Bẫy tử thần khiến hàng nghìn máy bay mất tích bí ẩn
Núi Alice và Temple Crag trên dãy Sierra Nevada. Ảnh: Commons |
Theo trang legendofamerica.com, khu vực tam giác quỷ Nevada nằm ở dãy núi Sierra Nevada tại bang Nevada và California. Khoảng 2000 máy bay đã mất tích ở đây trong khoảng chừng 80 năm qua. Ở khu vực có người ở nhưng hẻo lánh này, có hơn 40.233 km sa mạc núi và nhiều hiện trường tai nạn thương tâm máy bay không khi nào được tìm thấy .
Tam giác Nevada có một đỉnh nằm tại Las Vegas ở phía đông nam Nevada, một đỉnh ở Fresno thuộc phía tây California và một đỉnh ở Reno phía trên cùng Nevada. Trong khu vực hoang dã này có Khu vực 51 bí ẩn, căn cứ không quân tối mật của Mỹ. Ngoài hàng chục thuyết âm mưu như vật thể bay không xác định, các hoạt động dị thường quanh Khu vực 51, có nhiều giả thiết tương tự liên quan tới tam giác Nevada.
Bạn đang đọc: Bẫy tử thần khiến hàng nghìn máy bay mất tích bí ẩn
Nhiều máy bay do những phi công lão luyện điều khiển và tinh chỉnh trong suốt nhiều chục năm qua đã biến mất trong những trường hợp bí ẩn và trong nhiều vụ, người ta không khi nào tìm thấy xác máy bay .Một trong những máy bay mất tích đó do triệu phú Steve Fossett điều khiển và tinh chỉnh ngày 3/9/2007. Fossett là một nhà thám hiểm, thủy thủ, phi công thiết lập kỷ lục. Vào ngày định mệnh đó, ông lái máy bay một động cơ Bellance Super Decathlon qua Great Basin Desert ở Nevada và không khi nào trở lại. Sau khi tìm kiếm máy bay suốt một tháng, đội cứu nạn đã hủy bỏ trách nhiệm và ngày 15/2/2008, người ta công bố Fossett đã chết .
Sơ đồ tam giác Nevada. Ảnh: The Sun |
Về sau, vào ngày 29/9, chứng minh thư của Fossett được một người leo núi phát hiện tại dãy núi Sierra Nevada ở California. Vài ngày sau, người ta tìm thấy khu vực máy bay rơi, cách vị trí cất cánh khởi đầu 104 km. Họ tìm thấy hai mảnh xương cách vị trí máy bay rơi 800 m. Người ta xác lập đây là xương của Steve Fossett .Một trong những vụ máy bay mất tích tiên phong ở “ tam giác quỷ ” Nevada xảy ra cách đây 78 năm khi chiếc máy bay ném bom B-24 lao xuống dãy núi Sierra Nevada năm 1943. Máy bay này cất cánh ngày 5/12, có cơ trưởng là Trung úy Willis Turvey, cơ phó là Trung úy Robert M. Hester, chở theo bốn thành viên phi hành đoàn nữa là Trung úy William Thomas Cronin – hoa tiêu, Trung úy Ellis H. Fish – người cắt bom, Trung sĩ Robert Bursey – kỹ sư ; và Trung sĩ Howard A. Wandtke, người quản lý và vận hành vô tuyến. Chuyến bay là một trách nhiệm giảng dạy đêm hôm thường lệ, xuất phát từ địa thế căn cứ Hammer Field ở Fresno, bang California để tới Bakersfield và Tucson rồi quay lại .Sau khi máy bay B-24 nói trên mất tích, một cuộc tìm kiếm trên diện rộng đã diễn ra vào ngày hôm sau. Chín máy bay ném bom B-24 đã được điều đi để tìm chiếc máy bay mất tích. Tuy nhiên, thay vì tìm thấy chiếc B-24 này thì lại có một chiếc nữa mất tích. Vào sáng 6/12/1943, Chỉ huy phi đội là Đại úy William Darden cất cánh cùng với tám chiếc B-24. Mãi tới năm 1955, người ta mới tìm thấy Đại úy Darden cùng chiếc máy bay và phi hành đoàn khi rút cạn nước hồ chứa Huntington để thay thế sửa chữa đập .Theo tìm hiểu về vụ mất tích của chiếc máy bay ném bom thứ hai, Darden đã gặp nhiễu loạn do gió to và khởi đầu mất áp suất thủy lực. Khi Darden nhìn thấy phía trước như là khoảng chừng rừng thưa phủ tuyết, anh đã bảo phi hành đoàn nhảy ra, nhưng chỉ có hai người nhảy. Điều tra cho thấy phi công chắc rằng đã nhầm mặt hồ ngừng hoạt động với khoảng chừng rừng phủ tuyết. Tuy nhiên, hai người nhảy dù trên không ra khỏi máy bay và sống sót cho biết thêm mặt hồ không bị ngừng hoạt động. Khi máy bay được tìm thấy, nó đang nằm ở độ sâu 60 m dưới mặt nước và 5 thành viên phi hành đoàn còn lại vẫn ở nguyên vị trí .Trong khi đó, ông Clinton Hester, cha của cơ phó Robert Hester trong vụ máy bay mất tích tiên phong, khởi đầu tự tìm con trai và cuộc tìm kiếm này lê dài 14 năm. Khi ông chết vì đau tim năm 1959, ông vẫn chưa tìm thấy con trai hay bất kể vật chứng nào về máy bay mất tích. Tuy nhiên, một năm sau, chiếc máy bay được những nhà nghiên cứu Cơ quan Khảo sát Địa chất Mỹ tìm thấy hồi tháng 7/1960 khi họ đang thao tác tại một khu vực hẻo lánh ở High Sierra, phía tây hẻm núi LeConte ở Công viên Quốc gia Hẻm núi Kings và Sequoia .
Ông Steve Fossett. Ảnh: EPA |
Tại đây, họ tìm thấy xác máy bay trong và gần một cái hồ không tên. Về sau, những điều tra viên Lục quân Mỹ cho biết xác máy bay chính là chiếc máy bay ném bom tiên phong mất tích mà Willis Turvey và Robert M. Hester tinh chỉnh và điều khiển. Ngày nay, cái hồ này được gọi là Hester .
Một máy bay quân sự chiến lược nữa mất tích ngày 9/5/1957 khi Trung úy David Steeves điều khiển và tinh chỉnh máy bay huấn luyện và đào tạo T-33. Cất cánh từ địa thế căn cứ không quân Hamilton gần San Francisco, chiếc máy bay này biến mất khi bay tới Arizona. Sau khi tìm kiếm kỹ lưỡng mà không thành công xuất sắc, Không quân Mỹ đã công bố phi công 23 tuổi thiệt mạng. Tuy nhiên, 54 ngày sau, viên phi công Open trở lại. Mặt hốc hác, quần áo nhơ bẩn, rách nát, Steeves đã tìm được đường tới một trại ở khu vực hẻo lánh thuộc Công viên Quốc gia Hẻm núi Kings, phía đông Fresno, California .Steeves kể lại rằng khi một cái gì đó trong máy bay tiếng nổ, anh ngất trong giây lát nhưng kịp thời tỉnh lại để nhảy ra khỏi máy bay, bị thương nặng ở cả hai mắt cá chân khi tiếp đất. Dùng dù để giữ ấm, anh đã bò suốt 32 km trong thời tiết băng giá ở độ cao khoảng chừng 3.600 m trong 15 ngày mà không có món ăn hay nơi trú ngụ. Cuối cùng, anh tới một cabin bỏ phí của Cơ quan Công viên Quốc gia, tìm thấy vài lon thức ăn đóng hộp và thiết bị câu cá. Sau đó, Steeves sống sót bằng câu cá, săn nai bằng khẩu súng lục .Sau khi lấy lại sức, Steeves tìm cách tìm đường về quốc tế văn minh. Trong thời hạn về, anh suýt chết đuối trên sông Kings, rồi vô tình gặp một người và đã được người này cho đi nhờ ngựa .Steeves rõ ràng là một người dũng mãnh nhưng 1 số ít người hoài nghi câu truyện của anh do anh biến mất vào giữa thời gian Chiến tranh Lạnh và vì không hề tìm thấy xác máy bay. Mãi tới năm 1977, vòm kính che buồng lái máy bay mới được tìm thấy nhưng xác máy bay thì không ai biết ở đâu .Năm 1941, Trung úy Leonard C. Lydon nhảy dù trên không thoát thân sau khi phi đội máy bay chiến đấu của Lục quân Mỹ lạc hướng trên núi. Chiếc P-40 rơi trong vòng 1,6 km tại nơi anh hạ dù xuống Công viên Quốc gia Hẻm núi Kings và Sequoia. Tới tận ngày này, xác máy bay vẫn chưa được tìm thấy .Một vụ nổi tiếng nữa là vụ phi công Charles Ogle mất tích sau khi cất cánh từ Oakland, California hồi tháng 8/1964. Ogle biến mất khi trên đường tới Las Vegas, Nevada. Không ai hay tin gì về Ogle và chiếc máy bay từ đó .Ngày 11/7/1986, Thiếu tá Ross Mhulhare lao chiếc F-117 vào núi gần Bakersfield, California. Nguyên nhân vụ tai nạn đáng tiếc này không khi nào được bật mý .Vậy chuyện gì đã khiến máy bay mất tích ở “ tam giác quỷ ” Nevada ? Một số người theo thuyết thủ đoạn nói rằng nguyên do có quá nhiều máy bay biến mất là do tương quan tới Khu vực 51, nơi Không quân Mỹ thử nghiệm máy bay bí hiểm. Nhưng, nhiều chuyên viên cho rằng những vụ biến mất này là do điều kiện kèm theo khí quyển và địa lý khu vực .
Dãy núi Sierra Nevada chạy vuông góc với dòng tia (các luồng gió thổi nhanh trong các dòng hẹp tồn tại ở khí quyển Trái Đất). Dòng tia, hay còn gọi là gió mạnh Thái Bình Dương, kết hợp với đỉnh núi cao và dãy núi hình chữ V đã tạo ra các cơn gió không ổn định, khó lường và các luồng gió ập xuống. Hiện tượng thời tiết này đôi khi được gọi là “sóng núi”, nơi máy bay bị hất văng và lao xuống.
Các giả thiết khác gồm lỗi của phi công. Người thiếu kinh nghiệm tay nghề hoàn toàn có thể không biết giải quyết và xử lý trường hợp khi rơi vào vùng nhiễu loạn và mất phương hướng trên địa hình núi .Theo Báo Tin Tức
Điều lạ trong thảm kịch máy bay Indonesia
Nạn nhân tiên phong đã xác lập được danh tính nhờ so sánh vân tay .
Source: https://thevesta.vn
Category: Tâm Linh