LÀM THẾ NÀO ĐỂ HIỂU KINH PHẬT? | Phật Giáo Quận 8
Tuy nhiên, duyên con có quen 1 số ít bạn trên mạng rất ham thích tầm cỡ, họ hoàn toàn có thể đọc kinh, nghe kinh cả ngày không chán và nói với con rằng phải nghe kinh cho thật nhiều thì mới tĩnh tâm, mới hiểu pháp Phật, mới tu tốt nhất tránh động tâm. Tuy vậy, con không có thời hạn rảnh rỗi như những bạn vì còn phải lo chuyện làm ăn mái ấm gia đình. Con xin hỏi có phải người tu cần phải nghe đọc hết những tầm cỡ không ? Con có nên nghe kinh suốt ngày như vậy mới gọi là tu không ? Làm thế nào để con hiểu kinh Phật ? Nếu con không nghe kinh Phật thì có làm thế nào không ? Con xin cảm ơn Sư !
Mục lục
Kinh Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn tu phổ cập sâu rộng trong thập phương pháp giới, chúng sinh thì cũng vô biên nghiệp chướng trần lao và nhiều tật tánh nhưng cũng tựu chung nằm gọn trong tám vạn bốn ngàn nghiệp chúng sinh, mỗi chúng sinh có tám vạn bốn ngàn nghiệp chướng trần lao.
Đáp: Kinh Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn tu phổ cập sâu rộng trong thập phương pháp giới, chúng sinh thì cũng vô biên nghiệp chướng trần lao và nhiều tật tánh nhưng cũng tựu chung nằm gọn trong tám vạn bốn ngàn nghiệp chúng sinh, mỗi chúng sinh có tám vạn bốn ngàn nghiệp chướng trần lao. Ý nói tật tánh chúng sinh thì vô biên, nhưng pháp của Phật cũng vô biên để đối trị các bệnh khiến cho chúng sinh được thanh tịnh, dứt diệt những phiền não tham sân si giải thoát sinh tử luân hồi. Trong Kinh tạng Nikaya không thấy có nói kinh Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn, nhưng trong đọan Trưởng Lão Tăng Kệ, 1024, kinh Tiểu Bộ, Phật có dạy, như sau:
Bạn đang đọc: LÀM THẾ NÀO ĐỂ HIỂU KINH PHẬT? | Phật Giáo Quận 8
Ta nhận từ đức Phật ,
Tám mươi hai ngàn pháp ,
Còn nhận từ Tỷ-kheo ,
Thêm hai ngàn pháp nữa ,
Tổng cộng tám tư ngàn ,
Là pháp ta chuyển vận …
Thật vậy, từ ngữ Phật học tám vạn bốn ngàn pháp môn, gồm 82.000 pháp của Phật và 2.000 pháp sống của chư tỳ kheo. Đây là ý chỉ kinh Phật có 84.000 pháp môn, ý nói pháp Phật là vô biên giáo, pháp Phật là như thị như thị, như vị thuốc a già đà đặc trị những căn bệnh chúng sinh. Ví như : Nếu chúng sinh bỏn sẻn thì Phật dạy bố thí ; chúng sinh mê chấp thì Phật dạy tu huệ ; chúng sinh si mê thì dạy tu thiền tịnh ; chúng sinh lầm lạc thì pháp Phật là đèn huệ sáng soi trong mọi tâm hồn đen tối của chúng sinh, khiến cho họ thân mật Chánh pháp mà thoát hóa luân hồi, tiến hóa uyển chuyển và kịp thời hội nhập theo nếp sống an tĩnh ..
Theo tự điển Phật học của Cụ Đoàn Trung Còn thì thời kỳ Phật Thích Ca xuất thế tu đắc đạo làm Điều ngự Trung thiên Giáo chủ thuyết giáo, giáp pháp Phật hầu hết làm cho chúng sinh tu hành theo và giải thoát. Tuy nhiên, giáo pháp đức Phật phát hành được phân ra làm ba thời kỳ để biết rõ về căn khí chúng sinh lợi độn, chỉ cách tu hành như thế nào được đắc đạo .
Các liệu pháp thực hành thực tế tâm linh khi mang thai
1. Thời kỳ Chánh pháp
Giáo pháp chân chánh, cao trỗi, trong sáng, có hai phần Lý và Thể
Lý : Ý nghĩa giáo pháp Phật không sai chạy, không tà ngụy. Đạo lý từ lúc ban sơ đến lúc sau cuối, đều có tính cách trong sáng, khi nào cũng làm cho chúng sinh giải thoát, tiêu chuẩn chúng sinh là thoát hóa luân hồi nên kêu là lý chánh .
Thể : Pháp, tức là nền pháp bảo ở trong Tam bảo. Thể của Chánh pháp lại cũng gom vào trong bốn pháp là giáo lý hạnh quả, là quy tắc dành cho chư sa môn thời Phật và chư đệ tử hậu lai không bước ra khỏi bốn nguyên tắc đó. Bốn nguyên tắc đó là :
– Giáo là lời nói câu văn của chư Phật .
– Lý là nghĩa lý trong giáo pháp .
– Hạnh là y theo nghĩa lý trong giáo pháp Phật mà tu hành .
– Quả nhờ tu hành giới định tuệ mà chứng quả .
Nhìn chung giáo pháp Phật có năng lượng làm cho những bệnh chúng sinh đều tiêu trừ thân khẩu ý sạch trong để bước vào quốc tế Phật. Ở thời kỳ này, chư tăng gần Phật nghe pháp tu hành chứng đạo giống như lời Phật dạy, nên gọi giống Phật .
2. Thời kỳ tượng pháp giáo pháp của Phật
Người nghe giáo pháp Phật thì nhiều nhưng không có sự giác ngộ. Nếu có thì chỉ giông giống Phật mà thôi, chứ không như thời kỳ Chánh pháp.
Mường tượng, tương tự như, giáo pháp giống như Chánh pháp, tuy nhiên kém đi lần .
Người tu tập đông nhưng ít người thành đạo. Người nghe giáo pháp Phật thì nhiều nhưng không có sự giác ngộ. Nếu có thì chỉ giông giống Phật mà thôi, chứ không như thời kỳ Chánh pháp. Thời kỳ tượng pháp cũng là thời kỳ chư lịch đại tổ sư xiển dương tâm tông giáo lý Phật, hội nhập vào dòng đời, đi vào những vương quốc tín ngưỡng Phật pháp nhiều hơn là theo Phật tu hành. Cho nên ở thời kỳ này, chư tổ sư xiển dương giáo pháp, biến dạng nhiều pháp lành thì nhiều, tu hành thì giảm bớt, để dành cho công đức truyền bá giáo pháp, sự giác ngộ tu chứng từ có trên việc làm, hiểu ý Phật nhưng không làm như Phật. Vì thế mà việc đắc đạo cũng có nhưng rất ít là vậy, và nếu có chỉ mường tượng, chứ không như Phật .
Ý nghĩa tụng Kinh Dược sư và niệm Phật Dược sư
3. Thời kỳ mạt pháp
Mạt là suy tàn. Đạo pháp ở vào thời kỳ suy tàn, con người chúng sinh đã cách Phật quá xa. Người ác trược thì nhiều, người trong sáng tinh khiết thì ít, vì vậy rất ít người tu hành đắc đạo. Thời mạt pháp cũng rất khó tu hành, do chúng sinh không rảnh tâm mà ngồi điều tra và nghiên cứu đạo lý để tu. Nhiều người thiết kế xây dựng chùa chiền, đấu tranh quyền lợi và nghĩa vụ, quyền lực tối cao, chia phe chia phái sát phạt lẫn nhau, không có người tìm chỗ am thanh cảnh vắng để tu cho đắc đạo, mà chỉ có người mến trìu vật chất, ship hàng cho bản thân, vinh thân phì da chốn thiền lâm, làm cho cửa thiền náo lọan, người không biết đâu là chánh là tà, thầy tu ăn thịt uống rượu, ít biết đến việc công phu tu tập .
Cho nên ở thời đại mạt pháp, người tụng kinh, đọc kinh, nghiên cứu và điều tra kinh thì nhiều nhưng ngộ đạo chứng quả thì không có, hoặc có thì quá ít oi hơn thời kỳ tượng pháp. Thời mạt pháp, người chỉ hiểu Phật pháp rồi truyền đạo, chứ không tu đắc đạo mới truyền đạo. Do đó, không có người tu chứng, không có người tu đắc đạo mà chỉ có người phát nguyện giữ đạo, truyền bá giáo pháp Phật đúng sai không phân định rõ ràng. Nhiều người vi phạm tín điều, giới điều của Phật mà vẫn không hay biết, cũng xưng là bậc đạo sư .
Quá trình tu hành của bạn
Cũng khen bạn có chí lớn tu hành, tu nhiều pháp môn, đọc nhiều kinh, không khác gì chư tăng ni trong chốn thiền lâm. Nhưng tất cả chúng ta “ đọc kinh cầu lý ”, tìm lý lẽ Phật đi con đường nào tương thích cho sự giải thoát của chính mình. Tụng kinh, nghiên cứu và điều tra kinh nhiều thì tốt nhưng cũng có lúc “ bội thực ” về việc tiếp đón kinh, nhất là từ ngữ Phật học làm cho tất cả chúng ta không còn biết phương hướng nào mà tu hành .
Biết nhiều đôi lúc cũng làm cho tâm lý ta nặng nề, khó mà lột tả hết những hương liệu của tinh hoa kinh. Biết nhiều nhưng không tiêu hóa, hóa giải một cách có logic khiến cho người đọc như cái tủ đựng sách, xem nhiều kinh như con mọt ăn sách kinh. Kinh sách thì hư hết nhưng chẳng chứng đắc pháp nào cả .
Đọc nhiều sách có lợi hay hại
Nhưng phải đọc và học từ thấp lên cao, từ thập như những sách “ Phật học sở đẳng giáo khoa thư ”, sách “ Phật học Phổ thông ” của Hòa thượng Thích Thiện Hoa, sách “ Phật học Tinh yếu ” của Hòa thượng Thích Thiền Tâm, “ Lịch sử Phật Thích Ca ”, “ Lai lịch 33 vị Tổ sư Tây Thiên Đông Độ ”, “ Lịch sử Phật giáo Nước Ta ”. Học đọc những sách này khi đã xong mới học tới “ ngũ thừa ” là Nhơn thừa, Thiên thừa, Thinh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa. Cho đến những kinh Đại thừa tu học như vậy cũng phải trải qua 10 đến 15 năm, bạn sẽ lão tông Phật học .
Không nên mới bước vào thềm thánh điện mà đọc những sách Kim Cang Bát Nhã, Hoa Nghiêm luận, Niết Bàn luận, Câu Xá Luận, Duy Thức … chắc như đinh sẽ làm cho bạn mất cân đối về tâm lý .
Mặc khác, chưa chắc là bạn nghiên cứu và điều tra kinh sách nhiều để tu hành, kể cả chư tăng ni khi đã học cao, đa văn quảng trí, nhẫn đến phật tử khi nghiên cứu và điều tra nhiều kinh sách Phật ít ai bàn đến chuyện hành pháp, đi khóa lễ Tịnh độ, khóa tu Thiền, khóa tu Mật. Dường như không còn nghĩ đến chuyện tôi luyện mình trong những thời khóa tu hành. Đây chính là tai hại lớn cho những người con Phật, biết nhiều thì khinh lờn, lờn pháp, biết ít thì khó tu không hiểu Chánh pháp Phật, không có đường hướng để đi đến đích .
Không hành nhiều pháp ( tạp pháp )
Hành nhiều pháp làm mất tập trung, quán chiếu nhiều đề mục sẽ mất chánh niệm. Căn cứ vào các thời khóa công phu trong chốn chùa chiền mà tu cho đúng pháp. Ở chùa thuộc hệ Bắc tông, buổi sáng công phu tụng Lăng Nghiêm thần chú, buổi chiều công phu tụng kinh tiểu bổn A Di Đà, Hồng Danh bửu sám, buổi tối tụng kinh tiểu bổn A Di Đà, hoặc kinh Phổ Môn. Thỉnh thoảng khai khóa lễ tụng kinh Dược Sư, khóa lễ tụng kinh Địa Tạng, khóa tụng kinh Pháp Hoa…
Các chùa tu Tịnh độ thì niệm thương hiệu Phật vào lúc 23 giờ, những chùa Thiền tông, tịnh xá Khất sĩ thì ngồi thiền không tụng niệm, những chùa Mật tông thì tụng mật chú … Như vậy trong những chùa, tịnh xá có 3 pháp tu đơn thuần ; một là thiền, hai là tu niệm Phật, ba là tu mật ngữ. Bạn là phật tử thuần túy thì nên phát tâm tụng kinh như những chùa tụng niệm, sự tu hành của bạn sẽ tinh tấn vô cùng và hiệu suất cao vì không tu tạp pháp .
Làm phật tử không nên nay hành pháp này, mai hành pháp khác, nay tiếp đón pháp thiền, mai đảm nhiệm pháp tịnh, mai kia tiếp đón pháp mật, mà nên chọn một pháp tu cho chín chắn, hoặc tu thiền, hoặc tu tịnh, tu mật. Trong chốn thiển lâm có câu : “ Tu một pháp, sẽ chứng đắc toàn bộ pháp ” là vậy. Tu một pháp làm cho thân khẩu ý thanh tịnh, thân khẩu ý thanh tịnh thì tổng trì những pháp, muôn pháp trở về một điều, làm cho sự quán chiếu đồng điệu những pháp khác phát sinh đều thanh tịnh. Lúc bấy giờ những lợi lạc, quyền lợi tâm linh, sự mầu nhiệm đều phát sinh, pháp lành sinh khởi làm cho bạn tinh tấn lại càng tinh tấn hơn .
Tại Đồng Nai, một ngôi chùa ở thành phố Biên Hòa, tu hành có nhiều biến dạng pháp : Thầy trụ trì thì tu Thiền, dạy đệ tử tu Tịnh, rước pháp sư Tây Tạng tu Mật truyền pháp cho đệ tử, làm cho đệ tử mất phương hướng, không biết tu pháp nào cho đúng, trở thành loạn pháp, tạp pháp. Cuối cùng lại dạy đệ tử “ pháp nào của Phật thì tu ”, khiến cho phật tử bị nhiễu loạn Phật pháp, tu “ tạp pháp ” .
Làm phật tử, theo d pháp để tu, không nên tự chọn pháp, điều tra và nghiên cứu kinh giáo cho nhiều, đến ở đầu cuối mất phương hướng, hay thì có hay giỏi thì có giỏi nhưng không biết chọn pháp nào để tu cho đúng .
Xin trích một câu truyện khuyết danh :
” Một ông lão đưa người qua sông. Ngày nọ, trời mưa và bão giông to gió lớn, thuyền bị lật úp, nhưng rất may trên đó mọi người gồm cả quý Sư đều biết lội, ai cũng lo liệu lượn lờ bơi lội để lên bờ. Quá trình lượn lờ bơi lội những vị phải bỏ hết đồ tư trang để được nhẹ và thoát nạn “ giộp bẻ ” chết chìm. Chỉ riêng có một vị Sư quảy một gánh kinh, khi đò chòng chành chìm, Sư lo vớt kinh, sợ bỏ kinh bị phạm lỗi với Phật và mất giống trí tuệ. Mãi lo vớt kinh và do mưa và bão lạnh buốt, Sư bị “ giộp bẻ ” chết chìm theo gánh kinh trong sự hụt hẫng ” .
Đò chìm, mọi người bỏ hết tư trang chỉ lo thoát thân nên được sống, riêng nhà Sư vì tiếc kinh mà chết chìm. Người ngộ đạo không mong cầu đọc kinh cho nhiều mới giác ngộ. Giác ngộ là giác ngộ, giác ngộ không qua đọc tụng kinh. Đọc tụng kinh nhiều chỉ có lợi cho phần trí tuệ mưu trí hơn trần gian, nhưng không giúp bạn giải thoát. Muốn giải thoát phải chọn pháp, trong chọn pháp không nhất thiết phải dồi mài kinh sử như trần gian, vì làm tăng bản ngã phàm phu, cống cao ngã mạn, chặn đứng đường tu hành của những bạn .
Tụng kinh công đức vô biên
Tụng, đọc nhiều kinh
Tụng đọc nhiều kinh rất có quyền lợi, một là làm cho thuần thục tâm niệm trong pháp tu, nhuần gội pháp lành ; hai là làm sạch nghiệp chướng trần lao ( sau khóa lễ thân tâm sảng khoái nhẹ nhàng ) ; ba là làm cho trí tuệ sinh, trí tuệ sinh thì tiêu chuẩn giải thoát càng cao. Tuy nhiên, nhiều lúc người xem kinh nhiều chưa chắc vị đó tu giỏi. Trên trần gian, phàm thao tác gì có lợi tất có hại cũng kèm theo, dù đó là kinh Phật, pháp Phật dạy. Có khi cũng chính giáo pháp của Phật được Người nói ra, nhưng sai sót khiến cho người nghe hiểu nhầm tu theo, thật tội nghiệp cho đệ tử .
Có khi giáo pháp Phật cũng được lưu truyền nhưng lưu truyền thiển cận theo ý riêng, tạo nên thiên nhiên và môi trường cục bộ, sinh ngã mạn khiến cho người tu theo cũng giống như thế, cũng sinh ngã mạn. Đọc kinh chẳng hiểu gì cả mà xưng là pháp sư, giảng sư thuyết giảng, nhưng chẳng tu hành lập hạnh chi cả. Rất tiếc, khi truyền cho môn đệ, thì môn đệ của Phật cũng sinh lòng ngã mạn, cũng đọc học gần như là thuộc lòng hết kinh kệ, thuộc hết ba tạng Thánh điển, nhưng không tu hành. Không có quy trình công phu tu tập, không một chút ít huệ tu, làm thế nào có cơ sở giúp cho người tu thành những bậc thiền gia chân chính, huống gì nói đến chuyện tu đắc đạo thành Phật .
Bạn “nghiên cứu kinh” vừa đủ để tu hành, bạn của bạn thì khuyên “nghiên cứu kinh” thật nhiều để được hiểu nhiều dễ tu hơn.
Y kinh mà học, ly kinh mà tu cũng lắm khó khăn vất vả
Đành rằng trong chốn thiền lâm có câu : “ Y kinh diễn nghĩa Tam thế Phật oan, ly kinh nhất tự tức thành ma thuyết ”. Tụng kinh cho nhiều, nghiên cứu và điều tra kinh cho giỏi, nhưng chấp theo kinh thì oan cho ba đời chư Phật. Ví dụ như trong Kinh Phổ Môn, Phật dạy : ” Người chuyên trì niệm thương hiệu Quán Thế Âm cầu xin sinh con trai thì được con trai, cầu xin sinh con gái thì được con gái. Người niệm thương hiệu Quan Thế Âm vào lửa không bị cháy, xuống nước không bị chìm … Tức là người trì niệm thương hiệu Quan Thế Âm cầu xin tu chứng đắc có rất đầy đủ từ bi ( gái ), trí tuệ ( trai ). Người niệm thương hiệu Quan Thế Âm vào lửa không bị cháy, lửa ở đây là lửa “ dục nhiễm ”, nước ở đây là nước “ ái dục ”. Tức là người niệm thương hiệu Quan Thế Âm thì sẽ không còn dục nhiễm, ái dục trần gian nữa được thoát khổ. Như vậy người trì kinh mà hiểu lý kinh, hiểu ý Phật thì không “ oan ức ” cho chư Phật .
Tuy nhiên, nếu những bạn không địa thế căn cứ vào kinh Phật dạy để tu hành, hoặc nói pháp nói kinh cho mọi người nghe mà không địa thế căn cứ vào lời Phật dạy tức đồng ma thuyết. Ví như : Nếu bạn không đọc nguyên văn câu Kinh Phổ Môn trên : “ Người chuyên trì niệm thương hiệu Quán Thế Âm cầu xin sinh con trai thì được trai, cầu xin sinh con gái thì được con gái. Người niệm thương hiệu Quan Thế Âm vào lửa không bị cháy, xuống nước không bị chìm … ”, để giải bài lý kinh cho mọi người nghe hiểu để tu hành mà bạn bỏ bớt lời kinh, hoặc tối thiểu một lời thôi thì cũng bị phạm vào chỗ “ đồng với ma thuyết ” là vậy .
Bạn “ điều tra và nghiên cứu kinh ” vừa đủ để tu hành, bạn của bạn thì khuyên “ điều tra và nghiên cứu kinh ” thật nhiều để được hiểu nhiều dễ tu hơn. Trong giới tu hành luận giải như vậy, không chắc lắm vì có khi “ nghiên cứu và điều tra kinh ” vừa đủ thì dễ tu hơn là “ nghiên cứu và điều tra kinh ” nhiều. Vì “ điều tra và nghiên cứu kinh ” vừa đủ làm cho bạn có thời hạn tu hành, “ điều tra và nghiên cứu kinh ” thì bận việc “ điều tra và nghiên cứu kinh ” làm gì có thời hạn rỗi rảnh để tu hành. Vả lại, bạn là “ tàng kinh những ” cần phải có người giữ “ tàng kinh những ”, lo đọc giữ gom cho hết kinh trong “ tàng kinh những ” không có cơ sở tu tập thiền tụng .
Đọc tụng kinh là tu ?
Làm phật tử phải thông hiều Phật pháp, Phật pháp là tam tạng Thánh điển. Khi nghe giảng sư thuyết giảng nơi nào, nếu có phương tiện đi lại liền phát tâm đến đó thính pháp để tu hành, hoặc siêng học giáo lý để hiểu biết từ ngữ Phật học uyên bác của Phật dạy. Tuy nhiên, không nên “ chấp nê ” mà sinh mê lầm, phải biết pháp Phật chẳng qua là phương tiện đi lại thiết kế xây dựng kho tàng tri thức cho chúng sinh lấy đó làm cơ sở tiệm tu mà không xa rời Chánh giáo đức Thế Tôn. Như trong Kinh Kim Cang Bát Nhã Phật dạy : Tu Bồ Đề, Ông chớ cho Như Lai nghĩa rằng “ Ta có thuyết pháp ”. Ông chớ nghĩ như vậy. Bởi vì sao ? Vì nếu người nào nói rằng : Như Lai có thuyết pháp tức là chê Phật, không hiểu được lời ta nói. Tu Bồ Đề, thuyết pháp mà không có pháp nào để thuyết, đó gọi là thuyết pháp .
Người tu trong quy trình làm đệ tử Phật đã quy y Tam bảo, thọ trì ngũ giới cấm, tu Bát quan trai, tu thập thiện tức là đã học giáo lý của Phật rồi đó. Ngoài ra còn phải nghiên tầm giáo lý Phật, học Phật học cơ bản, trau dồi một số ít kiến thức và kỹ năng Phật lý để có cơ sở nhận định và đánh giá đâu là chánh, đâu là tà, đa phần là học giáo lý Tam huệ, Tam vô lậu học, ngũ thừa giáo để tiến tu .
Quá trình học Phật pháp đừng để giáo pháp, ngôn từ, từ ngữ Phật học làm bạn bội thực, tức là dùng Phật pháp phải tiêu hóa tiến triển, biết vận dụng giáo pháp Phật vào đời sống hằng ngày, hạnh nguyện phát sáng, đạo từ viên dung. Sự hiểu biết Phật pháp cần có cơ sở tiến triển thật sự để cảm thấy không lờn pháp, lặp đi lặp lại nhiều lần như “ con két biết nói tiếng người mà không làm được việc người ”. Không nên xem giáo pháp Phật như một cơ sở triết học, xem giáo lý Phật là nơi điều tra và nghiên cứu dịch thuật, phát hành kinh doanh … Nếu bạn không vướng mắc những điều trên thì bạn vẫn đọc kinh nhiều theo lời khuyên để tinh tấn tu hành .
Phát hiện cuốn kinh Di Đà thời Tự Đức dưới chân tượng Phật
Phật tử cần thông suốt giáo lý
Theo nhận định và đánh giá của 1 số ít luận giải trong “ Đường về cõi tịnh ”, pháp ngữ của Ngẫu Ích Đại sư thì thời mạt pháp, Phật pháp dần đi đến diệt trừ, tổng thể tầm cỡ dần biến mất. Vì sao vậy ? Vì chúng sinh thiếu phước báu, tội nghiệp sâu nặng, không có nhân duyên để xem tầm cỡ. Chẳng cần phải nói tương lai, hiện giờ đây số người không có mắt, tay và những bệnh tật, nên một chữ trong kinh cũng không thấy. Thật là nghiệp chướng làm cho chướng ngại, đây chính là mạt pháp. Người có mắt thì không thấy và hiểu Phật pháp rõ ràng .
Ở thời mạt pháp những tầm cỡ lần tiêu diệt hết, tiên phong là Kinh Lăng Nghiêm, sau đó đến những tầm cỡ khác, sau cuối là Kinh A Di Đà. Bộ Kinh A Di Đà này sẽ trụ ở đời hơn một trăm năm để độ toàn bộ chúng sinh. Đến hết thời hạn đó, Kinh A Di Đà cũng diệt mất, chỉ còn câu hồng danh sáu chữ “ Nam Mô A Di Đà Phật ” trụ ở đời một trăm năm nữa để độ tổng thể chúng sinh. Qua một thời hạn chỉ còn lại câu hồng danh bốn chữ “ A Di Đà Phật ” lại trụ ở đời một trăm năm nữa độ thoát vô số chúng sinh. Cuối cùng bốn chữ “ A Di Đà Phật ” cũng diệt mất luôn. Phật pháp đến lúc này hoàn toàn có thể nói là trọn vẹn diệt trừ ( Đường về cõi tịnh )
Theo pháp ngữ của Ngẫu Ích Đại sư cũng nhận định và đánh giá : Ngay đến thời diệt pháp, Phật cũng tiên liệu pháp chỉ còn 4 chữ “ A Di Đà Phật ”. Nhưng 4 chữ ấy chính là sự “ gói gọn ” của pháp giới. ” Niệm A Di Đà Phật đến thuần thục thì những giáo lý chí cực của Tam tạng mười hai bộ kinh cũng đều nằm trong ấy cả. Một ngàn bảy trăm công án, mấu chốt hướng thượng cũng nằm trong ấy cả. Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, tam tụ tịnh giới đều nằm trong ấy cả ” .
Có nhân duyên thì những bạn vẫn tu học Phật pháp không có gì trở ngại hay phải nghĩ suy .
Người không có phương tiện đi lại học Phật pháp
Bạn ơi ! Kinh Phật thật là quý báu, là một ngôi trong ba ngôi Tam bảo, vừa là tâm tông của ba đời chư Phật, cũng vừa là hương hoa sắc tố truyền giáo của đức Phật. Làm phật tử sống bên cạnh cuộc sống là không dễ tu chút nào mà những bạn tu được bên cạnh mái ấm gia đình, đó là điều cao quý vô cùng. Bạn không hề không học giáo lý Phật học, bạn không hề không thông giáo lý. Bạn không hề không có quy trình tinh chuyên tu hành. Tuy nhiên, đời sống làm phật tử học Phật của bạn phải có thời dụng biểu phân định rõ ràng việc làm đời việc đạo, những khi nào tu, khi nào thao tác nhà, việc xã hội thì không có gì phải lo âu việc đúng sai .
Vấn đề Phật học, học là hiểu, hằng ngày những lúc rỗi rảnh cũng cần phải đọc học kinh Phật để tu, học giáo lý Phật để mở mang trí tuệ. Học là học nhưng cũng không nên quá cố chấp câu nệ vào kinh mà sinh những bệnh chúng sinh khó chữa trị .
Làm Phật tử thuần túy, bạn phải thật sự vững vàng trong phật sự, hộ trì Tam bảo. Sự hộ trì có nhiều nghĩa : Một là cúng dường, cung cấp dưỡng nuôi chư tăng ni truyền trì giáo pháp Phật ; hai là siêng năng tu hành ; ba là lập hạnh phật tử làm tiêu biểu vượt trội cho mọi người, khuyến khích mọi người vào đạo, quy y làm đệ tử đức Phật .
Kinh là lời dạy Thế Tôn
Ba ngôi quý báu linh hồn Phật gia
Chúng sinh quốc tế ta bà
Phải thông giáo lý Phật đà khẩu tuyên
Hòa thượng Thích Giác Quang
Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp