Kinh Phật cầu cho người hấp hối

Kinh Phật cầu cho người hấp hối: Kinh này dịch từ bộ Tăng Nhất A Hàm của tạng Hán, kinh số 8, phẩm 51. Tăng Nhất A Hàm là kinh số 125 của tạng kinh Đại Chính, do thầy Tăng Già Đề Bà dịch vào cuối thế kỷ thứ tư.

Thực tập quán chiếu để thấy được tính cách không sinh, không diệt, không tới, không đi, không có, không không, v.v … của thực tại, ta hoàn toàn có thể vượt được sự sợ hãi, và ngồi bên giường người hấp hối ta hoàn toàn có thể hướng dẫn cho người bệnh thiết lập sự an bình trong khung hình và tâm hồn, giúp người ấy buông bỏ sầu khổ, sợ hãi và thoát hóa một cách an nhiên. Hành giả hoàn toàn có thể tìm hiểu thêm kinh Anathapindikovada, kinh số 143 của Trung Bộ ( Majjhima Nikàya ) và kinh số 28 của bộ Trung A Hàm ( 26, tạng kinh Đại Chính ) .

KINH ĐỘ NGƯỜI HẤP HỐI
Thích Nhất Hạnh dịch

Đây là những điều tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà gần thành Xá Vệ.

Một hôm trưởng giả Cấp Cô Độc bị bệnh nặng. Đại đức Xá Lợi Phất được báo tin, liền tìm đại đức A Nan và nói :
“ Sư đệ nên cùng ta đi thăm cư sĩ Cấp Cô Độc. ”
Đại đức A Nan khoác áo, cầm bát cùng đi vào thành Xá Vệ để khất thực với đại đức Xá Lợi Phất. Hai vị tuần tự đi từng nhà cho đến khi tới nhà trưởng giả Cấp Cô Độc thì ghé vào thăm. Ngồi trên ghế, đại đức Xá Lợi Phất hỏi trưởng giả Cấp Cô Độc :
“ Bệnh tình của cư sĩ thế nào ? Có tăng có giảm gì không ? Những đau đớn trong khung hình cư sĩ có từ từ bớt đi chút nào không hay là lại ngày càng tăng ? ”
Trưởng giả Cấp Cô Độc vấn đáp :
“ Thưa những đại đức, bệnh tình của con không thấy thuyên giảm. Những đau đớn trong khung hình đã không bớt mà còn càng lúc càng tăng. ”
Xá Lợi Phất bảo :
“ Bây giờ đây cư sĩ nên cùng với chúng tôi thực tập quán niệm về Phật, về Pháp và về Tăng. Chúng ta hãy quán niệm như sau :
– Phật là Như Lai, là bậc giác ngộ chân chính và cao tột. Người là bậc Minh Hạnh Túc, Người là bậc Thiện Thệ, Người là bậc Thế Gian Giải, Người là bậc Vô Thượng Sĩ, Người là bậc Điều Ngự Trượng Phu, Người là bậc Thầy của Trời và người, Người là Phật, Người là đức Thế Tôn .
– Pháp là giáo nguyên do Như Lai chỉ dạy, rất thâm diệu, rất đáng tôn kính, rất đáng quý trọng, không có đạo lý nào sánh bằng. Pháp đó là con đường thực tập của những bậc hiền thánh .
– Tăng là đoàn thể tu học dưới quyền hướng dẫn của Như Lai, trên thuận dưới hòa, không có tranh chấp, pháp nào cũng tu tập thành tựu. Đoàn thể tôn nghiêm thánh thiện này thành tựu được Giới, thành tựu được Định, thành tựu được Tuệ, thành tựu được Giải Thoát. Tăng là phước điền vô thượng của trần gian. ”
“ Này cư sĩ, thực tập quán niệm như vậy về Phật, về Pháp và về Tăng thì công đức không hề nghĩ lường được. Quán niệm như thế thì tàn phá được tội chướng và phiền não, thu hoạch được những hiệu quả ngọt ngào tươi mát như cam lộ. Vị thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào biết quán niệm về Tam Bảo thì chắc như đinh sẽ không khi nào đọa vào ba con đường ác là âm ti, ngạ quỷ và súc sinh, trái lại sẽ được sinh ra trong những thực trạng tốt ở cõi trời và cõi người. ”
“ Bây giờ đây tất cả chúng ta hãy quán niệm như sau về sáu giác quan :
– Con mắt này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào con mắt này .
– Cái tai này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào cái tai này .
– Cái mũi này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào cái mũi này .
– Cái lưỡi này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào cái lưỡi này .
– Thân thể này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào thân thể này .
– Ý căn này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào ý căn này. ”
“ Cư sĩ quán niệm tiếp như sau về sáu đối tượng người tiêu dùng giác quan :
– Những hình sắc này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào những hình sắc này .
– Những âm thanh này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào những âm thanh này .
– Những mùi hương này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào những mùi hương này .
– Những vị nếm này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào những vị nếm này .
– Những xúc chạm này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào những xúc chạm này .
– Những ý tưởng sáng tạo này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào những sáng tạo độc đáo này. ”
“ Cư sĩ hãy quán niệm tiếp như sau về sáu thức :
– Cái thấy này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào cái thấy này .
– Cái nghe này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào vào cái nghe này .

– Cái ngửi này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào cái ngửi này.

– Cái nếm này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào cái nếm này .
– Cái xúc chạm này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào cái xúc chạm này .
– Cái ý thức này không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào cái ý thức này. ”
“ Cư sĩ hãy quán niệm tiếp như sau về sáu yếu tố trong khung hình :
– Yếu tố đất không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào yếu tố đất .
– Yếu tố nước không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào yếu tố nước .
– Yếu tố lửa không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào yếu tố lửa .
– Yếu tố gió không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào yếu tố gió .
– Yếu tố khoảng trống không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào yếu tố khoảng trống .
– Yếu tố tâm thức không phải là tôi, tôi không bị kẹt vào yếu tố tâm thức. ”
“ Cư sĩ hãy quán niệm tiếp như sau về năm uẩn :
– Hình sắc không phải là tôi, tôi không bị số lượng giới hạn bởi hình sắc .
– Cảm thọ không phải là tôi, tôi không bị số lượng giới hạn bởi cảm thọ .
– Tri giác không phải là tôi, tôi không bị số lượng giới hạn bởi tri giác .
– Tâm hành không phải là tôi, tôi không bị số lượng giới hạn bởi tâm hành .
– Nhận thức không phải là tôi, tôi không bị số lượng giới hạn bởi nhận thức. ”
“ Cư sĩ hãy quán niệm như sau về thời hạn :
– Quá khứ không phải là tôi, tôi không bị số lượng giới hạn bởi quá khứ .
– Hiện tại không phải là tôi, tôi không bị số lượng giới hạn bởi hiện tại .
– Tương lai không phải là tôi, tôi không bị số lượng giới hạn bởi tương lai. ”
“ Này cư sĩ ! Các pháp đều do nhân duyên sinh khởi và do nhân duyên mà hoại diệt ; thật ra tự tính của những pháp là không sanh cũng không diệt, không tới cũng không đi. Khi con mắt phát sinh, nó phát sinh, không từ đâu tới cả ; khi con mắt hoại diệt, nó hoại diệt, không đi về đâu cả. Con mắt không phải là không trước khi phát sinh, con mắt không phải là có trước khi hoại diệt. Tất cả những pháp đều do nhân duyên quy tụ mà thành. Nhân duyên khá đầy đủ thì con mắt xuất hiện, nhân duyên thiếu vắng thì con mắt vắng mặt. Điều này cũng đúng với tai, mũi, lưỡi, thân và ý ; hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm và sáng tạo độc đáo ; cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, xúc chạm và ý thức, và cũng đúng với sáu yếu tố, năm uẩn và thời hạn .
Trong năm uẩn không có gì hoàn toàn có thể được gọi là ta, là người, là thọ mạng. Không thấy được sự thực đó tức là vô minh. Vì vô minh mà có vọng động, vì có vọng động mà có vọng thức, vì vọng thức mà có sự phân biệt chủ thể và đối tượng người tiêu dùng nhận thức, vì có chủ thể và đối tượng người dùng nhận thức mà có sự phân biệt sáu căn và sáu trần, vì có sự phân biệt sáu căn và sáu trần mà có xúc chạm, vì có xúc chạm mà có cảm thọ, vì có cảm thọ mà có tham ái, vì có tham ái mà có vướng mắc, vì có vướng mắc mà có hiện hữu rồi sinh tử, khổ não và u sầu không hề kể xiết. ”
“ Cư sĩ ! Ông đã quán niệm để thấy được rằng mọi pháp đều do nhân duyên mà phát hiện và không có tự tánh riêng không liên quan gì đến nhau. Đó gọi là phép quán niệm về KHÔNG, một phép quán niệm cao siêu vào bậc nhất. ”
Thực tập đến đây, trưởng giả Cấp Cô Độc khóc, nước mắt chan hòa. Đại đức A Nan hỏi ông :
“ Cư sĩ, vì sao mà ông khóc ? Ông thực tập không thành công xuất sắc sao ? Ông có hụt hẫng gì không ? ”
Trưởng giả Cấp Cô Độc vấn đáp :
“ Thưa đại đức A Nan, con không hụt hẫng gì hết, con thực tập rất thành công xuất sắc. Con khóc là vì con cảm động quá. Con có cơ duyên phụng sự Phật và những bậc cao đức từ lâu rồi mà con chưa từng được nghe một giáo pháp nào vi diệu, mầu nhiệm và quý báu như giáo pháp thời điểm ngày hôm nay con được đại đức Xá Lợi Phất trao truyền. ”
Lúc ấy đại đức A Nan bảo trưởng giả Cấp Cô Độc :

“Cư sĩ nên biết giáo pháp này các vị khất sĩ và nữ khất sĩ được nghe Phật giảng dạy rất thường.”

Trưởng giả Cấp Cô Độc thưa :
“ Bạch đại đức A Nan, xin đại đức bạch lại với đức Thế Tôn để giới cư sĩ chúng con cũng có dịp được nghe những giáo pháp vi diệu như giáo pháp này. Có những người cư sĩ không có đủ sức nghe, hiểu và hành trì những giáo pháp như giáo pháp này nhưng cũng có những người cư sĩ có đủ sức nghe, hiểu và hành trì những giáo pháp thâm diệu ấy. ”
Nghe và thực tập với hai thầy xong, cư sĩ Cấp Cô Độc cảm thấy trong người nhẹ nhàng, thanh thoát ; ông phát được tâm Vô Thượng. Các đại đức Xá Lợi Phất và A Nan vừa từ giã ra về thì cư sĩ Cấp Cô Độc mệnh chung và sinh lên cõi trời Tam Thập Tam Thiên .

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp