KINH KIM CANG GIẢNG GIẢI – HT THÍCH THANH TỪ
LỜI ĐẦU SÁCH
Bạn đang đọc: KINH KIM CANG GIẢNG GIẢI – HT THÍCH THANH TỪ
Trí tuệ Bát-nhã thấy đúng lý Trung đạo, không mắc kẹt ở hai bên có và không v.v … Vì biết rõ vạn vật đều do nhân duyên sanh, nên không có chủ thể thì làm gì thật có được ; đủ duyên vạn vật sanh thì làm thế nào nói thật không ? Như kinh nói “ chúng sanh không phải chúng sanh, ấy gọi là chúng sanh … quốc tế không phải quốc tế, ấy gọi là quốc tế … ”. “ Không phải chúng sanh ”, vì duyên hợp không có chủ thể. “ Gọi là chúng sanh ”, vì giả tướng giả danh hiện tiền làm thế nào phủ nhận được. To như quốc tế cũng là duyên hợp không chủ thể, nên nói “ không phải quốc tế ” ; đơn cử chúng sanh đang sống nương nhờ trên quốc tế thì giả tướng quốc tế làm thế nào chối bỏ được, nên nói “ gọi là quốc tế ”. Thế mà, có một số ít người học Phật nông nổi nói “ Bát-nhã chấp không ”. Quả thật họ là người rất đáng thương, học Phật mà hoảng sợ trí tuệ thì khi nào được giác ngộ .
Bát-nhã có hiệu quả, có năng lực phá sạch mọi kiến chấp. Người học Phật cần yếu phải nhờ nó để dẹp tan tổng thể kiến chấp sai lầm đáng tiếc cố hữu, đã lôi kéo mình vào vòng trầm luân muôn vạn kiếp rồi. Nếu không tận dụng cây kiếm Bát-nhã chặt đứt mọi xiềng xích kiến chấp, tất cả chúng ta khó mong thoát khỏi luân hồi. Diệu dụng kinh Kim Cang là ở đây vậy .
Đọc toàn quyển kinh Kim Cang Giảng Giải, tất cả chúng ta thấy Phật phá sạch không còn sót một kiến chấp nào. Đây là quả bom, là khối chất nổ mạnh làm nổ tung hai ngọn núi kiến chấp của chúng sanh. Có 1 số ít người bảo rằng “ tụng kinh Kim Cang nóng ”. Họ sợ tụng kinh Kim Cang, vì không chịu nổi sức công phá quyết liệt của kinh này. Ngược lại, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn khuyên người tu thiền nên tụng kinh Kim Cang và chính Ngài cũng đem kinh Kim Cang giảng cho Lục tổ Huệ Năng nghe, nhân đó Lục Tổ ngộ đạo. Chúng tôi giảng kinh Kim Cang tại Thiền viện Thường Chiếu và những Thiền sinh ghi ra từ băng nhựa. Đọc qua bản ghi xong, chúng tôi đồng ý chấp thuận cho in ra để được nhiều người xem. Tuy nhiên, không sao tránh khỏi vài điều sơ sót, xin quí vị cảm thông cho .
THÍCH THANH TỪ
Viết tại Thiền viện Thường Chiếu vào mùa An cư năm 1992
GIẢNG ĐỀ KINH
Bản giảng này là y theo bản dịch của ngài Tam Tạng pháp sư Cưu-ma-la-thập, vì bản này được công nhận là văn chương lưu loát và thâm thúy hơn hết. Nếu xem lại bản của ngài Nghĩa Tịnh cũng như của ngài Huyền Trang, tất cả chúng ta thấy cả hai bản dịch đều nặng về văn nghĩa. Ngài La-thập không kẹt trong văn nghĩa, chỉ cốt làm thế nào cho ta nhận được lời Phật dạy, ý Phật nói, nên văn dịch của Ngài thâm thúy và gẫy gọn dễ hiểu. Thái tử Chiêu Minh đời Lương, khi đọc Kim Cang, lãnh hội được ý chỉ nên chia quyển kinh làm ba mươi hai phần để cho người đọc dễ nhận hiểu .
ĐỀ KINH : Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật .
Kim Cang là một chất cứng hay phá những thứ khác mà những sắt kẽm kim loại khác không phá được nó. Bát-nhã là âm theo tiếng Phạn. Ba-la-mật là âm theo tiếng Phạn. Kinh là chữ Hán. Đề kinh gồm cả chữ Hán lẫn chữ Phạn. Người Nước Trung Hoa khi dịch kinh, chữ nào dịch được thì dịch, chữ nào không hề dịch hết nghĩa thì để nguyên âm tiếng Phạn. Bát-nhã nghĩa chánh là trí tuệ .
Ba-la-mật hoặc dịch là “ đến bờ kia ” hoặc dịch là “ cứu kính viên mãn ”. Trí tuệ được cứu kính viên mãn gọi là Bát-nhã ba-la-mật, vì nếu chỉ nói “ trí tuệ ” e có lầm lẫn. Ở trần gian người khôn ngoan mưu trí cũng gọi là người có trí tuệ, thế nên từ ngữ “ Trí tuệ Bát-nhã ” là để giản trạch cho đừng lầm với trí tuệ của người trần gian. Trí tuệ Bát-nhã là trí tuệ thấu được lý thật, thấy được Thể chân thực của những pháp, không còn kẹt trong những kiến chấp, trong những cái nhìn thiên lệch chưa thấu đáo. Do thấu được lẽ thật, nên trí tuệ này khi đến chỗ cứu kính chẳng những phá được tổng thể tà thuyết ngoại đạo mà còn dẹp hết những mê lầm chấp trước của mọi người. Cho nên năng lực công phá đó vượt hơn tổng thể, dụ như kim cương là chất cứng nhất hoàn toàn có thể phá vỡ những sắt kẽm kim loại khác mà những thứ khác không phá hoại được nó. Kim Cang Bát-nhã ba-la-mật là một trí tuệ vững chãi, vững chắc phá dẹp tổng thể tà thuyết ngoại đạo làm cho tất cả chúng ta sạch hết những chấp trước sai lầm đáng tiếc, những mê mờ đen tối để đến bờ giải thoát, giác ngộ .
Kinh là những lời giảng dạy của đức Phật góp lại thành bộ. Kinh là Khế kinh tức là khế lý và khế cơ. Tất cả những kinh Phật đều phải đủ hai nghĩa khế lý khế cơ, nghĩa là vừa hợp chân lý, vừa hợp nền tảng người. Thiếu một trong hai điều kể trên thì chưa gọi là kinh được, vì hầu hết của đạo Phật cốt giáo hóa chúng sanh giác ngộ, thấy được lẽ thật ( đúng chân lý ) và chúng sanh tin nhận được ( hợp căn nguyên ). Khế cơ và khế lý còn hoàn toàn có thể hiểu là tùy duyên và không bao giờ thay đổi. Kinh Phật nói ngàn đời cũng không sai, đó là không bao giờ thay đổi ; nhưng vào mỗi thời theo căn cơ mà nói, hoặc thấp hoặc cao, đó là tùy duyên .
TRÍCH ĐOẠN :
ĐOẠN 1 : PHÁP HỘI NHÂN DO
ÂM : PHÁP HỘI NHÂN DO
Như thị ngã văn : Nhất thời Phật tại Xá-vệ quốc, Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên dữ đại Tỳ-kheo chúng thiên nhị bách ngũ thập nhân câu. Nhĩ thời Thế Tôn thực thời, trước y trì bát, nhập Xá-vệ đại thành khất thực. Ư kỳ thành trung thứ đệ khất dĩ, hoàn chí bản xứ. Phạn thực ngật, thu y bát, tẩy túc dĩ, phu tòa nhi tọa .
DỊCH : NGUYÊN DO CỦA PHÁP HỘI
Tôi nghe như vầy : Một hôm đức Phật ở nước Xá-vệ ( Sràvasti ) tại rừng Kỳ-đà ( Jeta ) trong vườn Cấp Cô Độc cùng với chúng đại Tỳ-kheo là một ngàn hai trăm năm mươi vị. Khi ấy gần đến giờ thọ trai, đức Thế Tôn đắp y mang bát vào đại thành Xá-vệ khất thực. Trong thành ấy, Ngài theo thứ lớp khất thực xong, quay trở lại nơi chúng ở. Thọ trai rồi, Ngài dẹp y bát, rửa chân, trải tòa ngồi .
GIẢNG : Đoạn này diễn đạt pháp hội Phật nói kinh Kim Cang .
Phần đầu chỉ cho lục chủng chứng tín. Sáu điều này mở màn kinh nào cũng như thế cả. Đây giống như một lối biên bản của ngài A-nan ( Ananda ) để cho thấy lời Ngài nói có giá tri thật. “ Như thị ngã văn ” là “ tôi nghe như vầy ”, chỉ cho người nghe và pháp được nghe. “ Tôi ” chỉ người nghe tức ngài A-nan. “ Như vầy ” là pháp được nghe tức là đề tài trong buổi thuyết pháp. “ Nhất thời ” chỉ thời hạn. Vì thuở xưa thời hạn mỗi nước mỗi khác do đó chỉ nói một hôm, chớ không xác lập hôm đó là mấy giờ ngày mấy tháng mấy. Phật là vị chủ tọa trong buổi nói pháp. Xá-vệ quốc, Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên là nơi Phật thuyết pháp .
Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên : Trưởng giả Cấp Cô Độc tên thật là Tu-đạt-đa ( Sudatta ), do ông hay bố thí, tương hỗ những người nghèo khó cô độc nên được gọi là Cấp Cô Độc. Ông muốn mua vườn của Thái tử Kỳ-đà để cất tinh xá thỉnh Phật đến thuyết pháp. Thái tử bảo ông đem vàng lót đầy vườn thì Thái tử sẽ bán vườn cho ông. Khi ông trải vàng gần xong, Thái tử vui tươi bảo thôi đừng chở vàng thêm nữa và Thái tử cũng xin cúng toàn bộ cây cối trong vườn cho đức Phật, do đó nên thành tên rừng Kỳ-đà vườn Cấp Cô Độc .
Chúng đại Tỳ-kheo gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị là cử tọa. Thời gian, nơi chốn và số cử tọa cho thấy bài kinh này không phải tự ý ngài A-nan nói, mà do Ngài nghe trong hội thuyết pháp gồm cả thảy một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo. Sáu điều trên đây gọi là lục chủng chứng tín, nghĩa là sáu điều làm dẫn chứng để cho tất cả chúng ta tin kinh này không phải tự ý ngài A-nan nói ra, mà chính là Ngài thuật lại buổi thuyết pháp của đức Phật. Đến phần thứ hai tả cảnh Phật sắp nói pháp .
Khi ấy là buổi sáng gần đến giờ thọ trai, đức Thế Tôn đắp y mang bát vào thành Xá-vệ khất thực. Khất thực theo thứ lớp : Nếu hàng Phật tử thỉnh thọ trai thì không cần theo thứ lớp, cứ đi thẳng đến nhà thỉnh mình. Còn khất thực theo thứ lớp, là trong xóm có nhà nghèo, nhà giàu, cứ tuần tự đến nhà thứ nhất, nếu không được cúng dường thì đến nhà thứ hai, thứ ba v.v … không phân biệt giàu nghèo đến khi được cúng dường thì về .
Thọ trai xong, xếp y, dẹp bát, rửa chân rồi, trải tòa ngồi kiết-già. Đoạn này tả lại đời sống bình dị của đức Phật, sáng đi khất thực, về ăn xong rửa bát, xếp y, rửa chân, trải tòa ngồi kiết-già, sắp trò chuyện với chúng. Đó là ý thâm sâu muốn chỉ rằng chân lý không ngoài việc thông thường để đánh tan lòng hiếu kỳ, tưởng chân lý là những gì mầu nhiệm ngoài việc thông thường. Thấy được chân lý trong việc thông thường là thấy đạo, nếu trái lại là lạc hướng .
Khi ngài Triệu Châu Tùng Thẩm hỏi ngài Nam Tuyền “ thế nào là đạo ” thì Nam Tuyền vấn đáp “ thông thường tâm thị đạo ”, nghĩa là tâm thông thường là đạo. Ông Lý Tường đến hỏi ngài Dược Sơn Duy Nghiễm “ thế nào là đạo ” Ngài bảo “ vân tại thanh thiên, thủy tại bình ”, nghĩa là mây trên trời xanh, nước trong bình. Việc thông thường này hợp với niềm tin Đại thừa .
ĐOẠN 2 : THIỆN HIỆN KHẢI THỈNH
ÂM : THIỆN HIỆN KHẢI THỈNH
Thời trưởng lão Tu-bồ-đề tại đại chúng trung, tức tùng tòa khởi, thiên đản hữu kiên, hữu tất trước địa, hiệp chưởng cung kính nhi bạch Phật ngôn :
– Hi hữu Thế Tôn ! Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ-tát, thiện phó chúc chư Bồ-tát. Thế Tôn ! Thiện nam tử, thiện nữ nhân, phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm, vân hà ưng trụ, vân hà thu phục kỳ tâm ?
Phật ngôn :
– Thiện tai, thiện tai ! Tu-bồ-đề, như nhữ sở thuyết, Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ-tát, thiện phó chúc chư Bồ-tát, nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết. Thiện nam tử, thiện nữ nhân phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm, ưng như thị trụ, như thị thu phục kỳ tâm .
– Duy nhiên, Thế Tôn ! Nguyện nhạo dục văn .
DỊCH : THIỆN HIỆN THƯA HỎI
Khi ấy trưởng lão Tu-bồ-đề ( Subhuti ) ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bày vai áo bên mặt, gối mặt quì xuống đất, chấp tay cung kính bạch Phật rằng :
– Thế Tôn ! Rất ít có, đức Như Lai khéo hộ niệm những vị Bồ-tát, khéo phó chúc những vị Bồ-tát. Bạch Thế Tôn ! Người thiện nam, người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên làm thế nào trụ, làm thế nào thu phục tâm kia ?
Đức Phật bảo :
Lành thay, lành thay ! Này Tu-bồ-đề, như lời ông nói, Như Lai khéo hộ niệm những vị Bồ-tát, khéo phó chúc những vị Bồ-tát, nay ông hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ vì ông mà nói. Người thiện nam, thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên như thế mà trụ, như thế mà thu phục tâm kia .
– Xin vâng, bạch Thế Tôn ! Con nguyện thích được nghe .
GIẢNG :
Đây là phần thưa hỏi của ngài Tu-bồ-đề. Tu-bồ-đề là một vị A-la-hán thâm hiểu lý Bát-nhã. Có chỗ dịch là Thiện Hiện, có chỗ dịch Không Sanh, có chỗ dịch Kiết Tường. Nói Tu-bồ-đề là phát âm tiếng Phạn. Trong Đại Bát-nhã dịch là Thiện Hiện, đây nói Tu-bồ-đề cũng chỉ là một vị. Thiện Hiện là khéo hiện. Ngài Tu-bồ-đề thuộc hàng trưởng lão .
Trước hết là phần nghi thức. Theo lễ nghi Ấn Độ, khi đệ tử muốn thưa hỏi Phật điều gì thì phải bày vai áo bên mặt, quì gối mặt xuống rồi chấp tay cung kính thưa hỏi. Hộ niệm : hộ là bảo lãnh, niệm là nhớ nghĩ. Phó chúc là trao dặn lại. Trước hết ngài Tu-bồ-đề tán thán Phật : Đức Thế Tôn là bậc ít có trong trần gian, Ngài thường bảo lãnh và nhớ nghĩ những vị Bồ-tát, khéo trao dặn lại những vị Bồ-tát. Tán thán Phật xong rồi, ngài Tu-bồ-đề khởi đầu thưa hỏi. Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là phát tâm cầu thành Phật .
Ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật : Giả sử có người thiện nam, thiện nữ muốn phát tâm cầu thành Phật thì phải làm thế nào để an trụ tâm đó và làm thế nào thu phục được tâm đó ? ” Làm sao an trụ, làm thế nào thu phục tâm kia ” là hai câu hỏi then chốt của hàng loạt kinh, hai thắc mắc quan trọng cho sự tu hành. Tất cả tất cả chúng ta, ai đã phát tâm tu theo đạo Phật, đều nguyện tiến tới Phật quả, nhưng muốn tiến tới Phật quả phải làm thế nào ? – Tức là phải an trụ tâm và thu phục tâm, vì nếu còn tâm điên đảo làm thế nào thành Phật được ? Thế nên đó là chỗ chánh yếu của người tu. Phát tâm vô thượng là đặt tiềm năng mình tiến, nhưng an trụ trong đó và thu phục vọng tưởng không phải là chuyện dễ. Phát tâm cầu thành Phật là buổi đầu, nhưng còn nhiều chướng ngại phải vượt qua .
Phật thừa nhận lời tán thán của ngài Tu-bồ-đề là đúng nên đức Phật bảo rằng : “ Lành thay, lành thay ! Đúng như lời ông nói, Như Lai thường hộ niệm những vị Bồ-tát và khéo phó chúc những vị Bồ-tát. ” Bởi vì đức Phật luôn luôn nhớ nghĩ làm thế nào cho những vị Bồ-tát được tiến lên Phật quả và dặn dò những vị Bồ-tát làm quyền lợi cho chúng sanh để cùng tiến lên Phật quả. Đó là chủ đích mà đức Phật hằng mong mỏi và hằng giáo hóa .
Tiếp đến Phật dạy : Bây giờ ông phải lắng tâm nghe cho kỹ, tôi sẽ vì ông mà nói. Những người thiện nam, thiện nữ nào phát tâm cầu thành Phật thì nên như lời tôi dạy ở sau mà an trụ tâm, nên như lời tôi dạy ở sau mà thu phục tâm. Đó là lời của Phật hứa sẽ dạy, ngài Tu-bồ-đề thưa : Xin vâng, đức Thế Tôn con nguyện thích được nghe những lời này. Đây là mở màn thời thuyết pháp chánh .
Qua đoạn này tất cả chúng ta thấy rõ ý thức người xưa đến học đạo. Trong hội chúng phần đông, khi đức Phật thọ trai xong, trải tọa cụ ngồi kiết-già rồi, ngài Tu-bồ-đề theo đúng nghi lễ quì gối chấp tay tán thán Phật trước, tiếp theo mới thưa hỏi những điểm quan trọng. Như vậy đức Phật thuyết pháp là do đệ tử có những vướng mắc hoài nghi đem ra thưa hỏi, nhân đó đức Phật mới thuyết pháp. Hiện nay tất cả chúng ta đi chùa học đạo cũng vậy, khi nào có gì vướng mắc cũng đem ra hỏi, như vậy chính mình có lợi và cũng lợi cho những người chung quanh. Ai muốn thu phục được tâm mình, an trụ được tâm mình, phải theo dõi lời Phật dạy ở sau …
VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ :
Thiền sư Thích Thanh Từ là cao tăng của Phật giáo Nước Ta thời văn minh, nhà hoằng pháp lớn, dịch giả và tác gia nổi tiếng về Phật học, người có công dịch giải nhiều nhất về thiền tông, người phục hưng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Hòa thượng húy là Trần Hữu Phước, pháp danh Thích Thanh Từ, sau đổi lại húy là Trần Thanh Từ. Sinh ngày 24 tháng 7 năm 1924, tại ấp Tích Khánh, làng Tích Thiện, tỉnh Cần Thơ ( nay thuộc tỉnh Vĩnh Long ) .
Thân phụ của Hòa thượng húy Trần Văn Mão, từ nhỏ theo nghiệp Nho, giữ nếp sống thanh bần. Cụ ông theo đạo Cao Đài. Thân mẫu của Ngài húy Nguyễn Thị Đủ, quê làng Thiện Mỹ, Q. Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ. Cụ bà chân chất hiền lành, suốt đời tận tụy hi sinh vì chồng vì con. Hòa thượng sinh ra và lớn lên trong thực trạng khó khăn vất vả nghèo túng, nhưng Ngài đã điển hình nổi bật những nét riêng từ thuở ấu thơ : trầm mặc, ít nói, thích đọc sách, có chí xuất trần và đặc biệt quan trọng rất hiếu thảo với cha mẹ .
Vào năm 9 – 10 tuổi, nhân theo cụ ông lên Mốp Văn, Long Xuyên thọ tang người bác thứ ba, Hòa thượng được đến chùa Sân Tiên trên núi Ba Thê cúng cầu siêu cho bác. Duyên xưa gặp lại, nghe tiếng chuông chùa ngân dài giữa khoảng chừng thinh không cô tịch, Hòa thượng rung động như có một nỗi niềm giao cảm tự khi nào. Bất thần Người xuất khẩu thành thơ :
Non đảnh là nơi thú lắm ai ,
Đó cảnh nhàn du của khách tài .
Tiếng mõ công phu người tỉnh giấc ,
Chuông hồi văng vẳng quá bi ai !
Có thể nói rằng, chí xuất trần của Hòa thượng nổi dậy kể từ đây. Sớm chìm nổi theo dòng đời và nhất là sống trong thời loạn lạc, Hòa thượng càng thấm thía, càng đau xót nỗi thống khổ của con người. Chí xuất trần của Hòa thượng vì vậy càng trở nên mãnh liệt hơn và Người luôn ôm ấp một tâm niệm : “ Nếu tôi không hề làm một viên linh đơn cứu tổng thể bệnh của chúng sanh, ít ra cũng là một viên thuốc bổ giúp cho người bớt khổ. ” Từ đó trái nhân duyên đã chín muồi, cuộc sống của Hòa thượng rẽ sang một con đường sáng .
Ngày 15 tháng 7 năm 1949, sau 3 tháng công quả tại chùa Phật Quang ; Hòa thượng được Tổ Thiện Hoa chính thức cho xuất gia với pháp danh là Thanh Từ. Thế là ước nguyện của Người đã được thành tựu. Từ đây, Hòa thượng siêng năng theo Tổ công phu bái sám, vừa học giáo lý, vừa dạy trẻ nhỏ. Ngoài ra còn phụ trông nom coi sóc mấy chục chú tiểu trong chùa. Công việc tuy nhiều, tuy nhiên Hòa thượng luôn để tâm học Giáo điển. Năm 1949 – 1950, Hòa thượng theo học lớp Sơ đẳng năm thứ 3 tại Phật học đường Phật Quang. Năm 1951, Hòa thượng mở màn học lên Trung đẳng .
Cũng trong năm này, chùa Phật Quang bị binh biến, Tổ Thiện Hoa phải dời Tăng chúng lên chùa Phước Hậu, Hòa thượng cũng được theo và thọ giới Sa-di tại đây do Tổ Khánh Anh làm Hòa thượng đàn đầu. Năm 1953, Hòa thượng theo Bổn sư là Tổ Thiện Hoa lên Hồ Chí Minh, liên tục học lớp Trung đẳng tại Phật học đường Nam Việt chùa Ấn Quang. Tại đây, Hòa thượng được thọ giới cụ túc do Tổ Huệ Quang làm Hòa thượng đàn đầu. Từ năm 1954 đến năm 1959, Hòa thượng học Cao đẳng Phật học tại Phật học đường Nam Việt. Các vị đồng khóa cùng ra trường với Hòa thượng như quí ngài Huyền Vi, Thiền Định, Từ Thông …
MỤC LỤC :
LỜIĐẦU SÁCH
LƯỢC KHẢO
ĐOẠN 1 : PHÁP HỘI NHÂN DO
ĐOẠN 2 : THIỆN HIỆN KHẢI THỈNH
ĐOẠN 3 : ĐẠI THỪA CHÁNH TÔNG
ĐOẠN 4 : DIỆU HẠNH VÔ TRỤ
ĐOẠN 5 : NHƯ LÝ THẬT KIẾN
ĐOẠN 6 : CHÁNH TÍN HY HỮU
ĐOẠN 7 : VÔ ĐẮC VÔ THUYẾT
ĐOẠN 8 : Y PHÁP XUẤT SANH
ĐOẠN 9 : NHẤT TƯỚNG VÔ TƯỚNG
ĐOẠN 10 : TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ
ĐOẠN 11 : VÔ VI PHƯỚC THẮNG
ĐOẠN 12 : TÔN TRỌNG CHÁNH GIÁO
ĐOẠN 13 : NHƯ PHÁP THỌ TRÌ
ĐOẠN 14 : LÝ TƯỚNG TỊCH DIỆT
ĐOẠN 15 : TRÌ KINH CÔNG ĐỨC
ĐOẠN 16 : NĂNG TỊNH NGHIỆP CHƯỚNG
ĐOẠN 17 : CỨU KÍNH VÔ NGÃ
ĐOẠN 18 : NHẤT THỂ ĐỒNG QUÁN
ĐOẠN 19 : PHÁP GIỚI THÔNG HÓA
ĐOẠN 20 : LY SẮC LY TƯỚNG
ĐOẠN 21 : PHI THUYẾT SỞ THUYẾT
ĐOẠN 22 : VÔ PHÁP KHẢ ĐẮC
ĐOẠN 23 : TỊNH TÂM HÀNH THIỆN
ĐOẠN 24 : PHƯỚC TRÍ VÔ TỶ
ĐOẠN 25 : HÓA VÔ SỞ HÓA
ĐOẠN 26 : PHÁP THÂN PHI TƯỚNG
ĐOẠN 27 : VÔ ĐOẠN, VÔ DIỆT
ĐOẠN 28 : BẤT THỌ, BẤT THAM
ĐOẠN 29 : UY NGHI TỊCH TĨNH
ĐOẠN 30 : NHẤT HIỆP TƯỚNG LÝ
ĐOẠN 31: TRI KIẾN BẤT SANH
Xem thêm: Sám Hối Hồng Danh
ĐOẠN 32 : ỨNG HÓA PHI CHÂN
Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp