Phật giáo | Patrimoines Partagés – France Vietnam
Xét theo hình thức : tư liệu Phật giáo gồm có 3 dạng : ấn phẩm theo kiểu in phương Tây ( báo, tạp chí, sách ), viết tay, in khắc gỗ. Trong đó, ấn phẩm theo in kiểu phương Tây có số lượng lớn nhất .
Về chữ viết: tư liệu Phật giáo được ghi chép bằng 4 hình thức văn tự, là: Hán, Nôm, quốc ngữ, Pháp; trong đó chữ quốc ngữ là chủ yếu.
Bạn đang đọc: Phật giáo | Patrimoines Partagés – France Vietnam
Về thời gian và không gian: tư liệu Phật giáo xuất hiện trong khoảng những năm 1920 đến 1945 ở cả ba kỳ (của Việt Nam) và Paris (Pháp).
Tư liệu Hán Nôm về Phật giáo và của Phật giáo đầu thế kỷ XX, bao gồm:
– Kết tập, biên soạn và ấn kinh tạng Việt Nam: Từ năm 1940 trở đi hội Phật giáo Bắc Kỳ khởi công khắc bản và cho ấn hành những tác phẩm thuộc thư tịch Phật giáo Việt Nam bằng chữ Hán. Ví dụ bộ Việt Nam Phật điển tùng san đã được hội khắc bản và ấn hành vơi sự bảo trợ của Viện Viễn Đông Bác Cổ, gồm 10 bộ, với 8 tác phẩm, là: Bát nhã trực giải, Pháp hoa đề cương, Chư kinh nhật tụng (2 tập), Lễ tụng hành trì tập yếu chư nghi, Thọ giới nghi phạm tổng tập (2 tập), Trần triều dật tồn Phật điển lục, Khóa hư lục, Kế đăng lục.
– Thống kê tư liệu Phật giáo có Hà Nội Viễn Đông khảo cổ học viện hiện tàng Việt Nam Phật điển lược biên của Thúc Ngọc Trần Văn Giáp, 1943.
– Thơ kệ hoặc thơ mang ý vị Phật giáo của chư tăng đương thời, đăng trên các tạp chí của hội Phật giáo chấn hưng 3 kỳ (ví dụ Từ bi âm, Viên âm, Đuốc tuệ,..) hoặc in thành thi tập, văn tập tại các chùa (khắc bản của chùa Vĩnh Khánh – huyện Chí Linh, hoặc chùa Yên Minh – huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương), tiêu biểu có: Thiện sinh Kinh, Thiền tịch phú (Chân Nguyên), Sự lý dung thông (Hương Hải), Thỉnh âm hồn văn (Đắc Nhất), Ngũ giới diễn ca (Như Như) v.v… Ngoài cảm hứng văn chương, đây còn là cách diễn giải, truyền bá tư tưởng, đạo pháp hoặc đức tin Phật giáo.
– Đúc kết, diễn giải tư tưởng Phật giáo: đáng chú ý nhất là công trình biên khảo Phật học đăng của Phan Bội Châu, tiếc là tác phẩm đã thất lạc.
Tư liệu tiếng Pháp:
Ấn phẩm tiêu biểu vượt trội nhất là hai lược sử Phật giáo Việt Nam và Bắc Kỳ, Esquisse d’une histoire du Bouddhisme au Tonkin và Le Bouddhisme en Annam des origines au XIIIè siècle ( l’École française d’Extrême – Orient, Vol. 32, No. 1, 1932 ), và Esquisse d’une histoire du Bouddhisme au Tonkin ( Viên âm, Huế, 1932 ) của Thúc Ngọc Trần Văn Giáp .
Bên cạnh đó, cũng có thể chú ý đến « Le Culte des ancêtres: précédé d’un exposé sur le Bouddhisme, le Taoïsme et le Confucianisme » của Emile Tavernier, Société des Etudes Indochinoises, T.1, No. 2, 1926. Cũng trong năm 1926, ra đời một nghiên cứu về hội kín và các phong trào khởi nghĩa ở Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX đến những năm 1920 mang tên Les sociétés secrètes en terre d’Annam của Geoges Coulet, và Croyances et pratiques religieuses des annamites của Léopold Cadière. Tuy những tư liệu này không trực diện và tập trung bàn về Phật giáo, nhưng độc giả và các nhà nghiên cứu có thể tìm thấy trong nhiều phần của tư liệu này những nội dung liên quan đến Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Tư liệu chữ quốc ngữ: Dưới hai hình thức ấn phẩm, ấn bản độc lập và ấn bản trên báo tạp chí, đây là nhóm tư liệu có số lượng nhiều nhất và có ý nghĩa nhất đối với việc tìm hiểu tư tưởng Phật giáo và đời sống Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX. Có thể chia nhóm tư liệu này theo các chủ đề và nội dung sau đây :
1/ Dịch và chú giải kinh sách (tức quốc ngữ hóa kinh Phật); diễn giảng giáo lý Phật giáo và kinh sách. Một số ấn phẩm tiêu biểu: Quan Âm Tế độ diễn nghĩa Kinh (1922), Quan âm giác thế ca (1932), Đại bi thập chú Kinh Hội (1922), Đại bi tâm kinh (1926), Di-đà, Hồng-danh, Vu-lan : Phổ-môn, Kim-cang (1925), Kinh Địa Tạng : Phật kinh phiên dịch âm nghĩa (1927), Giảng nghĩa kinh kim cương (1939),
Bát nhã tâm kinh (1939), Di Đà kinh, phổ môn phẩm. Kim Cang kinh (1939), Giảng tu tịnh độ (1941), Thần chú thử lăng nghiêm (1941), Diệu pháp liên hoa kinh quán-thế âm bồ tát Phổ môn phẩm (1934), A-Di-Đà kinh : Có cả chữ Nho, bản âm quốc ngữ với bản dịch quốc văn (1941) de Đoàn Trung Còn, Kinh nhân quả (1942)
Ngoài ra, cần chú ý quan tâm đến khu công trình Phật học của tác giả Trần Trọng Kim, Lê Thắng xuất bản, TP.HN năm 1940. Công trình gồm ba chương. Chương một nói về ” Phật giáo Tiểu Thặng và Phật giáo Đại Thặng “, chương hai nói về ” Phật giáo ở nước Tàu ” và chương ba nói về ” Phật giáo ở Việt Nam “. Lại có một phần phụ lục dịch ” Trì Danh Diệu. Hạnh Luận ” và ” Sơn Cư Bách Vịnh ” .
Một khu công trình khác của Trần Trọng Kim là Phật lục, Lê Thắng xuất bản, TP. Hà Nội, 1940, là một tập sách đại trà phổ thông về Phật học nhằm mục đích tới giới fan hâm mộ tầm trung. Theo ông, sách này chỉ là ” mấy cái đại ý về đạo cứu thế của nhà Phật ” chứ không phải là ” sách nghiên cứu và điều tra triết lý cao siêu “. Nội dung sách này gồm có một Lời khởi đầu nói đại cương về đạo Phật và năm chương nói về : 1 – Thích Ca Mâu Ni Phật ; 2 – Chư Phật ; 3 – Chư Bồ Tát ; 4 – Thế gian và quốc tế ; và 5 – Sự thờ phụng và cách bài trí những tượng ở chùa
2/ Dịch các tác phẩm Việt Nam viết bằng chữ Hán liên quan đến Phật giáo (chẳng hạn Khóa hư lục do Nguyễn Trọng Thuật dịch đăng trên Nam Phong tạp chí, do Thiều Chửu dịch đăng trên Đuốc tuệ)
3/ Đại chúng hóa kinh sách, giáo lý, như: Kinh báo hiếu phụ mẫu ân (1928), Phu thê ngôn luận Phật giáo quy nguyên (1926), Phật giáo nhật tụng (1935), Phật học tổng yếu (1929), Phật giáo vấn đáp (1932), Chơn lý của tiểu thừa và đại thừa phật giáo (1937).
4/ Luận bàn về vai trò của Phật giáo trong xã hội, đời sống
5/ Kể chuyện về các sự tích Phật giáo, nhân vật Phật giáo. Chẳng hạn: “Phật giáo tân luận” của Nguyễn Trọng Thuật (Nam Phong tạp chí, số 208-09) hay “Lịch sử Phật giáo nước Tàu” của Nguyễn Hữu Tiến (Nam Phong tạp chí, số 178, 180, 183). Đặc biệt cần chú ý đến công trình “Phật giáo lược khảo” gồm 3 phần – Phật tổ sự tích, Phật lí uyên nguyên, Phật giáo lịch sử – của Phạm Quỳnh in trong Nam Phong tạp chí, số 40. Năm 1943, chùm bài viết này được chính tác giả chọn đưa vào bộ Thượng Chi văn tập do Nhà xuất bản Alexandre de Rhodes in tại Hà Nội.
6/ Thông tin về các sự kiện liên quan đến các hoạt động của hội và các nghi lễ Phật giáo (tức thực hành tôn giáo)
Các chủ đề 4, 5 và 6 trên tập trung chuyên sâu trong những báo như Nam Phong tạp chí, và những tạp chí do hội Phật giáo ba kỳ phát hành thời kỳ chấn hưng Phật giáo 1930 – 1945, như : Từ bi âm ( tại Nam Kỳ ), Viên âm ( tại Trung Kỳ ), và Đuốc tuệ ( ở Bắc Kỳ ) .
7/ Biên soạn lịch sử Phật giáo Việt Nam: Có thể coi bài báo khuyết danh mang tựa đề “Phật giáo Nam lai khảo” trên Nam Phong tạp chí số 128 (năm 1928) là tư liệu hiện còn đầu tiên về việc khởi thảo lịch sử Phật giáo Việt Nam. Năm 1932, có hai công trình của Trần Văn Giáp (đã nhắc đến ở mục tiếng Pháp). Năm 1943 ấn phẩm Việt Nam Phật giáo sử lược của Hòa thượng Thích Mật Thể thành cuốn lịch sử trọn vẹn đầu tiên (cho đến thời điểm đó) của Phật giáo Việt Nam.
8/ Nghiên cứu Phật giáo và Phật giáo Việt Nam: Tiêu biểu là, Đạo lý Phật giáo với đạo lý Nho giáo ở nước ta (Trần Văn Giáp), Impr. Trung Bắc Tân văn, Hà Nội, 1935; Phê bình Phật giáo (Nguyễn An Ninh), 1937
Nhìn chung, ba nguồn tư liệu về Phật giáo Open trong nữa đầu thế kỷ tại Việt Nam hoặc tương quan đến Việt Nam đã cho thấy khuynh hướng quốc ngữ hóa, phổ cập hóa kinh sách, đại chúng hóa giáp lý Phật giáo là bao trùm. Mặt khác chúng cũng cung ứng thông tin về diễn giải, tiếp đón kinh sách Phật giáo, về thực hành thực tế tín ngưỡng. Cuối cùng, những nguồn tư liệu đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc phản ánh sự cạnh tranh đối đầu tư tưởng, tôn giáo, văn hóa truyền thống ( cũ mới, Đông-Tây, và dân tộc-thực dân ) ở Việt Nam thời bấy giờ .
Đăng tải tháng 2 năm 2021
Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp