật?
Mục đích của đạo Phật là giúp chúng sinh giải thoát ra khỏi phiền não khổ đau để có cuộc sống an vui tự tại mà muốn đạt đến mục tiêu này thì chúng sinh phải biết buông xả. Vì thế trong Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikaya), Đức Phật đã tóm gọn cốt tủy của đạo Phật trong một câu thật ngắn gọn cho những ai muốn đi trên con đường giải thoát giác ngộ, đó là “Không được bám víu vào bất cứ gì cả – Sabba dhamma nalam abhinivesaya.” Tiếng Anh là “Nothing whatsoever should be clung to” mà Kinh Kim Cang gọi là “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” nghĩa là một khi sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) tiếp xúc với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) phát sinh sáu thức (nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức, ý thức) mà tâm không bám víu, không dính mắc, không chấp thủ, không khởi tâm phân biệt, tức là buông xả mọi vọng tưởng. Khi hết vọng tưởng, thì an trụ được tâm.
Hỏi: Vậy, tu tập như thế nào để đừng để dính mắc vào bất cứ gì cả
Bởi vì dính mắc vào bất cứ gì đều là sự trói buộc và đem lại đau khổ. Đức Phật là người chẳng hề dính mắc vào bất cứ gì. Ngài chỉ dạy sự thực hành thực tế buông xả. Tăng đoàn của Ngài từ thời xưa cho đến thời nay đều thực hành thực tế sự chẳng để dính mắc. Để thực hành thực tế điều này, Ngài chỉ dạy như sau:
Khi mắt thấy một vật, chỉ thấy vật ấy. Khi tai nghe một tiếng, chỉ nghe tiếng ấy. Khi mũi ngửi một mùi, chỉ ngửi mùi ấy. Khi lưỡi nếm món gì, chỉ nếm món đó. Khi có xúc cảm trên da hay trên thân, chỉ biết đến xúc cảm ấy. Và khi một ý nghĩ, một đối tượng tâm linh, khởi lên trong tâm, như một tư tưởng xấu chẳng hạn, chỉ biết tư tưởng ấy.
Điều này có nghĩa là không nên để cho tư tưởng phân biệt xấu, tốt, ưa thích hay ghét bỏ sanh khởi. Ưa thích cái gì có nghĩa là ham muốn cái ấy, không ưa thích cái gì có nghĩa là ghét bỏ cái ấy. Ham muốn hay ghét bỏ đều là ô nhiễm phát sinh từ tâm tham, sân và si. Không để các ô nhiễm này dấy lên trong tâm, tức là không dính mắc. Không khai sinh thêm (người, việc hay vật) “thương” hay “ghét” đấy là không dính mắc. Thực hành trọn vẹn được điều này sẽ mang lại an nhàn và niềm hạnh phúc. Hay ít nhất khi giảm thiểu được những sự bám víu hay dính mắc là ta tiến gần hơn đến sự giải thoát nội tại, là thực chất của thanh tịnh. Sự thanh tịnh thật sự chỉ có trong nội tâm.
Khi Phật còn tại thế, có một người tìm đến cầu học, hai tay cầm hai bó hoa lớn để cúng dường. Khi thấy người ấy, Phật bảo “Buông!” Ông ta buông tay trái, bó hoa rớt xuống đất. Phật lại bảo “Buông!” Ông ta buông tay phải, bó hoa kia cũng rớt xuống đất. Phật lại bảo “Buông!” Ông ta ngơ ngác, thưa: “Bạch Thế Tôn, con đã buông cả hai tay rồi. Còn gì nữa đâu mà buông?” Phật dạy: “Như Lai bảo ông buông lần thứ nhất là dạy ông buông sáu căn, lần thứ hai là dạy ông buông sáu trần, lần thứ ba là dạy ông buông sáu thức. Khi căn, trần, thức không còn vướng mắc thì tất cả 18 giới sẽ không tạo ra, lúc ấy ông được giải thoát.”
Đây là một pháp hành rất gọn và thẳng tắp, được cho là tuyệt vời. Nếu còn dính mắc, ngay cả vào điều lành, ngay cả vào ý niệm “đừng dính mắc” này là trong tâm sẽ dấy lên tư tưởng nhiễm ô và tâm liền trở nên bất tịnh. Dính mắc vào bất cứ gì là mang gánh nặng trên mình. Dù gánh bên vai hay đội trên đầu một bao vàng bạc kim cương đá quý thì cũng nặng giống như đang vác một bao cát đá. Vậy, theo lời Phật dạy, đừng mang cát đá, cũng đừng mang vàng bạc. Hãy buông chúng xuống. Đừng để bất cứ vật gì dù nặng hay nhẹ trên đầu (đầu, ở đây, có nghĩa là tâm thức). Hãy vô sở trụ. Thanh tịnh hóa tâm ý cũng chính là nghĩa đó. Thứ nhứt tránh làm việc ác, thứ hai siêng làm việc lành, còn thứ ba là thanh tịnh hóa tâm ý, đó là lời dạy của chư Phật.
Hỏi: Làm sao để trở thành một Phật tử?
Trong kinh Tăng Chi, đức Phật dạy: “Ai nguyện nương tựa Phật, Pháp, Tăng, thì người ấy được gọi là Phật tử”. Nguyên văn lời nguyện thành một Phật tử là:
Buddham saranam gacchàmi, (Con nay đi theo Phật)
Dhammam saranam gacchàmi, (Con nay đi theo Pháp)
Sangham saranam gacchàmi, (Con nay đi theo Tăng)
(Saranam = sự che chở, chổ ẩn trú, ngôi nhà ở, nơi lệ thuộc)
Đi theo Phật là đi theo con đường mà Phật đã đi qua và đã giảng dạy lại cho đời. Ngài đã tận mắt chứng kiến nổi khổ của sinh, già, bịnh, chết và đã từ bỏ đời sống thế tục để tu tập và chứng ngộ thực sự của duyên khởi-vô ngã.
Đi theo Pháp hay thực hành thực tế Pháp là thực hành thực tế Bốn Chân Lý Nhiệm Mầu tức Tứ diệu đế, thực hành thực tế Giới, Định, Tuệ, là đi ra khỏi dục vọng hay đi vào sự ly dục để thoát khỏi khổ đau.
Đi theo Tăng là đoàn thể sống theo ý thức lục hòa (thân hòa đồng trú, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, lợi hòa đồng quân, giới hòa đồng tu và kiến hòa đồng giải) và đang tích cực thực hành thực tế Pháp ly dục.
Hỏi: Đó là lời dạy của Đức Phật nhưng tôi muốn chính thức là một Phật tử, một Phật tử đúng nghĩa, thì tôi phải làm những việc gì?
Vì đạo Phật chủ yếu là tự nguyện chuyển tâm nên không có sự áp đặt và lôi kéo. Người từ đạo khác chuyển qua đạo Phật thường là do điều tra và nghiên cứu kinh sách Phật giáo, hiểu được cái tinh hoa thâm thúy của đạo Phật mà quay về đường Giác.
Người Phật tử đúng nghĩa là người có tham gia một lễ truyền thọ Tam Quy là Quy y Phật, Quy Y Pháp và Quy Y Tăng, gọi là Quy Y Tam Bảo. Quy y nghĩa là trở về và nương tựa, nhưng tất cả chúng ta trở về đâu và nương tựa cái gì? Chúng ta trở về với Phật giáo và nương tựa vào Tam Bảo, Phật, Pháp, và Tăng. Sau lễ quy y, người Phật tử được thầy truyền thọ Tam Quy đặt cho một pháp danh (Dharma name). Pháp danh này là hình tượng chính thức của người Phật tử, nói lên sự gật đầu nương tựa vào Tam Bảo về mặt niềm tin.
Quy y như thế có nghĩa là hoan hỷ đồng ý sự hướng dẫn của Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo. Phật Bảo là chư Phật, Pháp Bảo là giáo pháp, đơn cử là Tam Tạng Kinh Điển, Tăng Bảo là Tăng đoàn, đoàn thể của những người đã ly gia cắt ái, đang tu hành thanh tịnh, đại diện thay mặt Chư Hiền Thánh Tăng cả ba thời để hướng dẫn Phật tử trên con đường đến bờ Giác. Khi quy y Tam Bảo là tất cả chúng ta quy y Chư Phật, Chư Pháp và Chư Tăng.
Thật ra, Đức Phật không nói tất cả chúng ta quy y là phải quy y với Phật, mà Ngài dạy tất cả chúng ta quy y là quy y với tự tính giác của mình. Giác là Phật Bảo, Phật có nghĩa là giác ngộ, quy y Phật là quy y với bậc giác ngộ. Như thế quy y Tam Bảo chính là Quy Y Tự Tính Tam Bảo, tức là quay về tự tính giác ngộ sẵn có của chính mình: Phật tức là Giác, Pháp tức là Chánh, Tăng tức là Tịnh.
“Tự tâm quy y Giác thì tà mê chẳng sanh, thiểu dục tri túc, hay lià tài sắc, gọi là Lưỡng Túc Tôn.
“Tự tâm quy y Chánh, niệm niệm chẳng tà kiến, vì chẳng tà kiến nên chẳng có nhân ngã, cống cao, tham ái, chấp trước, gọi là Ly Dục Tôn.
“Tự tâm quy y Tịnh, tự tính đối với tất cả cảnh giới trần lao ái dục đều chẳng nhiễm trước, gọi là Chúng Trung Tôn…”
Quy y Phật Bảo là quay lưng với trạng thái tâm vô minh và nương tựa vào tâm giác ngộ. Quy y Pháp Bảo là quay lưng với trạng thái tâm tà kiến và nương tựa vào chính tri chính kiến, có nghĩa là nương tựa vào giáo nghĩa trong tầm cỡ để tự thực hành thực tế thanh tịnh hoá tâm ý, tức sửa đổi những hành vi thân, khẩu, ý sai lầm đáng tiếc. Quy y Tăng Bảo, tức là thoát ra khỏi tâm nhiễm ô và bất hoà để nương tựa vào tâm thanh tịnh và sáu hoà hợp của một đoàn thể Tăng. Vì thế, điều kiện kèm theo cơ bản của người học Phật, là phải quay đầu với si mê tà kiến mà trở về nương tựa nơi Giác, Chánh và Tịnh. Đó chính là quy y với tự tánh Tam bảo.
Nơi lệ thuộc thực sự là Pháp, vì nhờ sự nhận thức về Pháp, người Phật tử sẽ trở nên tự do và được giải thoát khỏi đau khổ. Pháp gồm có sự chấm hết đau khổ và con đường đi tới sự chấm hết.
Hỏi: Đã được truyền thọ Tam Quy để trở thành Phật tử vậy có thiết yếu phải thọ giới không?
Ngoài Quy Y Tam Bảo, mỗi người Phật tử cũng cần phải biết và cố gắng nỗ lực tiến tới thọ từ một tới cả Năm Giới của giới Phật tử tại gia, đó là: (1) không sát sinh, (2) không trộm cắp, (3) không tà dâm, (4) không nói dối, nói vu cáo, nói thêm bớt thêu dệt, nói lời xấu ác, (5) không dùng các chất say làm mê mờ trí tuệ.
Kinh Phật nói: “Giới như đất bằng, muôn điều lành từ đó sanh. Giới như thuốc hay, chữa lành các bệnh. Giới như hòn ngọc sáng, hay phá mờ tăm tối. Giới như chiếc thuyền, hay đưa người qua biển. Giới như chuỗi anh lạc, trang nghiêm pháp thân“. Cho nên việc thọ giới là điều thiết yếu. Nếu nhận thấy giữ được giới nào thị xin thọ giới đó. Tuy nhiên, vì đạo Phật là đạo tâm, hứa thọ giới thì phải giữ lời hứa. Cũng vì thế mà nhà Phật không áp đặt các em còn nhỏ tuổi phải quy y và thọ giới, vì các em chưa đủ trí khôn để nhận thức được tầm quan trọng của lời hứa, mà người thọ Giới phải trưởng thành, đã biết tâm lý chín chắn, thì mới có thể giữ Giới mà không vi phạm.
Hỏi: Đã được truyền thọ Tam Quy và Năm giới vậy có phải ăn chay không?
Người mới học Phật không nhất thiết là phải ăn chay. Tuy nhiên, các nghiên cứu và điều tra khoa học cho biết việc siêu thị nhà hàng có quan hệ và ảnh hưởng tác động đến tâm vật lý con người. Họ cho rằng ăn chay rất tốt cho sức khoẻ cả thân thể lẫn tánh tình.
Đối với đạo Phật, ăn chay có ba lợi ích. Một là nuôi dưỡng tâm từ bi. Dù là một con vật, nó cũng có cha, có mẹ như tất cả chúng ta, sao ta có thể nỡ lòng cướp đi sự sống của nó mà nuôi dưỡng sự sống cho mình. Thứ hai là tránh quả báo do không tạo nhân giết hại chúng sinh vì nhân quả đều đi theo như bóng theo hình. Thứ ba là nuôi dưỡng tâm bình đẳng. Đức Phật dạy tất cả chúng ta không những không sát hại mà còn khuyên tất cả chúng ta nên tôn trọng và bảo vệ loài vật vì chúng cũng đồng thể tánh, chúng cũng có quyền sống, có quyền được chia sẻ một phần môi sinh trên trái đất, nơi mà con người đang ở.
Trong một buổi giảng pháp, Hoà Thượng Thích Trí Tịnh, khi được hỏi về yếu tố này đã giảng rất đơn cử rằng: “Đại chúng nên biết, nếu muốn có thịt để ăn, thì phải sát sanh. Không tự giết thì cũng bảo người giết, cho nên ăn thịt là nguyên nhơn cho sự sát hại sanh mạng của các loài vật. Tất cả các thứ thịt, không luận là thịt gì, từ thịt heo, bò cho đến tôm ốc v.v… thuộc về loài thịt của chúng sanh đều không được ăn.”
Như vậy, người Phật tử đã quy y và thọ năm giới được khuyến khích là nên ăn chay. Nhưng nếu có gặp trở ngại trong nhà đạo hay vì một thực trạng đặc biệt quan trọng khó khăn nào đó mà không ăn chay trường được cũng nên tập ăn chay một tháng hai lần hoặc bốn lần. Thế nhưng, không được tự mình sát sinh hay là nhu yếu người khác sát sinh.
Hỏi: Xin cho biết tiến trình tu tập của người Phật tử
Tất cả ngàn kinh muôn luận của nhà Phật đều cùng có một tiềm năng khuyên nhủ người đời: Không làm các điều ác. Siêng làm các điều lành. Tự thanh tịnh hoá tâm ý, chấm hết sự chạy nhẩy liên miên của ý thức. (Chư ác mạc tác, Chúng thiện phụng hành, Tự tịnh kỳ ý).
Không làm các điều ác và siêng làm các điều lành là tiềm năng chung của hầu hết các tôn giáo và các bài học công dân giáo dục của các nước trên quốc tế. Duy có điều thứ ba, tự thanh tịnh hoá tâm ý, chấm hết sự tâm lý miên man của ý thức, là cốt tủy của đạo Phật, là tiềm năng tối thượng của hành giả tu Phật. Đây là pháp hành trong đạo Phật. Pháp hành này gồm có nhiều pháp môn tu tập, trong đó phải kể đến Thiền, Tịnh và Mật.
Hiện nay có những khóa tu
niệm Phật
Xem thêm: Đạo Cao Đài – Wikipedia tiếng Việt
và tu thiền kéo dài từ một tuần đến vài tuần dành cho Phật tử tại gia, những người thường bận rộn với đời sống hàng ngày có cơ hội tập cho quen dần với nếp sống của những người xuất gia, sống trong chính niệm, tỉnh thức, không để cho tâm đuổi theo tư tưởng lưu chuyển (vọng niệm). Trong các khóa tu này, bước đầu tiên là học và thực hành thực tế giới luật (cũng gọi là tu giới), tức gìn giữ tám điều không được: sát sanh, trộm cướp, nói láo, tà dâm, uống rượu, trang điểm, múa hát và xem múa hát, nằm giường cao và ăn quá giờ ngọ. Sự gìn giữ tám giới cấm này cốt để hỗ trợ cho tâm không giao động trong suốt tiến trình tu tập. Bước thứ hai là thực tập thiền sổ tức (đếm hơi thở) và tùy tức (theo dõi sự ra vào của hơi thở) nhằm tập TT ý vào hơi thở. Sự thực hành thực tế này giúp cho việc phát triển khả năng kiềm chế tâm tán loạn, đạt được trạng thái tĩnh lặng. Và bước thứ ba đối với các khóa tu thiền quán là học cách làm thế nào để trau dồi trí tuệ, tức là hành trì thiền quán Vipassana: quán sát hàng loạt cơ cấu thân và tâm với trí tuệ sáng suốt. Riêng các khóa tu niệm Phật là thực hành thực tế niệm Phật miên mật để đạt đến nhất tâm bất loạn. Khóa tu chấm hết với sự thực hành thực tế tâm từ bằng cách hồi hướng đến tất cả chúng sanh với ý nghiã sự thanh tịnh trong suốt khóa tu được chia xẻ với mọi chúng sanh.
Đó là tiến trình tu tập của một người Phật tử được diễn đạt một cách tóm lược. Tuy nhiên, đứng về phương diện học thuật, giáo lý nhà Phật được phân loại thành năm con đường tu tập tuần tự như sau:
Thứ nhất – Nhân Thừa: là bước đầu, để chuyển hóa từ người xấu trở thành người tốt. Người tu Nhân Thừa phải thọ Tam Quy Y (là ba nơi phụ thuộc về ý thức tức Phật, Pháp và Tăng), và giữ gìn Năm Giới Cấm. (1) Cấm sát sinh (2) Cấm trộm cắp (3) Cấm tà dâm (4) Cấm nói dối trá, cấm nói những lời gian ác (5) Cấm uống rượu và những chất làm cho say sưa, mất lý trí.
Thứ hai -Thiên Thừa: là bước tu tập cao hơn, phải thực hành thực tế mười điều thiện: (1) Không giết hại chúng sinh mà phóng sinh, đồng thời không ăn thịt để tránh gián tiếp làm cho chúng sinh phải chết. (2) Không trộm cắp mà còn đem của cải của mình bố thí cho người nghèo khốn. (3) Không dâm đãng, trụy lạc. (4) Không gian dối (5) Không thêu dệt, bịa chuyện, đặt điều, chỉ nói đúng những điều có thật. (6) Không nói những lời gian ác, thô tục, lăng mạ người khác. (7) Không thêu dệt để gây xích míc giữa những người khác. (8) Không tham lam mà sống trong sự tri túc (biết đủ) (9) Không khó chịu mà luôn luôn hoà nhã, bình tĩnh (10) Không si mê mà hành động hợp đạo lý.
Hai giai đoạn tu theo Nhân Thừa và Thiên Thừa kể trên có mục tiêu chuyển hóa dòng nghiệp lực, sẽ được hưởng thiện báo trong quốc tế tương đối.
Thứ ba -Thanh Văn Thừa: là những người thấu hiểu giáo lý nhà Phật qua sự lãnh hội được ý nghĩa của Tứ Diệu Đế, nghĩa là Bốn Chân Lý Cao Quý, do đức Phật thuyết. Hành giả thành công xuất sắc trong giai đoạn tu tập này chứng được cảnh giới Niết Bàn tịch tĩnh.
Thứ tư – Duyên Giác Thừa, là hành giả tự tu theo chiêu thức quán chiếu Thập Nhị Nhân Duyên, là mười hai giai đoạn liên hệ với nhau mà sinh khởi trong dòng sinh mệnh mà khởi đầu là Vô Minh. Do quán chiếu sâu xa, sau cuối hành giả bừng tỉnh, Ngộ ra rằng tất cả quốc tế hiện tượng kỳ lạ này chỉ sống sót tương đối, do tương tác với nhau, thực chất của nó là Không, là Vô Ngã. Từ sự giác ngộ này, hành giả chấm hết được những tư tưởng mê lầm về một thế giới tưởng như là có thật, buông xả được những dính mắc vào cái xưa nay vẫn cho là Tự Ngã, giải thoát khỏi tham sân và si, chứng được cảnh giới Niết Bàn tịch tĩnh.
Thứ năm – Bồ Tát Thừa, cũng là những người tu với mục tiêu giải thoát nhưng khác với Thanh Văn và Duyên Giác Thừa. Hành giả Thanh Văn và Duyên Giác Thừa thì tiềm năng là đạt được cảnh giới tâm Niết Bàn tịch tĩnh. Hành giả Bồ Tát Thừa có nhận thức rằng tất cả chúng sinh và bản thân mình vốn đồng Thể Tánh, cho nên hành giả Bồ Tát Thừa lập hạnh nguyện tu hành để mình giác ngộ, nhưng không an trú trong cảnh giới Niết Bàn tịch tĩnh, mà liên tục vì Nguyện Lực mà trở lại trần gian để cứu độ tất cả chúng sinh, vốn đồng Thể với mình, gọi là Đồng Thể Đại Bi. Bồ Tát Thừa đi trên con đường Lục Độ Ba La Mật, tiếng Phạn là paramita, nghĩa là rốt ráo, qua luôn. Tất cả những pháp môn tu như Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định và Trí Tuệ đều được người tu theo hạnh nguyện Bồ Tát hành trì với tâm nguyện Tam Luân Thể Không, có nghĩa làm xong là buông xả ngay, không còn vướng trong tâm, thí dụ Bố Thí Ba La Mật thì người bố thí không thấy rằng có mình đang bố thí (sợ sinh tâm kiêu ngạo), không thấy có vật bố thí là nhiều hay ít (sợ sinh tâm khoe khoang) và không thấy có người nhận của bố thí (sợ sinh tâm ơn nghĩa).
Tóm lại, nhà Phật có tới bốn vạn tám ngàn pháp môn tu, để tương ưng với rất nhiều tâm thức, căn nguyên khác nhau. Không phải là tất cả mọi người đều có thể vào nơi vắng vẻ tu giải thoát. Trên con đường tu tập để đến đích, có những bước gần gũi, thiết thực với đời sống hằng ngày hơn. Con đường Bồ Tát Đạo là cánh cửa để những người có tấm lòng vị tha hành đạo. Vua A Dục bên xứ Ấn hay các vị vua đời Lý, Trần của Nước Ta khi xưa trong khi vẫn đang làm vua bận rộn chính sự mà vẫn hành đạo tuyệt vời. Rất nhiều khu công trình hộ pháp của nhà vua còn được tuyên dương cho tới ngày nay. Vua Lương Võ Đế, thái tử Lương Chiêu Minh bên Trung Hoa và các vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông của Nước Ta cũng là những bậc hộ pháp tận tụy và thâm hiểu tầm cỡ. Nhà Phật tin rằng có rất nhiều vị Bồ Tát đã chứng đạo, nhưng vì lập hạnh nguyện Đại Bi, các vị ấy Open trong quốc tế tương đối này, làm đủ mọi ngành nghề, hoặc sinh sống trong những môi trường khó khăn, để hóa độ và giúp đỡ chúng sinh.
Đức Phật cũng có những kinh dạy Phật tử trong đời sống hằng ngày, vừa sinh sống trong mái ấm gia đình với cha mẹ con cái, vừa thực hành thực tế giáo pháp. Do thực hành thực tế Bát Chánh Đạo, người Phật tử làm ăn buôn bán chăm chỉ, có một đời sống lành mạnh sung túc, dành bớt tiền của ra làm những việc tốt đẹp như ấn tống kinh sách để hoằng truyền, hộ trì chánh pháp là pháp thí, cúng dường tam bảo, giúp đỡ mọi người là tài thí.
Hỏi: Một người đang theo tôn giáo khác, nếu muốn học Phật pháp thì có gì trở ngại hay không?
Bất cứ ai, dù đang theo tôn giáo nào hoặc không theo tôn giáo nào, mà muốn học Phật pháp, đều không có gì trở ngại cả. Phật giáo không phải là một tôn giáo mê tín dị đoan, mà là một mạng lưới hệ thống giáo dục dựa trên quy luật nhân quả để chuyển hóa con người từ xấu thành tốt, “không làm điều xấu ác, siêng làm điều tốt lành”. Sau giai đoạn chuyển xấu thành tốt, con người trở nên hoàn thành xong, thì sẽ có những thiện quả tạo thành duyên lành cho đương sự bước vào bước tu tập thứ ba là “tự thanh tịnh tâm ý”, trọn vẹn rũ bỏ tham sân si, chuyển từ mê lầm sang giác ngộ, tỉnh thức, giải thoát khỏi vòng sinh tử, luân hồi.
Nhà Phật hoan hỷ đón chào bất cứ ai muốn khám phá Phật pháp và nghiên cứu và điều tra Tam Tạng kinh, luật, luận, trong kho tàng tầm cỡ của đạo Phật. Có nhiều học giả thâm hiểu giáo lý nhà Phật, – trong số đó có những người Tây Phương, – viết sách luận giải về đạo Phật, là những người thuộc các tôn giáo khác, không phải là Phật tử. Nhiều kinh sách nhà Phật đã được dịch ra tiếng Anh bởi những học giả vốn là Fan Hâm mộ các tôn giáo khác, đọc kinh sách Phật giáo vì tò mò muốn biết. Nhưng sau khi điều tra và nghiên cứu sâu vào tư tưởng nhà Phật, họ cảm nhận được niềm tin khai phóng, từ bi, bình đẳng, nên trong lòng họ có sự chuyển hóa, tăng trưởng thiện cảm đối với đạo Phật và trở thành những tu sĩ đáng kính, có công lớn trong việc hoằng truyền Phật pháp tại các vương quốc Tây Phương.
Hỏi: Muốn tu tập theo Phật giáo, có cần phải bỏ tôn giáo của mình, chuyển qua đạo Phật không?
Điểm son của đạo Phật là ý thức tôn trọng đời sống nội tâm và sinh mệnh muôn loài. Tôn giáo, tín ngưỡng, là yếu tố rất tế nhị, có những ràng buộc tình cảm sâu xa đối với quá khứ và thân quyến của đương sự. Cho nên người Phật tử không thuyết phục người khác bỏ tôn giáo của họ để theo đạo Phật.
Đức Phật là bậc Giác Ngộ. Đạo Phật là đạo Giác Ngộ. Giác thì không mê, cho nên người Phật tử không muốn ai bước vào đạo Phật bằng con đường mê tín dị đoan. Những người từ đạo khác chuyển qua đạo Phật, phần lớn là do họ điều tra và nghiên cứu tầm cỡ thâm sâu, hiểu được phần cốt tủy, tự ý đi tìm các vị tu sĩ để làm thủ tục gia nhập hội đồng Phật tử. Cũng có những trường hợp không cần thủ tục gì cả, người muốn triển khai những bước tu tập của đạo Phật cứ tự nhiên y theo lời dạy của đức Thế Tôn: “Không làm điều xấu ác, siêng làm điều thiện lành và tự thanh tịnh hóa tâm”, không để cho tâm bị dính mắc vào bất cứ một giáo điều, một hình ảnh nào cả, như thế cũng xứng đáng là một Phật tử đúng nghĩa rồi.
Hỏi: Nghiệp là gì?
Nghiệp là hành động hay việc làm có chủ tâm hay cố ý (tác ý). Tất cả các hành động có tác ý, dù là hành động thiện hay không thiện, dù biểu hiện qua thân, miệng hay ý đều tạo Nghiệp.
Chúng ta gặt hái những gì tất cả chúng ta đã gieo trồng. Hành động lành cho tất cả chúng ta những quả tốt đẹp. Hành động ác khiến tất cả chúng ta chịu lấy quả khổ đau. Đó là luật Nhân quả. Dòng nhân quả diễn biến liên tục trong thời hạn: quá khứ, hiện tại, và vị lai mà không bị số lượng giới hạn trong hiện tại. Do dó, có những quả báo đến ngay sau khi gây nhân, và cũng có những quả báo sẽ đến sau một thời hạn, dài hay ngắn, tùy theo nghiệp nhân mạnh hay yếu.
Hỏi: Cận tử nghiệp là gì?
Cận tử nghiệp là nghiệp vừa được tạo tác ra bằng tư tưởng trước lúc sắp chết. Ý nghiệp này rất mạnh và vô cùng quan trọng vì nó quyết định hành động hướng tái sinh, dù là hướng thiện hay hướng ác. Thông thường, tập quán nghiệp nào mạnh nhất thì sẽ sống dậy mãnh liệt nhất trước lúc chết, do đó có nhân tố mạnh quyết định hành động nơi đầu thai. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp có sự can dự của cận tử nghiệp.
Thuyết nghiệp của nhà Phật có nói đến hai loại nghiệp có tác động ảnh hưởng và chi phối lẫn nhau mà quyết định hành động hướng tái sinh, đến cõi lành hay cõi dữ. Hai nghiệp đó là cận tử nghiệp và tích góp nghiệp. Tích lũy nghiệp chứa nhóm nhiều kiếp đến giờ. Cận tử nghiệp là nghiệp mới tạo tác vào giây phút lìa đời.
Kinh sách kể có người tích góp nghiệp thiện từ nhiều kiếp đến nay, bất thần trong cơn mê muội vào giờ phút lâm chung, thấy có người xúi dục họ làm điều ác (cận tử nghiệp ác). Trong trường hợp này cận tử nghiệp không chi phối được hướng đi tái sinh mà là do quyết định hành động của tập quán nghiệp tức tích góp nghiệp lành của họ nhiều và mạnh đưa họ đến cõi lành.
Lại cũng có người làm nhiều điều ác, đáng lý phải đọa vào các cảnh giới xấu, nhưng gần chết họ làm lành, tâm họ luôn nghĩ tưởng đến điều lành, kể cả vào giây phút lâm chung, nên không bị đọa vào cảnh giới xấu. Cho nên nói làm ác khi chết nhất định đọa vào cảnh giới ác, làm thiện nhất định lên cõi trời, là không đúng hẳn. Vì tuy họ có làm ác nhưng lúc gần chết cận tử nghiệp thiện họ quá mạnh có thể đưa họ đến cõi thiện.
Còn có những trường hợp tuy làm nhiều điều thiện, nhưng khi gần chết họ nổi sân hung dữ, lúc đó cận tử nghiệp ác có thể hướng họ đến các cảnh giới xấu. Vì vậy, cận tử nghiệp cũng như tích luỹ nghiệp đều rất quan trọng và kinh sách nhà Phật khuyên tất cả chúng ta không phải chỉ tu khi tuổi sắp già, đang già hay sắp chết, mà nên tu ở mọi giai đoạn của đời người, luôn luôn giữ thân, khẩu, ý lành, từ lúc còn trẻ trung mạnh khỏe cho đến tận cuối kiếp người.
Hỏi: Đức Phật với trí tuệ và lòng từ bi vô biên sao Ngài không cứu độ hết chúng sanh thoát khỏi các cảnh khổ, nỗi chết?
Đức Phật là bậc đại từ, đại bi thương hết thảy chúng sinh, không phân biệt màu da hay tôn giáo. Ngài xót thương trái đất bằng sự bình đẳng tuyệt đối. Đức Phật không phải là đấng toàn năng có khả năng ngăn chận các thiên tai như bão lụt, động đất, sóng thần..v..v.. hay cung ứng tất cả lời cầu xin của mọi người để mọi người không khổ đau hay dùng thần thông đưa chúng sinh về cõi an nhàn được. Phật là người đã giác ngộ và giải thoát trọn vẹn, Ngài thấu rõ tất cả, tổng lực và vô bờ bến, thấu rõ mọi liên hệ nhân duyên và nhân quả ba đời của tất cả chúng sinh, nhưng chính ngài không thể làm những điều trái với luật vạn vật thiên nhiên nhân quả được.
Đức Phật là bậc toàn giác, là vị Đạo sư đã tự mình tìm ra được con đường giải thoát ngang qua kinh nghiệm tay nghề bản thân, không có ai truyền dạy cho Ngài, không có ai ban phép cho Ngài, không phải do thần khởi, cũng không phải là hiện thân hay hóa thân của một đấng thần linh nào. Ngài là một người như tất cả chúng ta, nhưng chính nhờ tự lực cá thể, tìm ra được con đường giải thoát. Sau khi chứng ngộ, Ngài đã giảng dạy giáo pháp cho mọi người, nếu ai có nhân duyên thực hành thực tế giáo pháp, kể từ vua chúa cho đến người gánh phân, kẻ khốn khó đều được chứng ngộ như Ngài. Cho nên Ngài đã nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.”
Ngài là người chỉ đường dẫn lối cho tất cả chúng ta tu hành, Ngài không thể tu thay cho chúng sinh mà con người phải tự mình tu mới giải thoát được khỏi khổ đau phiền não do tham sân si trói buộc, mới ra khỏi sinh tử luân hồi được. Cho nên Ngài đã nói: “Các người hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Ngài khuyên tất cả chúng ta nên nương tựa vào chính tất cả chúng ta và đi theo con đường giải thoát bằng nỗ lực của chính tất cả chúng ta.
Phật không thể chuyển được nghiệp của chúng sinh, mà chỉ có thể từ bi chỉ dạy chúng sinh tự mình nỗ lực để thay đổi cuộc sống của mình. Lòng từ bi của Phật vô biên như ánh sáng mặt trời chiếu sáng khắp nơi, nền tảng chúng sinh không kể lớn hay nhỏ, thấp hay cao, ngu si hay đần độn đều được ánh mặt trời chiếu sáng, nhưng khả năng tiếp thu vẫn khác biệt rất nhiều tuỳ theo nghiệp của mỗi chúng sinh. Có người vừa mới sinh ra đã mù cả hai mắt, tuy ở trong ánh sáng mặt trời mà không thấy được ánh sáng mặt trời như thế nào. Côn trùng sống dưới đất và những vi sinh vật ở nơi tối tăm, tuy cũng trực tiếp hay gián tiếp cảm nhận được ánh sáng mặt trời, nhưng chúng không thể biết được quyền lợi của ánh sáng mặt trời là thế nào. Ngay cả khi Phật Thích Ca còn tại thế, tại những vùng được Ngài giáo hóa, cũng có rất nhiều người không biết Phật là ai. Các đức Phật ba đời, khi còn hành đạo Bồ Tát, đều phát lời nguyện “độ hết thảy chúng sinh”. Vậy mà các đức Phật tuy thành Phật rồi nhưng vẫn còn vô lượng chúng sinh chìm đắm trong biển khổ. Tại sao vậy? Tại vì lời phát nguyện “độ chúng sinh” của các ngài chỉ có nghĩa là đem ngọn đèn Trí Tuệ đi khuyên nhủ chúng sinh. Nếu chúng sinh không chịu vâng theo lời dạy mà tu hành, bản thân cứ liên tục làm chuyện ác, thì họ phải lãnh quả báo xấu, đúng theo quy luật nhân quả, chư Phật và chư Bồ Tát cũng không thể xóa bỏ nghiệp ác của họ được.
Chữ “độ” không có nghĩa là “cứu rỗi”, mà có nghĩa là giáo hóa, để cho chúng sinh biết được Chân Lý, mà tự tu, tự độ.
Khi Phật còn tại thế, ngoài điều Ngài nói không thể chuyển nghiệp của chúng sinh được, Ngài cũng nói là không thể độ thoát cho những chúng sinh mà Ngài không có duyên độ họ. Người không có duyên là người không tin Phật Pháp, không tin nhân quả, không muốn được hóa độ. Vì vậy, khi Phật Thích Ca còn tại thế, tuy vua Lưu Ly xứ Kosana dấy binh tàn sát dòng họ Thích Ca, mà Ngài không thể nào dùng phép thần thông để ngăn chận được vụ thảm sát. Nhưng đức Phật có thể dùng Phật pháp, tuỳ nền tảng cao thấp mà dìu dắt chúng sinh, chúng sinh nào hiểu biết thì giảng cao, người mê mờ thì giảng thấp từ tu thiện, tu phúc, đến tự thanh tịnh tâm. Vì vậy nói là Phật độ chúng sinh nhưng thực ra là chúng sinh tự độ nếu không thì làm trái với quy luật nhân quả.
Nói tóm lại, đức Phật là một vị Thầy dẫn đường sáng suốt, một vị thầy thuốc tài giỏi, nhưng chúng sinh phải tự mình cất bước lên mà đi thì mới tới đích, có bệnh phải uống thuốc mới hết bệnh, tức là tự học, tự tu, tự độ. Đức Phật không thể làm trái luật Nhân Quả, không thể uống thuốc giùm khiến người đau hết bệnh, không thể ăn giùm khiến người đói được no. Đức Phật chỉ có thể khuyên bảo, truyền dạy chúng sinh bỏ ác làm thiện, từ loại thiện phiền não đến loại thiện không phiền não, tức là khởi đầu bằng việc đoạn trừ mọi ác nghiệp dẫn đến ba cõi khổ, rồi cố gắng nỗ lực làm mười việc lành để sinh cõi trời hay sinh làm người, đó là thiện phiền não. Rồi tu đạo Bồ Tát, đạo thành Phật, thành thiện không phiền não, thành trí tuệ Phật. Thế nên, trí tuệ là quan trọng bậc nhất của đạo Phật và bao trùm tổng lực mục tiêu phải có của các hàng Phật tử nếu muốn đi trên con đường giải thoát đến giác ngộ viên mãn. Trí tuệ này Open khi bản thân người Phật tử hành trì các pháp môn tu để thanh tịnh tâm và giữ gìn giới hạnh.
Tâm là chủ yếu vì tất cả các pháp đều do tâm tạo. Vậy làm thế nào để thanh tịnh tâm? Phật nói: “Không làm các điều ác, Nên làm các việc lành, Tự thanh tịnh Tâm, Đó là lời chư Phật dạy”. Ấy là quá trình tu tập của mỗi người tất cả chúng ta để tự giải thoát khỏi luân hồi sinh tử.
Hỏi: Xin cho biết âm ti có thật không?
Từ quan điểm “nhất thiết duy tâm tạo” trong kinh Hoa Nghiêm, thiên đường và âm ti dưới mắt người Phật tử chính là những cảnh giới tâm thức, mà mỗi người đều trải qua hằng ngày. Nếu con người không khắc chế được ba thói xấu là tham lam, sân hận và si mê, để cho bản thân rong ruổi trong sự bon chen, tính toán lợi mình hại người, thì tâm hồn không được an nhàn, mà phiền não triền miên, ăn không ngon, ngủ không yên, thường thấy ác mộng do những tức bực bất mãn gặp phải hằng ngày, đó cũng đã được coi là cảnh giới âm ti của tâm thức rồi.
Trong kinh Địa Tạng, tất cả chúng ta cũng thấy nói đến những cảnh giới âm ti. Vì “nhất thiết duy tâm tạo” nên những cảnh giới trong kinh Địa Tạng cũng là những cảnh giới tâm thức. Địa Tạng cũng có nghĩa là Tâm Địa, là Đất Tâm. Nhà Thiền có câu “Đất Tâm nếu trống không thì mặt trời Trí Tuệ tự chiếu”. Người nào có thể “thanh tịnh hóa tâm”, khiến cho Đất Tâm trống không, thí Trí Tuệ Bình Đẳng tự hiện, cũng có nghĩa là Bồ Tát Địa Tạng đã phá xong cửa ngục tâm thức cho người đó rồi. Còn như nếu Đất Tâm mà ô nhiễm quá, thì vào giờ phút lâm chung, do nghiệp thiện hoặc ác trong quá khứ, mà thần thức người đó sẽ bị chiêu cảm vào cảnh giới tương ưng.
Quan điểm của nhà Phật về tất cả hiện hữu trên trần gian là vô thường. Tâm cũng vô thường, khi tâm chuyển thì tất cả mọi thứ do tâm tạo cũng chuyển theo tâm. Cho nên, đối với nhà Phật, không có cảnh giới âm ti vĩnh viễn. Mỗi người đều có thể tự ra khỏi âm ti bằng sự “thanh tịnh hóa tâm” của họ. Đó là niềm kỳ vọng về giải thoát của tất cả mọi người.
Nhà Phật có câu: “Buông dao đồ tể là thành Phật” hoặc “Biển khổ bát ngát quay đầu là bến”. “Buông dao” và “quay đầu” ở đây có nghĩa là buông bỏ đời sống ô nhiễm, bước vào con đường thực hành thực tế các giải pháp để “thanh tịnh hóa tâm” như hành Thiền Quán Niệm Hơi Thở, Thiền Minh Sát Tuệ, Thiền Tổ Sư, Thiền Tông, Niệm Phật và còn nhiều pháp hành khác nữa.
Hỏi: Xin cho biết tiêu chuẩn tìm Thầy học đạo
Ngày xưa muốn học đạo phải lặn lội đi tìm thầy, vì thầy là người không những có đức hạnh mà còn có đầy đủ kinh nghiệm tay nghề tu trì và có khả năng truyền dạy lại cho người sau. Thời ấy muốn học đạo phải đến chùa vì chỉ nơi đây mới có đầy đủ kinh sách. Ngày nay, việc tìm kinh sách không khó, ngoài chùa ra, còn có trong các thư viện trường ĐH, các nhà sách lớn và ở trên Internet, ai cũng có thể tìm đọc và tự điều tra và nghiên cứu học hỏi. Do đó có người nói việc tìm thầy học đạo thời nay không thiết yếu lắm. Tuy nhiên, quý fan hâm mộ cần chú ý quan tâm, ngay chuyện học ngoài đời, tất cả chúng ta vẫn phải có thầy dạy. Việc điều tra và nghiên cứu trong sách vở là điều thiết yếu nhưng vẫn cần phải có thầy hướng dẫn. Đó chỉ là học về kiến thức và kỹ năng mà còn cần đến thầy dạy, huống chi cầu học đạo giác ngộ giải thoát?
Trong đạo Phật không phải chỉ học giáo lý suông mà còn phải thực hành thực tế nữa. Một vị thầy dạy tất cả chúng ta giáo lý không những qua việc thuyết giáo mà còn dạy tất cả chúng ta về giới đức qua hành động và cử chỉ hàng ngày của ông thầy mà thuật ngữ nhà Phật gọi là thân giáo. Chính thân giáo, tức hành động, nhân cách, giới phẩm và đức hạnh của vị thầy mới quan trọng, nó làm gương cho ta noi theo. Một trăm lần nghe không bằng một lần thấy. Một trăm lần tụng đọc về kinh Từ Bi không bằng một lần thấy hành động từ bi nơi vị thầy của mình.
Hiện nay có một số người tự xưng mình là Minh Sư, Đạo Sư, Vô Thượng Sư, Đại Sư, Thiền Sư, vân vân… thường dùng một số giáo lý Phật giáo, tận dụng uy tín của đức Phật để thuyết giảng hầu hấp dẫn quần chúng, nhưng thực ra bên trong những điều giảng đó lại chứa đựng những tư tưởng đối nghịch với tư tưởng nhà Phật. Cho nên, nếu tất cả chúng ta là những Phật tử quyết tâm tu hành theo giáo lý giải thoát, mà không hiểu rõ giáo lý cơ bản của nhà Phật thì rất dễ bị đi lạc đường.
Vậy làm thế nào biết được Thầy giỏi, Thầy hay, Thầy có đạo đức mà theo học?
Trước hết tất cả chúng ta nên quan tâm đặc biệt quan trọng đối với những vị Thầy hay bất cứ một ai khi đến khuyên bảo tất cả chúng ta tu mà luôn luôn khoe khoang pháp môn của mình là hay nhất và ra sức chê bai hay chỉ trích pháp tu khác là sai đường, cho là không đúng, thì tất cả chúng ta phải xem xét lại những lời nói và hành động của họ, tức là tìm hiểu và khám phá về thân giáo, tức hành động, nhân cách, giới phẩm và đức hạnh của vị ấy và động lực nào thôi thúc ông ấy giảng dạy.
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã dạy rằng: “Động lực giảng dạy của một vị Thầy phải trong sạch – không bao giờ vì một ước muốn nổi tiếng hay lợi lạc vật chất… Trong quốc tế, nếu không có một nhà chỉ huy chân chính thì tất cả chúng ta không thể cải tổ xã hội được. Cũng vậy, trừ phi vị thầy có phẩm chất đúng đắn, thì mặc dù đức tin của bạn có mạnh mẽ đến đâu, việc theo học vị thầy có thể làm hại bạn nếu bạn được dẫn dắt theo một đường hướng sai lầm đáng tiếc. Vì thế, trước khi thực sự coi ai là thầy, điều quan trọng là phải khảo xét họ…”
Nếu như vị đạo sư của bạn buộc bạn phải làm việc vô đạo đức hay nếu giáo lý của vị ấy xích míc với Phật Pháp thì hành xử như thế nào? Ngài Đạt Lai Lạt Ma nói tiếp: “Bạn nên trung thành với chủ với điều đạo đức và xa rời những gì không tương thích với Pháp…”
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn tập 1, phẩm 8 và Đại Trí Độ luận, q.9 Đức Phật đã đưa ra 4 điều hướng dẫn liên hệ nhau gọi là “Tứ Y Pháp” tức là “4 chỗ nương tựa”, nói đầy đủ là bốn điều nên và không nên nương tựa. 1) Dựa vào pháp không dựa vào người, 2) Dựa vào nghĩa không dựa vào lời, 3) Dựa vào trí, không dựa vào thức, 4) Dựa vào ý nghĩa rốt ráo, không dựa vào ý nghĩa không rốt ráo.
Căn cứ vào 4 điều hướng dẫn trên, tất cả chúng ta có thể phân biệt dễ dàng ai là minh sư, ai không phải là minh sư, rồi dựa vào 4 điều đó mà quan sát thẩm tra minh sư mà mình mong gần gũi thì nói chung không thể có sự nhầm lẫn.
Y theo giáo pháp chẳng y theo người (y pháp bất y nhân) là một trong bốn tiêu chuẩn hướng dẫn tất cả chúng ta trên đường đi tìm thầy học đạo. Câu này có nghĩa là cứ y theo giáo pháp của Phật mà tu hành, người nói ra giáo pháp ấy dù có nổi tiếng, vị thế cao, nếu nói pháp không đúng với giáo pháp của Phật cũng không nên tin theo. Dù người nói pháp đúng với giáo pháp của Phật nhưng không có vị thế cao, không có khét tiếng thì nên tin theo. Lẽ dĩ nhiên, y pháp bất y nhân không có nghĩa là được pháp rồi thì không cần biết gì đến thầy. Học đạo không giống như học các ngành học ở ngoài trần gian, học đạo phải có lòng tri ân tôn kính thầy nhưng không bám víu và thần tượng hóa thầy.
Ngày nay một số trong tất cả chúng ta theo thầy không phải vì thực sự cầu pháp giải thoát mà vì tình cảm hay biên kiến, hay vì thầy là người nổi tiếng trên quốc tế, đông đệ tử xuất gia lẫn tại gia có học vị cử nhân, thạc sĩ, tiến sỹ, có chùa to đất rộng, vân vân…
Có nhiều Phật tử đặt câu hỏi: Sau khi quy y và tu học theo thầy một thời hạn dài, cảm thấy không tân tiến, tham sân si vẫn như cũ, chấp ngã ngày càng tăng nhiều hơn, muốn đi chùa khác tìm thầy khác nhưng làm như thế có phải là phản thầy không. Chúng tôi xin thưa ngay là không có mang tội phản thầy. Khi làm lễ qui y là tất cả chúng ta quy y với ba ngôi Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng, chứ không phải quy y với thầy. Thầy chỉ là vị đại diện thay mặt Tăng Đoàn làm lễ quy y cho tất cả chúng ta quay về nương tựa với Tam Bảo. Trong buổi lễ chưa khi nào tất cả chúng ta nói: Con xin quy y với thầy Thích Tâm A hay thầy Thích Tâm B. Hơn nữa, ở ngoài đời, học xong bậc tiểu học, tất cả chúng ta phải lên trung học rồi lên ĐH chứ đâu có thể học mãi một lớp hay một trường được.
Xưa kia lúc còn tìm đạo, thái tử Sĩ Đạt Đa đến học với đạo sĩ Alara Kalama, sau khi chứng được thiền “Vô chiếm hữu xứ” và không học được gì thêm nữa thì ngài từ giã thầy. Kế tiếp ngài đến học đạo với Uddaka Ramaputta, sau khi chứng được thiền “Phi tưởng phi phi tưởng xứ” và không học được gì hơn thì ngài cũng kiếu từ ra đi. Nếu thái tử Sĩ Đạt Đa trung thành với chủ ở lại với đạo sĩ Kalama hay đạo sĩ Ramaputta thì chắc ngày nay tất cả chúng ta không có Đức Phật và Phật Pháp.
Là Phật tử, muốn có được đời sống an nhàn, niềm hạnh phúc, tân tiến, chóng thành đạo quả giác ngộ thì phải rất là thận trọng trong việc chọn thầy, chọn bạn, chọn pháp môn tu, chớ để tánh hiếu kỳ dẫn dắt, thì mới khỏi oan uổng
công phu
tu tập suốt cả một đời.
Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp