Quan điểm của Phật giáo đối với ngày “tận thế” – Pháp Thí Hội

Ngày tận thế là một kh ái niệm của Cơ-đốc-giáo, nhưng đó cũng là một thực sự. Phật giáo chia quy trình sinh diệt của quốc tế thành 4 quá trình : Thành, trụ, hoại, không. Từ không mà sinh ra có. Giai đoạn “ có ” lại chia thành 3 tiến trình là thành, trụ, hoại. Kết quả của hoại là quy về không. Trong quốc tế của tất cả chúng ta chỉ trong quá trình trụ mới có thể có hoạt động giải trí của sinh mạng và sinh vật. Trong quá trình thành, những yếu tố vật chất từ từ ngưng đọng hình thành nên 4 đại là Đất, Nước, Lửa, Gió. Chỉ sau khi 4 đại được định hình rồi thì hiện tượng kỳ lạ hoạt động giải trí sinh mạng mới từ từ được tăng trưởng .
Dạng sinh mạng tiên phong là từ một quốc tế khác hóa sinh mà đến, chứ không do một vị thần hoặc một người nào phát minh sáng tạo ra. Giai đoạn Trụ của quốc tế là tiến trình hoạt động giải trí sinh mạng. Nhưng quốc tế cũng từ từ chín mu ồi và đi đến chỗ suy lão và ở đầu cuối chuyển sang quy trình tiến độ Hoại, một tiến trình không còn thích hợp với sự sống sót của sinh vật nữa. Đến lúc Hoại triệt để thì khối vật chất của quốc tế bị tan rã, và quy về tiến trình Không. Sau đó do nghiệp cảm của chúng sinh đồng loại ở quốc tế 10 phương mà hình thành một quốc tế khác. Thế giới sinh diệt là do nghiệp cảm của chúng sinh mà có .
Đối với Phật giáo, c ái gọi là ngày tận thế khởi đầu với quy trình tiến độ hoại của quốc tế. Do vậy, Phật giáo không phủ định quốc tế sẽ có ngày tận thế nhưng quan niệm so với v ấn đề khác với Cơ-đốc-giáo. Theo Cơ-đốc-giáo ngày tận thế xuất phát từ ý chí Thượng đế. Khi ngày tận thế đế n, thì Chúa Trời Open, đưa những người được Chúa yêu lên Thi ên đường và đuổi những người Chúa không yêu xuống địa ngục. Còn tiến trình hoại của quốc tế mà Phật giáo nói là hiện tượng kỳ lạ tự nhiên, do cộng nghiệp của tất cả chúng ta ở quốc tế này dẫn tới mà thành tựu. Khi trong quốc tế, không còn điều kiện kèm theo để cư trú nữa thì những chúng sinh tùy theo nghiệp lực của mình mà sẽ t ái sinh sang những quốc tế khác .

Ngoài ra Mạt pháp một danh từ Phật giáo. Trước thời mạt pháp có thời chánh pháp và tượng pháp. Thời đại Phật Thích Ca tại thế, về nguyên tắc là thời đại chánh pháp. Sau khi Đức Thế Tôn vào Niết bàn, là bắt đầu thời tượng pháp. Thời này chỉ có hình tượng của Phật là đại biểu cho Pháp. Sau một thời gian nữa là thời mạt pháp, số người tin Phật ngày càng giảm bớt, số người tu hành lại càng ít. Người tu chứng được đạo Thánh cũng không còn một ai. Và cuối cùng, Phật pháp cũng bị các tà thuyết và ham muốn thế tục làm cho mai một, tiêu vong mất. Kinh Phật tuy vẫn còn, nhưng không ai tin và thực hành. Do đó mà trong thời kỳ Phật Pháp tồn tại ở thế gian này, hy vọng rằng chúng sinh hãy nỗ lực hộ trì Tam Bảo, duy trì tuệ mạng để làm cho thời gian Phật Pháp tồn tại ở đời này được kéo dài mãi mãi, đưa lại hy vọng tương lai cho loài người. Do đó, khái niệm mạt pháp của Phật Pháp không có gì là đáng sợ như khái niệm “tận thế” của Cơ-đốc-giáo.

Nếu thiện căn của anh sau này lại được liên tục tu dưỡng phát huy, thì dù ở thời kỳ mạt pháp và ở vào quy trình tiến độ “ hoại ” của quốc tế đi nữa, anh cũng không tu yệt vọng. Trong thiên hà bao la, quốc tế nơi anh sống chỉ là một tinh cầu nhỏ trong Thái dương hệ. Anh có thể dựa vào thiện căn của mình mà chuyển sinh mạng sang một quốc tế khác để liên tục tu hành. Nếu nghiệp lực của anh can đảm và mạnh mẽ, đức tin của anh bền vững và kiên cố, thì anh có thể vãng sinh ở một cõi Phật. Thế giới này bị hoại diệt, không có nghĩa là bước vào đường cùng. Đó cũng là điểm rất không giống với ngày tận thế của Cơ-đốc-giáo .
Ngoài ra Phật giáo tu y ở thời kỳ mạt pháp, nhưng so với cá thể anh mà nói, chỉ cần nỗ lực không lười biếng, anh có thể từ thời mạt pháp chuyển sang sống trong hoàn cảnh thời tượng pháp, thậm chí còn trong hoàn cảnh chính pháp .

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp