Những học thuyết kinh điển trong giáo lý nhà Phật- Kỳ 3: Thuyết nhân quả – nghiệp báo

Nhân quả – nghiệp báo là một học thuyết quan trọng trong đạo Phật. Hiểu một cách đơn thuần nhất, nhân là nguyên do, quả là hiệu quả của nhân ấy. Còn nghiệp là những hành vi, việc làm có tác ý, chủ ý. Chính tác ý, chủ ý đó đóng vai trò chủ yếu, quyết định hành động hành vi và đặc thù của nghiệp. Những hành vi không có tác ý thì không tạo nên nghiệp. Nghiệp biểu lộ qua hành vi, lời nói và tư tưởng. Mỗi hành vi hay nghiệp như vậy đều đưa tới hiệu quả của nó, tức là quả báo của nghiệp. Hành động ác đưa tới quả báo ác ; hành vi tốt đưa tới quả báo tốt. Tuy nhiên, tác dụng hay quả báo của nghiệp không mang tính cố định và thắt chặt, không bao giờ thay đổi, mà chịu sự chi phối, ảnh hưởng tác động, ảnh hưởng tác động từ những yếu tố duyên hay khuynh hướng nỗ lực tạo tác của con người. Nói cách khác, con người trọn vẹn có năng lực tác động ảnh hưởng đến tác dụng của nghiệp. Chẳng hạn như một người trước đây từng là kẻ vướng nhiều sai lầm đáng tiếc, nhưng do nỗ lực làm những việc thiện và thanh lọc tâm ý, anh ta trọn vẹn có năng lực tránh được hậu quả của nghiệp. Nhân quả nghiệp báo không phải là một trong thực tiễn mà là một quy trình. Cũng theo giáo lý nhà Phật, nhân quả – nghiệp báo của mỗi số phận, mỗi con người không chỉ do đời này, kiếp này tạo nên mà đôi lúc là do duyên nợ từ tiền kiếp. Ví dụ, một phụ nữ hiền hậu, cần mẫn, tốt bụng nhưng chẳng may lấy phải người chồng vũ phu, cờ bạc, rượu chè. Thay vì được yêu thương, được tôn trọng thì người vợ này bị chồng mình chửi mắng, nhục mạ, bạo hành.

Thuyết nhân quả – nghiệp báo sẽ lý giải rằng do cô vợ này kiếp trước mắc nợ tiền bạc, nợ nhân duyên người con trai kia nên kiếp này phải làm vợ anh ta để “trả nợ”. Tuy nhiên, cũng không phải vì món nợ tiền kiếp mà con người ta phải chấp nhận số phận, phải cam chịu, chấp nhận nghiệp quả từ kiếp trước mang lại; ngược lại, con người ta thông qua hành động, nhân duyên của mình hoàn toàn có thể tác động để chuyển nghiệp. 

Trong giáo lý nhân quả của đạo Phật, giá trị con người không riêng gì được tôn vinh ở vai trò và nghĩa vụ và trách nhiệm mà con người còn có năng lực làm biến hóa nghiệp cũ ( chuyển nghiệp ). Đây là một đặc tính rất là nhân bản trong giáo lý nhân quả của đạo Phật. Trở lại với câu truyện của người vợ bị bạo hành, thay vì phải gật đầu cuộc hôn nhân gia đình đọa đày thì cô ấy trọn vẹn hoàn toàn có thể chuyển nghiệp bằng cách dùng yêu thương để giáo dục chuyển hóa, ” cải tà quy chính ” người chồng, hoặc kế sách ở đầu cuối là ly hôn để giải phóng, chuyển nghiệp cho bản thân mình.

Theo Phật Giáo, hạnh phúc hay khổ đau không phải là chuyện sắp đặt ngẫu nhiên của số phận, lại càng không phải do sự thưởng phạt, ban ân của đấng siêu nhiên nào khác. Hạnh phúc hay khổ đau của mỗi người là do chính chúng ta tạo nên, do con người định đoạt, trong đó yếu tố nhân duyên cũng góp phần quan trọng làm nên hạnh phúc hay đau khổ đó.

Gạt bỏ một số yếu tố  có tính tôn giáo trong các quan niệm trên về quả thì có thể thấy Phật giáo nêu ra các trường hợp khác nhau của sự tạo quả để nhấn mạnh rằng cũng giống như nhân và duyên, quả không phải là một giá trị bất biến mà có thể chuyển biến, đổi thay. Quả như thế nào là do tác động của nhân và duyên; gieo nhân duyên tốt thì nhận kết quả tốt và ngược lạ. Nhân và duyên khác nhau, tác động theo các chiều hướng khác nhau thì quả cũng không thể giống nhau. Nhưng dù có khác biệt thế nào thì quả vẫn là từ nhân và duyên mà hình thành vì vậy sẽ tìm được cơ sở giải thích cho mọi trường hợp hình thành quả.

Tóm lại, trong triết học Phật giáo, nhân quả – nghiệp báo không phải là một thực thể mà là một quy trình. Quá trình đó chịu ảnh hưởng tác động thâm thúy của duyên, những điều kiện kèm theo tương hỗ, sự tác động ảnh hưởng theo những khuynh hướng tạo tác của nghiệp mới. Do đó, khi tất cả chúng ta nghiên cứu và điều tra, tìm hiểu và khám phá thâm thúy về triết lý nhân quả nghiệp báo, ta không còn có thái độ thụ động chờ đón tác dụng của nghiệp như một tất yếu phải diễn ra nữa mà luôn luôn nỗ lực chuyển hóa nghiệp, thanh lọc thân tâm, khiến cho quả báo của nghiệp xấu không có thời cơ biểu lộ nơi đời sống của ta, hoặc vẫn còn có năng lực bộc lộ thì thì sức mạnh của nó cũng không đủ để ảnh hưởng tác động, chi phối đời sống, chi phối tâm thức, khiến cho ta không an tâm, khổ đau nữa.

(Đón đọc kỳ tới: Thuyết duyên khởi của đạo Phật)

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp