Võ Tắc Thiên để lại 4 câu thơ trong bộ kinh Phật, nghìn năm sau hậu thế còn băn khoăn

Khi chúng ta giở kinh điển Phật giáo ra đều sẽ nhìn thấy một bài “Khai Kinh kệ”. Bài kệ này chính là năm xưa sau khi phiên dịch xong 80 quyển “kinh Hoa Nghiêm” dâng lên cho hoàng đế Võ Tắc Thiên xem. Võ Tắc Thiên đề bút viết ra 4 câu “Khai Kinh kệ” này. Mãi cho đến hôm nay cũng không có người nào có thể làm được bài “Khai Kinh kệ” nào tuyệt diệu hơn bài này nữa.

Khi bộ kinh Hoa Nghiêm phiên dịch xong, Võ Tắc Thiên bởi lĩnh hội được nội hàm huyền diệu thâm sâu hiếm có, lấy làm vui mừng, cảm hứng dâng trào mà viết ra “ Khai Kinh kệ ” này :
开经偈

武则天 ( 唐 )
无上甚深微妙法 ,
百千万劫难遭遇 ;
我今见闻得受持 ,
愿解如来真实义
Hán Việt :
Khai Kinh kệ
Võ Tắc Thiên ( Đường )

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chân thực nghĩa.

Tạm dịch là :

Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe được chuyên trì tụng
Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu


Khi làm nhà vua, Võ Tắc Thiên là Fan Hâm mộ Phật giáo thành tín và đặc biệt quan trọng yêu dấu bộ kinh Hoa Nghiêm. Bà luôn cảm thấy bộ kinh Hoa Nghiêm được phiên dịch vào đời nhà Tấn vẫn còn tồn dư quá nhiều thiếu sót, không hoàn hảo, trong tâm luôn rất lấy làm đáng tiếc. Vậy nên, Võ Tắc Thiên đã cử đặc sứ sang Ấn Độ xem thử có bản hoàn hảo hay không. Chính ngay lúc này, pháp sư Tam Tạng ở Điền quốc đã có được phiên bản của bộ kinh này, bà liền cho mời cả Pháp sư cùng đến Trung Quốc. Vị Pháp sư này là Thực Xoa Nan Đà, đã được Võ Tắc Thiên giao cho việc chủ trì phiên dịch kinh Hoa Nghiêm .

Thực Xoa Nan Đà là một vị pháp sư rất có uy tín ở Tây Vực, hiểu biết rất sâu rộng. Những bậc hiền nhân đại đức của Trung Hoa thời đó, thậm chí cho đến cả hoàng đế đều vô cùng kính ngưỡng ông. Khi pháp sư Thực Xoa Nan Đà đến, đã mang theo bộ kinh Hoa Nghiêm nhưng cũng không được hoàn chỉnh. Tuy thế nó đã nhiều hơn 9000 câu tụng so với bộ kinh được phiên dịch vào đời nhà Tấn. Vậy nên bộ kinh này tổng cộng có 45000 câu tụng, ý nghĩa của bộ kinh này đã có thể nhìn ra được. Quy mô phiên dịch cũng vô cùng hoành tráng, bản thân hoàng đế Võ Tắc Thiên cũng thường đến tham gia. Sau khi phiên dịch xong, Võ Tắc Thiên là người đầu tiên xem “kinh Hoa Nghiêm” này. Bởi thể hội được ý nghĩa thâm sâu huyền diệu hiếm có trong Phật Pháp, bà rất lấy làm hoan hỷ, cảm hứng dâng trào, đã đề một bài kệ cho bộ kinh điển này. Đây chính là bài “Khai Kinh kệ” mà ngày nay chúng ta biết đến.

1. “ Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp ” : Đây là ca tụng giáo lý thâm sâu vô thượng của Phật Pháp. Vô thượng ở đây là chỉ không có bất kể một loại học vấn nào của trần gian có thế siêu xuất khỏi giáo nghĩa được giảng trong kinh Phật. Không gì hoàn toàn có thể sánh với hoặc vượt trên Phật Pháp thâm sâu khôn lường và vi diệu không hề ngờ được này .
2. “ Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ ” : Thường nói “ nhân thân nan đắc, Phật Pháp nan văn ”, tạm hiểu là : thân người khó có được, Phật Pháp khó được nghe, kiếp này ta suôn sẻ có được thân người, không biết liệu kiếp sau còn hoàn toàn có thể được làm người nữa hay không, điều này rất khó bảo vệ. Hết thảy đều xem nghiệp mà tất cả chúng ta tạo lúc bấy giờ là nghiệp gì, vạn nhất tạo phải ác nghiệp, thế thì rất đễ bị đọa vào cõi súc sinh, ngạ quỷ, âm ti. Nếu vậy cơ bản không có thời cơ để nghe được Phật Pháp, đắc được giải thoát .
“ Kiếp ” trong Phật giáo đại biểu cho khoảng chừng thời hạn rất lâu bền hơn, chia thành : tiểu kiếp, trung kiếp và đại kiếp. Một tiểu kiếp ước đạt khoảng chừng 16,8 triệu năm, một trung kiếp thì bằng 20 tiểu kiếp, còn một đại kiếp thì là 4 trung kiếp của thành, trụ, hoại, không. Thế thì trăm nghìn vạn kiếp, chính là không nghĩ cũng biết là phải trải qua khoảng chừng thời hạn dài đằng đẵng. Tại sao trăm nghìn vạn kiếp mới gặp được đây ?
Bởi vì chúng sinh trong Tam giới luân chuyển trong lục đạo luân hồi, không biết đến khi nào mới hoàn toàn có thể được chuyển sinh vào cõi người. Trong tầm cỡ, Đức Phật từng giảng rằng : “ Cơ hội để có lại được thân người, hoàn toàn có thể ví như trong biển có con rùa mù trăm năm nổi lên trên mặt nước một lần. Trên biển có một mảnh gỗ có hốc nhỏ trôi dạt lênh đênh. Xác suất rùa chạm vào cái hốc nhỏ của miếng gỗ khi nổi lên còn lớn hơn khi ta mất thân người mà lại mong lần nữa được làm người ” .
Trong lục đạo, chúng sinh của cõi trời và cõi Tu la vui sướng nhiều hơn khổ não, chỉ lo hưởng cạn phúc báo chứ ít khi tu hành. Thọ mệnh của chúng sinh cõi trời từ 500 năm đến 8 vạn kiếp đều không như nhau, xem xem là ở cõi nào trong 33 tầng trời. Cõi trời thứ nhất là Tứ Đại Thiên Vương, một ngày tương tự với 50 năm cõi người. Còn cõi trời thứ hai tên cõi trời Đế Thích, một ngày tương tự với 100 năm cõi người, cứ thế mà nhân lên .
Thọ mệnh của chúng sinh cõi quỷ đói thường thì đều là trên nghìn năm, thời hạn của chúng sinh cõi quỷ đói cũng lâu dài hơn hơn so với cõi người. Chúng sinh trong cõi quỷ đói chỉ lo kiếm ăn khắp nơi, vậy nên rất khó nghe được Phật Pháp và tu hành .
Thọ mệnh của chúng sinh trong cõi súc sanh là ngắn nhất so với hết thảy chúng sinh của lục đạo, từ vài giờ đồng hồ đeo tay cho đến mấy trăm năm tùy theo loài, cũng là không có thời cơ nghe được Phật Pháp và tu hành .
Chúng sinh trong cõi âm ti đều đang chịu khổ không ngừng nghỉ dù chỉ một khắc, nói gì đến việc tu hành và lắng nghe được Phật Pháp đây ?
Còn chúng sinh nơi cõi người buồn vui xen kẽ, cũng là thời cơ tốt nhất để tu hành. Tuy được sinh cùng vào cõi người, nhưng cũng chỉ có những người có phúc phận lắm mới hoàn toàn có thể có thời cơ nghe được Phật Pháp và tu hành. Vậy nên câu nói “ trăm nghìn vạn kiếp khó gặp được ” này, tất cả chúng ta phải nên biết quý tiếc khoảnh khắc ngắn ngủi có được thân người này mà tinh tấn tu hành. Khó trách những bậc đại đức lâu nay đều thường hay nói : “ Thân người khó được, Trung Thổ khó sinh, Chính Pháp khó gặp, được cả ba điều, như mong muốn lắm thay ” .
3. “ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì ” : Thân người khó được như thế nay đã có được rồi, Phật Pháp khó được nghe thấy thư thế nay đã được nghe rồi. Bắt đầu từ giờ đây cần phải cố gắng nỗ lực theo đuổi và liễu giải Phật Pháp một cách thâm sâu, tinh tấn phụng hành và tu trì theo giáo Pháp của Phật .
4. “ Nguyện giải Như Lai chân thực nghĩa ” : Tâm nguyện duy nhất trong việc thọ trì Phật Pháp của người học Phật chính là mong hoàn toàn có thể liễu giải triệt để giáo nghĩa chân thực của Như Lai, ý nghĩa chân thực bất hư của Tín, Nguyện, Hạnh mà Phật truyền dạy .
Bài kệ này hoàn toàn có thể nói là diễn đạt toàn vẹn niềm hân hoan của chúng sinh đã phải luân hồi trong lục đạo vô số kiếp đã suôn sẻ gặp được Phật Pháp. Mấy trăm năm nay tuy có khá nhiều tăng nhân từng muốn sửa đổi lời văn trong đó, nhưng đều không sao sánh được với nguyên tác, từ đó ta hoàn toàn có thể thấy được chỗ tinh diệu của bài kệ này. Bài kệ lưu truyền đến ngày hôm nay, đã trở thành lời kệ phát nguyện trước khi tụng kinh của biết bao nhiêu người tu hành. Ngày thời điểm ngày hôm nay sau hơn hàng nghìn năm, phần đông tự viện Phật giáo nói chung, mỗi ngày trước khi chưa tụng kinh đều sẽ tụng niệm 4 câu “ Khai Kinh kệ ” này thứ nhất .

Video: Ghi nhận nghiệp báo: Việc ác đền bù bởi cứu độ 2 sinh mạng

videoinfo__video3. dkn.tv | | 0 d2459d6a__

Your browser does not support the video tag. Please upgrade to lastest version

Ad will display in 09 seconds

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp