Giải mã ý nghĩa của tượng đức Quan Âm nghìn tay nghìn mắt
Mục lục
Ý nghĩa trọng yếu nhất của hình tượng Quan Thế Âm
Quan Âm Bồ tát dùng cành dương rưới nước cam lồ, biểu trưng cho lòng nhẫn nhục nhu nhuyễn. Ảnh minh họa
Trước khi tìm hiểu và khám phá về hình tượng Phật bà nghìn tay nghìn mắt, cần phải hiểu ý nghĩa trọng điểm nhất của Quan Âm Bồ tát trong đạo Phật. Khi gia nhập vào nước ta, hình tượng Quan Âm Bồ tát thường được thấy với tay trái cầm bình cam lồ, tay phải cầm cành dương liễu.
Kinh Phật có câu “Nam mô thanh tịnh bình thùy dương liễu Quan Âm như lai cam lồ sái tâm nguyện”. Ở đây, “Thanh tịnh bình” là bình thanh tịnh, “thùy dương liễu” là cành dương liễu rủ xuống, “Quan Âm Như Lai cam lồ sái tâm” là nước cam lồ của đức Quan Âm rưới lên tâm. Ý nghĩa nguyên câu ấy là bình thanh tịnh đựng nước cam lồ, nhờ cành dương liễu rưới khắp làm cho cái tâm của nhân gian được mát mẻ.
Bài liên quan
Những bức hình đẹp về Quan Thế Âm Bồ TátTrong bình thanh tịnh chứa nước cam lồ, nước cam lồ biểu trưng cho lòng từ bi. Nước này rưới tới đâu là chan rải tình thương tới đó, làm thoáng mát êm dịu mọi khổ đau của chúng sinh. Nhưng cần hiểu rằng nước cam lồ không phải bình nào cũng đựng được, chỉ hoàn toàn có thể chứa trong “ bình thanh tịnh ”. Đây là ý nghĩa rất tế nhị của Phật giáo. Bình thanh tịnh chính là sự giữ giới của người tu hành cũng như phật tử. Ví dụ một cách dễ hiểu, người thao tác sát sinh không hề có “ bình thanh tịnh ”, người làm những việc phạm pháp cũng không hề có “ bình thanh tịnh ”. Vì thế, đức Quan Âm Bồ tát rưới nước cam lồ khắp nhân gian, không chừa một ai, không quên một ai, nhưng chỉ những người có “ bình thanh tịnh ”, có lòng từ bi thì mới nhận được thứ nước ngọt lành của nhà Phật. Còn một vật nữa là cành dương liễu. Đây chính là hình tượng của sự nhẫn nhịn. Bởi việc tu hành cũng khó khăn vất vả như đi trong cơn bão lớn. Những cành cây cứng mạnh lại dễ gãy đổ. Cành dương liễu tuy yếu mềm nhưng dẻo dai, gió chiều nào cũng thuận theo nên khó gãy. Kinh Phật cho rằng muốn đem nước cam lồ ban rải cho chúng sinh được an vui mà thiếu đức nhẫn nhục thì khó triển khai được. Vì vậy Quan Âm Bồ tát dùng cành dương rưới nước cam lồ, biểu trưng cho lòng nhẫn nhục nhu nhuyễn. Thiếu cành dương không rưới nước cam lồ được. Cũng vậy, có lòng từ bi mà thiếu đức nhẫn nhục thì lòng từ bi đó không lâu bền hơn, không đem đến quyền lợi viên mãn cho chúng sinh. Cho nên đức nhẫn nhục, lòng từ bi luôn song song với nhau, thiếu một đức thì đức kia không hề thực thi.
Truyền thuyết về đức Quan Âm nghìn tay nghìn mắt
Hình tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt bắt nguồn từ sự tích Phật giáo của Ấn Độ về công chúa Diệu Thiện. Ảnh minh họa
Phật giáo trong mỗi quy trình tiến độ tăng trưởng đều không hề tách rời với toàn cảnh lịch sử vẻ vang. Vì thế, theo sự tăng trưởng của lịch sử dân tộc, hình tượng Quan Âm Bồ tát cũng có những biến hóa để tương thích với trong thực tiễn. Đức Phật bà nghìn tay nghìn mắt Open xuất phát từ nhu yếu của phật tử mong được thấy một đức Quan Âm thần thông hơn, không riêng gì nhẫn nhịn mà còn ra tay cứu vớt chúng sinh thoát khỏi trầm luân bể khổ. Hình tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt bắt nguồn từ sự tích Phật giáo của Ấn Độ về công chúa Diệu Thiện. Tương truyền từ rất lâu rồi, có một vị vua mãi vẫn không có con để nối truyền ngôi vị. Sau nhiều ngày lễ bái cầu nguyện, thay vì sinh được con trai thì hoàng hậu lại hạ sinh 3 người con gái đẹp kiều diễm thướt tha. Nhà vua đặc biệt quan trọng yêu quý công chúa thứ 3 có tên là Diệu Thiện và có dự tính nhường ngôi cho khi nàng lấy chồng. Tuy nhiên, công chúa không tuân theo tâm nguyện của vua cha mà quyết định hành động xuất gia để tu hành.
Bài liên quan
Có phải thường niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ sinh được con theo ý muốn?Nhà vua khuyên răn bao nhiêu bà cũng cương quyết không chịu. Nhà vua bèn hạ lệnh cho những trụ trì trong chùa phải dùng đủ cách để đày đọa công chúa, những mong nàng nản chí mà quay về. Lệnh vua không ai dám cãi, công chúa phải làm đủ thứ việc nặng nhọc như gánh nước bửa củi … nhưng nàng vẫn vui tươi đồng ý không hề oán thán. Quan thế âm Bồ Tát Không lay chuyển được con gái, nhà vua quá tức giận bèn ra lệnh đốt chùa, thà giết chết con chứ không được cho phép con trái mệnh mình. Tương truyền trong khói lửa mịt mù, công chúa Diệu Thiện được một con hổ trắng cứu thoát, chạy tuốt sang tận Nước Ta, vào tu ở động Hương Tích ( Ngày nay, chùa Hương vẫn có di tích lịch sử thờ Bà chúa Ba, chính là Quan Âm Diệu Thiện ). Bấy giờ, nương theo thần thông của nhà Phật, công chúa phát thệ xuống 18 tầng âm ti để cứu vớt vô số chúng sinh đang chìm đắm trong đau khổ. Trở về dương gian, bà liên tục tu luyện trong 9 năm và đã chứng đắc Phật pháp nhiệm màu. Lúc này, ở quê nhà, vua cha của bà bị bệnh nặng, những thầy thuốc đều bó tay. Công chúa Diệu Thiện lập tức trở về để cứu cha. Biết cha bị ngạ quỷ làm hại, bà khảng khái khoét mắt, xẻo thịt tay chân để hiến dâng, cứu cha thoát khỏi cái chết. Phật tổ cảm động trước lòng thành của công chúa Ba đã độ trì cho bà thành Phật, lại ban cho bà nghìn tay nghìn mắt để cứu vớt trần gian. Trở thành Phật, đức Quan Âm Diệu Thiện trở lại giáo hóa cho cha mẹ và thần dân được tỉnh ngộ về vô lượng công đức Phật. Tuy mang nhiều sắc tố thần thoại cổ xưa nhưng truyền thuyết thần thoại về Quan Âm nghìn tay nghìn mắt vẫn mang khá đầy đủ những ý nghĩa của việc tu Phật. Là một vị công chúa được vua cha yêu quý muốn truyền ngôi, bà đáng ra sẽ được hưởng mọi lạc thú của trần gian. Nhưng tâm Phật đã cảm hóa, khiến bà muốn được tu hành, giữ giới. Ở tiến trình đầu, khi vua cha dùng đủ mọi thủ đoạn để đày đọa, bà vẫn an nhiên không hề sờn lòng tu tập. Tiếp đó, khi vua cha muốn hại chết con, Phật pháp đã ra tay cứu vớt để bà được sống. Thời điểm này, với sự nhẫn tâm của vua cha, tình cha con hay hiểu rộng hơn là mối liên hệ với cõi người của công chúa Ba đã trọn vẹn chấm hết. Tuy nhiên, bà vẫn phát thệ đi xuống 18 tầng âm ti để cứu vớt chúng sinh. Cuối cùng, thử thách khó khăn vất vả nhất của quy trình tu hành chính là cơn bệnh nặng của vua cha. Với một người cha đã nhẫn tâm muốn hại chết mình, thời gian này, bà trọn vẹn hoàn toàn có thể lựa chọn cách bỏ mặc. Nhưng một lần nữa, tâm Phật lại thắng lợi. Từ phương xa, bà trở về, sẵn sàng chuẩn bị khoét mặt, chặt tay chân để cứu sống người đã định hại chết mình. Được độ thành Phật bà lại có cả nghìn tay nghìn mắt cứu vớt chúng sinh, đó phải chăng là chính quả của con đường tu hành gian truân trong cõi người .
Hình tượng thuần Việt của đức Phật bà
Trong quan niệm của đạo Phật, con số một nghìn biểu trưng cho sự viên mãn, nên hình tượng của Phật bà cũng có đủ nghìn tay nghìn mắt. Về tổng thể, trong các đền chùa, Phật bà thường được tạo tác với 40 tay lớn và 960 tay nhỏ, trong mỗi lòng bàn tay đều có một con mắt. Ảnh minh họa
Hình tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt mang trên mình rất nhiều phép thuật. Ngoài hai bàn tay giữ ấn quyết nhà Phật, những tay còn lại của Phật bà đều cầm những pháp bảo để thuần hóa quỷ dữ hoặc cứu vớt chúng sinh. Có thể ví dụ như : cây gậy hành hương, mũi tên, mặt trăng, hoa sen, bình cam lồ, nhành dương liễu, mây ngũ sắc, kiếm, hoa sen trắng, sọ người, gương soi, chùm nho, cây kích, kinh văn, thủ ấn, đinh ba, tràng hạt, thiên cung, phất trần, thiền trượng, cung tên, hoa sen đỏ … Trong tín ngưỡng dân gian, Phật bà nghìn tay nghìn mắt vừa hiền hòa vừa uy nghi, thiện nam thiện nữ gặp bà thì hoan hỉ ; kẻ vô lương, quỷ sứ ma quái gặp bà thì sợ hãi.
Bài liên quan
Quan Âm Bồ Tát trong Tây Du Ký năm 1986 giờ ra sao?Trong ý niệm của đạo Phật, số lượng một nghìn biểu trưng cho sự viên mãn, nên hình tượng của Phật bà cũng có đủ nghìn tay nghìn mắt. Về tổng thể và toàn diện, trong những đền chùa, Phật bà thường được tạo tác với 40 tay lớn và 960 tay nhỏ, trong mỗi lòng bàn tay đều có một con mắt. Kinh Phật lý giải rằng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt chính là “ lục căn diệu dụng ”, còn có ý nghĩa là tri và hành hợp nhất. Hiểu một cách đơn thuần, Phật bà có bao nhiêu bàn tay là có bấy nhiêu con mắt ; có biết là có làm, có làm là có biết. Nếu chỉ có một trăm tay nhưng có tới nghìn mắt thì chỉ là biểu lộ cho việc biết nhiều làm ít, không quyền lợi gì cho chúng sinh trái lại, nếu có nghìn tay nhưng chỉ trăm mắt thì làm nhiều, làm một cách nhiệt tình, nhưng do không biết khá đầy đủ nên đem lại tổn hại cho chúng sinh. Giáo lý nhà Phật đã biểu lộ một cách sinh động và đầy hiện thực con đường tu hành trải qua hình tượng Phật bà này. Nếu đi đúng con đường ấy thì năng lực làm quyền lợi an nhàn cho chúng sinh là rất lớn. Trong 1 số ít tạo tác ở chùa chiền Nước Ta, một lần nữa lại thấy sự phối hợp chỉ có ở nước ta, mang đặc thù thuần Việt. Đó là sự tích hợp của hai hình tượng : Quan Âm nghìn tay nghìn mắt và Thập nhất Diện Quan Âm. Trong hình tượng này, có 3 tầng tạo tác. Quan Âm nghìn tay nghìn mắt ngự trên tòa sen, tay cầm ấn quyết và nhiều pháp bảo như thông thường. Ở phần đầu của Phật bà, sẽ thấy hình ảnh của Thập nhất Diện Quan Âm. 11 khuôn mặt kể cả khuôn mặt chính ( hướng về phía trước ) đều có những biểu cảm khác nhau : trang nghiêm, dũng mãnh, uy hùng, đượm buồn, mừng vui … Điều này biểu lộ thần thông của Phật bà, tùy từng đối tượng người tiêu dùng là phật tử hay quỷ dữ, tùy chuyện buồn hay chuyện vui mà thị hiện với nhiều trạng thái khác nhau. Phía trên cùng của Phật bà còn có tượng A Di Đà, bộc lộ sự tôn kính Phật tổ, dù thần thông quảng đại những vẫn hành vi theo sự kiểm soát và điều chỉnh của Phật pháp.
Bài liên quan
Đặt tượng Quan Âm Bồ Tát an lạc cho dân làng cũng gian nan vất vảTựu trung lại, hàng loạt tạo tác đức Quan Âm này làm ra 3 tầng, tượng trưng cho toàn diện và tổng thể pháp lực, có công suất diệu dụng phá vỡ ba chướng : nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng. Kinh Phật ý niệm đây chính là đường lối chính để giải tỏa khổ ải cho kiếp nhân gian.
Như vậy, sự hợp nhất giữa hình tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm và Thập Nhất Diện Quan Âm (trong công năng tiêu trừ ba chướng) đã thể hiện đầy đủ sức sáng tạo văn hóa tinh tế của người Việt trong tín ngưỡng.
Một bài học kinh nghiệm đầy tình người nhưng rất trí tuệ đã được đạo Phật dạy dỗ trải qua hình tượng của vị Phật bà này. Có nghìn tay để làm và cũng phải có nghìn mắt để “ biết ”. Đạo lý từ ngàn xưa đó trải qua bao thăng trầm, biến thiên của lịch sử dân tộc nhưng vẫn còn nguyên giá trị đến thời nay. Đó là con người cần phải “ biết ” và “ làm ” ( có nghĩa là tri phải song song với hành ). Trong bất kể một nghành nào của đời sống, có “ biết ” thì mới làm tốt, không “ biết ” mà cứ cố làm sẽ chỉ khiến cho mọi việc trở nên phức tạp. Điều này thiết thực hơn “ nói ” và “ làm ” và càng quyền lợi hơn nói thì hay nhưng lại không làm gì cả.
Nguồn: Việt Văn (PLVN)
Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp