Kinh Tụng: Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật (giọng tụng của Ni Sư Như Như)
Tu Viện Quảng Đức
Melbourne, Úc Châu
NGHI THỨC
TỤNG KINH KIM CANG
NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI
Tịnh Pháp giới Chơn Ngôn:
Án lam xóa ha. (3 lần)
Tịnh Tam Nghiệp Chơn Ngôn:
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
Phá Địa Ngục Chơn Ngôn:
Án dà ra đế da ta bà ha. (3 lần)
Xin cho khói trầm hương Kết thành mây năm sắc Dâng lên khắp mười phương Cúng dường vô lượng Phật Vô lượng những Bồ – tát Cùng những Thánh Hiền Tăng Nơi pháp giới dung thông Kết đài sen bùng cháy rực rỡ Nguyện làm người sát cánh Trên con đường giác ngộ Xin mọi loài chúng sanh Từ bỏ cõi u mê Theo đường giới định huệ Quay về trong tỉnh thức Tu hành Ba – la – mật. O Giờ này chúng con dâng hết lòng thành hướng về Ba Ngôi Tam Bảo, phát nguyện thọ trì Pháp Bảo. Nguyện cho chánh pháp được lan truyền khắp chốn, kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người đau khổ được an vui, tự tại. O Lại nguyện người người từ bỏ tham giận, si mê ; tưới tẩm từ bi, niềm hạnh phúc ; làm lành lánh dữ, yêu quý đùm bọc lẫn nhau ; quốc tế dứt nghiệp binh đao ; muôn loài an vui giải thoát. O Chúng con nguyện đời đời kiếp kiếp thường làm bà con Phật pháp, quyến thuộc từ bi, hộ trì Tam Bảo ở mãi trần gian, sống trọn đời trong an vui tự tại. Từ nay, sạch hết não phiền, thoát vòng mê muội. Nguyện cùng pháp giới chúng sanh đều chứng thành quả Phật. O
Giới định huệ hương
Giải thoát tri kiến quý khôn lường
Ngào ngạt khắp muôn phương
Ba nén tâm hương
Chúng con nguyện cúng dường. O
Nam – mô Hương Cúng Dường Bồ – tát.
(3 lần) OOO
TÁN PHẬT VÀ QUÁN TƯỞNG
Đấng Pháp Vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loài.
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận . (xá 1 xá) O
Phật, chúng sanh: tánh thường rỗng lặng.
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.
Lưới đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật bảo, hào quang sáng ngời,
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (xá 1 xá) O
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trú Tam Bảo. (1 lạy) O
Chí tâm đảnh lễ Nam mô Ta – bà Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích – Ca – Mâu – Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di – Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn – Thù – Sư – Lợi Bồ – tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ – tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ – tát, Linh Sơn hội thượng Phật Bồ – tát. (1 lạy) O
Chí tâm đảnh lễ Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A – Di – Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ – tát, Đại Thế Chí Bồ – tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ – tát, Thanh Tịnh Đại Hải chúng Bồ – tát.
(1 lạy) OO
TÁN LƯ HƯƠNG
Kim lư vừa bén chiên đàn,
Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương,
Hiện thành mây báu kiết tường,
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền,
Pháp thân toàn thể hiện tiền,
Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần) O
CHÚ ĐẠI BI
Nam – mô Đại – Bi Hội – Thượng Phật Bồ – Tát.
(3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại – bi tâm đà – la – ni.
Nam – mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam – mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ – đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa.
Nam – mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.
Nam – mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ – đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá – lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ – đề dạ bồ – đề dạ, bồ – đà dạ, bồ – đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam – mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam – mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần) O
Đại Từ Đại Bi thương chúng sanh
Đại Hỷ Đại Xả cứu muôn loài,
Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm,
Đệ tử chí tâm quy mạng lễ.
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo
(3 lần) O
Cúi lạy đấng Tam Giới Tôn
Quy mạng cùng mười phương Phật
Con nay phát nguyện rộng
Thọ trì Kinh Kim Cang
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ ba đường.
Nguyện cho người thấy nghe
Đều phát lòng bồ – đề,
Hết một báo thân này
Sanh qua cõi Cực lạc.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(3 lần) O
Phật Pháp cao siêu rất thậm sâu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam – mô Bát Nhã Hội Thượng Bồ – Tát.
(3 lần) O
Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật
Hán dịch:
Cưu Ma La Thập
Việt dịch :
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
Tôi nghe như vầy : Một hôm, tại nước Xá-Vệ, Phật và 1250 vị Đại Tỳ Kheo, đều ở Tinh-xá Kỳ-Hoàn, trong vườn của ông Thái-tử Kỳ-Đà và ông Trưởng giả Cấp-Cô-Độc. Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng tăng đều đắp y, mang bình bát vào thành Xá-Vệ, theo thứ lớp khất thực. Khất thực xong, Phật và chúng tăng đồng về Tinh-xá để thọ trai. Sau khi thọ trai xong, Phật xếp y, cất bình bát và rửa chân, rồi trải tọa-cụ, ngồi yên tịnh. Khi đó, ở trong đại chúng, ông Trưởng lão Tu-Bồ-Đề đứng dậy, vén tay áo bên hữu, gối bên hữu quỳ xuống, chắp tay cung kính và bạch Phật rằng : ‘ Hy hữu thay ! Đức Thế-Tôn ! Ngài thường nhớ nghĩ và bảo lãnh những vị Bồ Tát. Ngài rất hay khéo dạy bảo những vị Bồ Tát. Bạch Thế-Tôn ! Nếu có người phát tâm Bồ-đề muốn cầu quả Phật, thì : Làm sao thu phục vọng tâm ? Và làm thế nào an trụ chơn tâm ? ‘ Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Lời ông vừa hỏi, thật là quí lắm ! Vậy ông hãy chú ý nghe, ta sẽ vì những ông chỉ dạy ‘. Phật dạy tiếp : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu có người phát tâm Bồ-đề, muốn cầu quả Phật, thì phải như lời ta dạy đây mà ‘ thu phục vọng tâm ‘ và ‘ an trụ chơn tâm ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Các ông phải y hệt như lời ta dạy đây, mà thu phục vọng tâm của mình. Tu-Bồ-Đề ! Các vị Đại Bồ Tát phải độ toàn bộ những loại chúng sanh ( như loài sanh trứng, loài sanh con, loài sanh chỗ ẩm-thấp, loài hóa sanh, loài có sắc, loài không sắc, loài có tưởng, loài ngoạn mục, loài chẳng phải có tưởng, loài chẳng phải ngoạn mục v.v… ) đều được nhập Niết bàn. Bồ Tát tuy độ vô lượng vô số chúng sanh như vậy, nhưng không thấy có một chúng-sanh nào được độ. Tại sao vậy ? Nếu Bồ Tát còn thấy có mình độ và chúng sanh được độ, tức là Bồ Tát còn chấp bốn tướng ( ngã tướng, tướng nhơn, tướng chúng sanh và tướng thọ giả ) thì không phải là Bồ Tát ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp những tướng ; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần là : sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp. Tại sao vậy ? Nếu Bồ Tát bố-thí mà không chấp tướng bố-thí, thì phước đức nhiều lắm, không hề nghĩ bàn ‘. Phật hỏi : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Hư-không ở phương đông hoàn toàn có thể nghĩ bàn được không ? ‘ Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Không thể nghĩ bàn được ‘. Phật hỏi tiếp : ‘ Hư-không phương tây, phương nam, phương bắc, phương trên, phương dưới và bốn gốc, hoàn toàn có thể nghĩ bàn được không ? Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Không thể nghĩ bàn được ‘. ‘ Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Bồ Tát bố-thí, không trụ chấp những tướng, đặng phước đức cũng như mười phương hư-không, nghĩa là nhiều lắm không hề nghĩ bàn ‘. Tóm lại, Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! những vị Bồ Tát phải giống như lời ta dạy đó mà an trụ Chơn-Tâm ‘. Phật hỏi : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Ông hoàn toàn có thể cho thấy cái thân tướng của ta đây là thấy được Như-Lai chăng ? ‘ Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Không thể cho thấy cái thân tướng của Ngài đó là thấy được Như-Lai. Tại sao vậy ? Vì Như-Lai nói : ‘ Cái thân tướng này, không phải thật là thân tướng của Như-Lai ‘. Phật dạy tiếp : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu những ông thấy những pháp ( tướng ) đều hư vọng, không thật ( phi tướng ) tức là thấy được Như-Lai ( thật tướng những pháp ). Ông Tu-Bồ-Đề hỏi Phật : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Chúng-sanh nghe đến kinh này, chẳng biết có tin được không ? ‘ Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Ông chớ nên lo như vậy. Không những hiện-tại mà cả vị-lai đều có người nghe và tin được kinh này. Sau 500 năm, khi Như-Lai nhập diệt, nếu có người xuất gia ( trì giới ) hoặc tại gia ( tu phước ) nghe đến kinh này, mà sanh lòng tin thọ, thì biết người này đẵ trồng căn lành ( đã tu ), không phải mới bốn năm đời Phật, mà đã nhiều kiếp tu hành, từ vô lượng vô số chư Phật đến nay. Phật dạy tiếp : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai thấy rõ ràng và biết chắc như đinh : Nếu có chúng-sanh nào nghe đến kinh này, sanh tâm tin thọ, cho đến trong thời hạn rất ngắn, chỉ nhứt niệm, thì chúng-sanh đó sẽ được phước đức vô lượng vô biên. Tại sao vậy ? Vì chúng-sanh này không còn chấp tướng ngã tướng nhơn, tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả, tướng phải pháp và tướng không phải pháp ‘. Phật dạy : ‘ Nếu những ông còn chấp những tướng, hoặc chấp ‘ tướng chánh-pháp ‘ hay chấp ‘ tướng phi chánh pháp ‘ thì cũng đều bị dính mắc nơi bốn tướng : ngã, nhơn, chúng-sanh, và thọ-giả. Bởi thế nên không được chấp ‘ tướng chánh pháp ‘ hay chấp ‘ tướng phi chánh pháp ‘. Cũng vì lẽ đó, nên Như-Lai thường dạy : ‘ Các thầy Tỳ-Kheo phải biết : giáo pháp của ta cũng như chiếc đò, đưa người qua sông ; những ông không nên trụ chấp nơi giáo pháp. ‘ Chánh pháp ‘ còn không nên trụ chấp huống chi là ‘ phạm pháp ‘. Phật hỏi ông Tu-Bồ-Đề : ‘ Như-Lai có thành Phật không ? và Như-Lai có thuyết pháp không ? ‘ Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai không thành Phật và Như-Lai cũng không thuyết pháp. Tại sao vậy ? Vì pháp của Như-Lai, không hề chấp thủ, nói năng không trúng, tâm lý chẳng nhằm mục đích, không phải chánh pháp, mà cũng không phải phạm pháp. Như thế thì làm thế nào, có cái gì quyết định hành động là ‘ thành Phật ‘, và có cái gì quyết định hành động là ‘ nói pháp ‘. Ông Tu-Bồ-Đề bạch Phật : ‘ Phật Pháp đã như vậy, tại sao lại có những quả thánh hiền cao thấp khác nhau ? ‘. Phật dạy : ‘ Vì trình độ của chúng-sanh có sai khác, nên có những quả thánh hiền sai khác, chứ không phải Phật-Pháp ( vô-vi ) có sai khác ‘. Phật hỏi : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu có người đựng đầy bảy báu trong đại quốc tế ( một nghìn triệu quốc tế nhỏ ) đem bố thí ( tài thí ), thì phước đức nhiều không ? ‘. Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! nhiều lắm ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu có người thọ trì đọc tụng kinh này, hoặc vì người giảng nói trọn quyển hoặc nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì công-đức ( pháp thí ) của người này nhiều hơn người trước. Tại sao vậy ? Vì toàn bộ Phật và Pháp đều từ kinh này mà sanh ra ‘. Phật dạy tiếp : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Gọi là ‘ Phật, Pháp ‘, thực ra cũng không phải ‘ Phật, Pháp ‘, chỉ tạm gọi là ‘ Phật, Pháp ‘ ‘. Phật hỏi : ‘ Tu-Bồ-Đề ‘ ! Nếu vị Tu-Đà-Hoàn tự nghĩ rằng : ‘ Tôi đã đặng quả Tu-Đà-Hoàn ‘ ; nghĩ như vậy có được không ? ‘ Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy ? Vị Tu-Đà-Hoàn, phải không còn thấy mình có chứng quả Tu-Đà-Hoàn, thế mới thật là chứng quả Tu-Đà-Hoàn ‘. Phật hỏi : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu có vị Tư-Đà-Hàm tự nghĩ rằng : ‘ Tôi đã đặng quả Tư-Đà-Hàm ‘ ; nghĩ như vậy có được không ?. Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy ? Vị Tư-Đà-Hàm, phải không còn thấy mình có chứng quả Tư-Đà-Hàm, thế mới thật là chứng quả Tư-Đà-Hàm ‘. Phật hỏi : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu có vị A-Na-Hàm tự nghĩ rằng : ‘ Tôi đã đặng quả A-Na-Hàm ‘ ; nghĩ như vậy có đặng không ? ‘ Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy ? Vị A-Na-Hàm, phải không còn thấy mình có chứng quả A-Na-Hàm, thế mới thực là chứng quả A-Na-Hàm ‘. Phật hỏi : Tu-Bồ-Đề ! Nếu có vị A-La-Hán tự nghĩ rằng : ‘ Tôi đã đặng quả A-La-Hán ‘ ; nghĩ như vậy có đặng không ? ‘ Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy ? Vị A-La-Hán, phải không còn thấy mình có chứng quả A-La-Hán, thế mới thật là chứng quả A-La-Hán. Nếu còn thấy mình chứng quả A-La-Hán tức là còn trụ chấp ( dính mắc ) về bốn tướng : ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả, thì không phải thật chứng A-La-Hán. Bạch Thế-Tôn ! Cũng như con đây, vì con không còn chấp mình có tu chứng, nên mới được Như-Lai ghi nhận : ‘ Tu-Bồ-Đề đã đặng pháp Tam-muội vô tránh ; Tu-Bồ-Đề là người ưa tu hạnh tịch-tịnh ( A-Lan-Na ) ; Tu-Bồ-Đề là vị A-La-Hán ly dục thứ nhứt. Trong chúng, Tu-Bồ-Đề là hơn hết ‘. Bạch Thế-Tôn ! Nếu con nghĩ ( chấp ) rằng : ‘ Con đã đặng quả A-La-Hán, con là vị A-La-Hán ly dục thứ nhứt v.v… thì Đức Như-Lai không ghi nhận và không khen ngợi con như vậy ‘. Phật hỏi : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Về quá-khứ so với trước Phật Nhiên-Đăng, ta có ‘ đắc Pháp ‘ không ? ‘ Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Đức Như-Lai thật không có ‘ đắc Pháp ‘ gì cả ‘. Phật hỏi : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Bồ Tát có làm trang-nghiêm cõi Phật không ? ‘ Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Bồ Tát không làm trang-nghiêm cõi Phật. Tại sao vậy ? Bồ Tát làm trang-nghiêm cõi Phật, mà không thấy ( chấp ) mình có trang-nghiêm cõi Phật, như vậy mới thật là trang-nghiêm cõi Phật ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Các vị Đại Bồ Tát phải giữ tâm thanh-tịnh, chớ nên sanh vọng-tâm trụ chấp nơi sắc trần, thinh-trần, hương-trần, vị-trần, xúc-trần và pháp-trần. Tóm lại, Bồ Tát đừng khởi vọng-tâm trụ chấp một nơi nào cả ‘ ( Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm ). Phật hỏi : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Báo thân của Phật như núi Tu-Di. Vậy Báo Thân của Phật có to lớn không ? ‘ Ông Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! lớn lắm. Nhưng, Phật nói : ‘ Không chấp thân to lớn, mới thật là to lớn ‘. Phật hỏi : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như trong sông Hằng, có vô số cát, rồi lấy mỗi một hạt cát, lại dụ cho một sông Hằng. Vậy những số cát trong vô số sông Hằng đó, có nhiều không ? ‘ Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! nhiều lắm. Nếu chỉ tính những sông Hằng mà thôi, hãy còn nhiều vô số, huống chi là tính toàn bộ số cát, trong vô số sông Hằng ‘. Phật hỏi tiếp : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu có chúng-sanh nào dùng 7 món báu, đựng đầy trong nhiều Đại thế giới ( một nghìn triệu thế-giới nhỏ ) để đem bố-thí ; số đại-thế-giới này cũng nhiều như số cát trong vô số sông Hằng, thì chúng-sanh đó phước đức nhiều không ? ‘. Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! nhiều lắm ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Ta nay thành thật bảo ông : Nếu có người thọ trì đọc tụng hay giảng kinh này, hoặc trọn quyển hay nửa quyển, cho đến tối thiểu, chừng bốn câu kệ, thì phước đức của người này nhiều hơn người trước ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! những chỗ được giảng kinh này, hoặc trọn bộ hay nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì chỗ đó cũng được chư thiên, người và thánh thần đến cúng dường và đều kính trọng như chỗ chùa tháp của Phật ‘. Phật dạy tiếp : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu chỗ nào thờ kinh này, thì chỗ đó có Phật và có những vị đệ tử tôn quí của Phật. Bởi thế nên người chí thành thọ-trì đọc tụng kinh này, người ấy sẽ thành tựu trí huệ Kim-Cang Bát-Nhã ‘. Lúc bấy giờ, ông Tu-Bồ-Đề hỏi Phật : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Kinh này tên gì ? Và tại sao chúng con phải phụng trì ‘.
Phật dạy : ‘Tu-Bồ-Đề ! Kinh này tên là ‘KIM-CANG BÁT-NHÃ BA-LA -MẬT’; vì thế nên các ông phải phụng trì’.
Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai nói Bát-Nhã Ba-La-Mật, tức không phải Bát-Nhã Ba-La-Mật, thế mới gọi là Bát-Nhã Ba-La-Mật ‘. Phật hỏi : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai có thuyết pháp không ? ‘. Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai không có thuyết pháp ‘. Phật hỏi : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Những vi-trần chứa trong đại quốc tế ( 1 nghìn triệu thế-giới nhỏ ) có nhiều không ? ‘. Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! nhiều lắm ‘. Phật dạy ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai nói những vi trần, không phải thật vi trần, chỉ tạm gọi là vi trần. Như-Lai nói quốc tế, không phải thật là quốc tế, chỉ tạm gọi là quốc tế ‘. Phật hỏi : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Ông hoàn toàn có thể cho thấy 32 tướng tốt của Như-Lai là thấy được Như-Lai không ? ‘. Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy ? Vì Đức Như-Lai nói 32 tướng tốt, không phải thật 32 tướng tốt, chỉ giả gọi là 32 tướng tốt ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu có người tự đem thân mạng mình, nhiều như cát sông Hằng để bố-thí, thì người đó phước đức nhiều lắm. Nhưng nếu có người thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy kinh này, trọn quyển hay nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì phước đức người này nhiều hơn người trước ‘. Sau khi thấy Phật nhiều lần ân-cần, nhắc nhở khuyên dạy, ông Tu-Bồ-Đề nghe hiểu được nghĩa lý thâm-thúy của kinh này, nên lúc bấy giờ, ông cảm động bùi ngùi và sa nước mắt ! … Ông Tu-Bồ-Đề bạch Phật rằng : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Con tuy đặng huệ-nhãn đã lâu, nhưng chưa từng được nghe Phật nói tầm cỡ, nghĩa lý cao siêu, huyền diệu, quí hóa như thế này ! ‘ Ông Tu-Bồ-Đề thưa Phật : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Nếu có người nghe kinh này, sanh lòng tin trong sáng, ngộ được thật-tướng ( tánh Bát-Nhã ) thì người ấy sẽ đặng thành-tựu công-đức hy hữu thứ nhứt. Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai nói ‘ thật tướng ‘, tức không phải ‘ thật tướng ‘, chỉ tạm gọi là ‘ thật tướng ‘. Ông Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Hiện nay con nghe đặng kinh này, hiểu được tin được và thọ-trì, chẳng lấy làm khó. Khi đức Như-Lai nhập diệt, 500 năm về sau, nếu có người nghe Kinh này, mà được hiểu ngộ, tin theo và thọ-trì, thì người đó mới là hy-hữu ! Tại sao vậy ! Vì người này không còn chấp bốn tướng : ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả. Bạch Thế-Tôn ! Nói bốn tướng, không phải thật có bốn tướng, chỉ giả gọi bốn tướng là ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả. Tại sao vậy ? Vì phải xa lìa tổng thể những chấp tướng, mới gọi là chư Phật ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Đúng như vậy. Nếu có người nghe Kinh này mà không hoài nghi hay kinh sợ, thì người này rất là hy-hữu ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai nói Bát-Nhã là đệ nhứt Ba-La-Mật, không phải Bát-Nhã là đệ nhứt Ba-La-Mật, thế mới thật Bát-Nhã đệ nhứt Ba-La-Mật ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai nói người Nhẫn-nhục Ba-La-Mật ( rốt-ráo ) mà không thấy mình Nhẫn-nhục Ba-La-Mật, như vậy mới thật là Nhẫn-nhục Ba-La-Mật ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Về quá khứ, ta làm vị Tiên-nhơn tu hạnh nhẫn-nhục đến 500 đời. Bị vua Ca-Lợi cắt xẻo thân-thể từng đoạn, nhưng ta không sân hận ; vì ta không còn chấp bốn tướng : ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Bồ Tát phát tâm Bồ-đề, phải xa lìa toàn bộ những chấp tướng. Bồ Tát không nên sanh tâm trụ-chấp nơi sắc-trần, thinh-trần, hương-trần, vị-trần, xúc-trần và pháp-trần v.v… Nói tóm lại, Bồ Tát đừng sanh vọng-tâm trụ-chấp một nơi nào cả. Nếu Bồ Tát tâm còn trụ-chấp một nơi nào, thì không phải thật an trụ chơn-tâm. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Bồ Tát khi bố thí hay làm những việc quyền lợi cho toàn bộ chúng-sanh, không nên sanh tâm trụ-chấp những tướng ( mình bố-thí, người thọ thí, vật bố-thí ). Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai nói những tướng không phải thật những tướng ( những pháp ) chỉ giả gọi những tướng. Như-Lai nói chúng-sanh, không phải thật chúng-sanh, chỉ giả gọi chúng-sanh ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai nói thật, nói chân-chánh, không nói dối, không nói sai khác. Như-Lai có đắc pháp, nhưng pháp ấy không thật không hư ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu Bồ Tát bố-thí mà tâm còn trụ-chấp nơi pháp bố-thí, thì như người vào nhà tối, không thấy gì cả. Trái lại, nếu Bồ Tát bố-thí mà tâm không trụ-chấp nơi pháp bố-thí, thì cũng như người có mắt sáng tỏ, lại nhờ ánh sáng của mặt nhựt chiếu soi, được thấy toàn bộ mọi vật ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai dùng trí-huệ Phật, thấy rõ ràng và biết chắc-chắn : đời sau, nếu có người phát tâm thọ-trì đọc tụng kinh này, người ấy sẽ thành tựu công-đức vô lượng vô biên ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu có người nào, một ngày ba lần : Sớm mai, đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng để bố-thí ; Trưa, đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng để bố-thí ; Chiều, cũng đem thân mình nhiều như số cát sông Hằng để bố-thí. Bố-thí như vậy cho đến vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp, phước đức của người này vô lượng vô biên. Nếu có người nghe Kinh này, tin hiểu không hoài nghi, thì người này phước đức nhiều hơn người trước. Chỉ tin mà thôi, còn được phước như vậy, huống chi là thọ-trì đọc-tụng, hoặc phiên dịch hay giảng dạy cho người. Tóm lại, công-đức của Kinh này vô lượng vô biên không hề nghĩ bàn ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai vì những người phát tâm Đại-thừa và phát tâm Tói-thượng-thừa mà giảng dạy kinh này. Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai thấy rõ-ràng và biết chắc-chắn : Nếu có người thọ-trì đọc-tụng hoặc giảng dạy kinh này, thì người này sẽ đặng công-đức vô-lượng vô biên không hề tâm lý và luận bàn. Người này sẽ đặng đạo quả Bồ-Đề của Như-Lai. Tu-Bồ-Đề ! Người ưa pháp Tiểu-Thừa, chấp bốn tướng : ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả, nên so với kinh này, họ không hề tin hiểu hoặc đọc tụng, hay giảng dạy cho người ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Chỗ nào phụng thờ Kinh này, thì chỗ ấy như có chùa tháp của Phật ; toàn bộ trời, người, thánh thần đều cung kính lễ bái, dâng hoa cúng dường hoặc đi nhiễu ‘. Phật dạy ! ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu người thọ trì đọc tụng Kinh này, mà bị người khinh khi, thì người này do tội chướng đời trước rất nặng nề còn thừa lại, đáng lẽ phải đọa vào ác đạo ; nhưng nay chỉ bị người khinh khi, những tội chướng đời trước được hủy hoại và họ sẽ mau đặng đạo quả Bồ-Đề ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Ta nhớ trong quá khứ, về vô lượng vô số kiếp, trước thời Phật Nhiên-Đăng, ta cúng dường và phụng thờ tám trăm bốn ngàn muôn ức vô số chư Phật. Nhưng về sau này, nếu có người thọ-trì đọc tụng Kinh này, thì công-đức của người này so với công-đức của ta cúng dường phụng thờ vô số chư Phật trước kia, công-đức của ta không bằng một Phần Trăm, một phần ngàn, một phần vạn, một phần ức của người này ; cho đến dùng toán số hay thí dụ cũng không hề giám sát hay thí dụ được công-đức của người thọ trì Kinh này ‘. Phật dạy : ‘ Nếu ta nói hết công-đức của người thọ-trì đọc-tụng Kinh này, sợ e người nghe, tâm sanh điên cuồng, hoặc hoài nghi không tin. Tóm lại, Kinh này nghĩa lý vô biên, không hề tâm lý và luận bàn, nên phước báo của người thọ trì Kinh này cũng không hề tâm lý và luận bàn ‘. Khi ấy, Ông Tu-Bồ-Đề bạch Phật : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Nếu có người phát tâm Bồ-đề, thì làm thế nào thu phục vọng tâm và làm thế nào an trụ chơn tâm ? ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu có người phát tâm Bồ-đề, thì phải dụng tâm như vầy : Ta hóa độ tổng thể chúng-sanh, nhưng không thấy có mình độ và chúng-sanh được độ. Tại sao vậy ? Nếu Bồ Tát còn thấy mình độ và chúng-sanh được độ, thì Bồ Tát còn tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả, tức nhiên không phải là Bồ Tát. Tu-Bồ-Đề ! Thật không có một pháp gì gọi là phát tâm Bồ-đề ‘. Phật hỏi : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Về quá khứ, Như-Lai có đắc pháp Bồ-đề với Phật Nhiên-Đăng không ? ‘. Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai không có đắc pháp Bồ-đề với Phật Nhiên-Đăng ‘. Phật dạy : ‘ Đúng như vậy, Như-Lai không có đắc pháp gì cả. Nếu Như-Lai có đắc pháp thì Phật Nhiên-Đăng không thọ-ký cho ta rằng : Về sau, ông sẽ trở thành Phật hiệu là Thích-Ca Mâu-Ni ‘. Phật dạy tiếp : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Có người nói : ‘ Như-Lai đặng quả Bồ-đề ‘. Thật ra, Như-Lai là bản thể như như của những pháp, nên Như-Lai không đặng pháp gì cả. Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai đặng đạo Bồ-Đề, không phải hư, không phải thật ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai nói : ‘ Tất cả những pháp đều là Phật Pháp ‘. Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai nói những pháp, thật ra không phải những pháp, chỉ giả gọi ‘ những pháp ‘ ; cũng như thân Phật to lớn, Như-Lai nói không phải thân Phật to lớn, chỉ giả gọi ‘ thân Phật to lớn ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu Bồ Tát còn chấp mình hóa độ vô số chúng-sanh thì không phải là Bồ Tát. Tại sao vậy ? Vì thật ra không có một pháp gì gọi là Bồ Tát. Bởi thế nên Phật nói : ‘ Tất cả những pháp không ngã, không nhơn, không chúng-sanh và không thọ-giả ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu Bồ Tát chấp rằng : ‘ Ta là trang nghiêm cõi Phật ‘, thì không phải là Bồ Tát. Tại sao vậy ? Như-Lai nói : ‘ Bồ Tát làm trang nghiêm cõi Phật, mà không chấp mình có làm trang nghiêm cõi Phật, mới thật là trang nghiêm cõi Phật. Tóm lại, nếu Bồ Tát không còn chấp ngã chấp pháp, Như-Lai mới gọi là ‘ thật Bồ Tát ‘. Phật hỏi : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai có Nhục-Nhãn không ? Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai có Nhục-Nhãn ‘. ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai có Thiên-Nhãn không ? ‘ ‘ Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai có Thiên-Nhãn ‘. ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai có Huệ-Nhãn không ? ‘ ‘ Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai có Huệ-Nhãn ‘. ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai có Pháp-Nhãn không ? ‘ ‘ Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai có Pháp-Nhãn. ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai có Phật-Nhãn không ? ‘ ‘ Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai có Phật-Nhãn ‘. Phật hỏi : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Cát ở trong sông Hằng, Như-Lai có gọi là cát không ? ‘ Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai cũng gọi là cát ‘. Phật hỏi : ‘ Như một sông Hằng có vô số cát, rồi lấy mỗi một hột cát, để thí dụ một sông Hằng, thì có vô số sông Hằng. Trong vô số sông Hằng, mỗi một sông Hằng lại có vô số cát nữa, rồi đem vô số hạt cát trong vô số sông Hằng đó, lại thí dụ nữa, mỗi một hạt cát là một quốc tế của Phật ( Đại thế-giới ). Như thế, thế-giới của Phật có nhiều không ? ‘. Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! nhiều lắm ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Tất cả chúng-sanh ở trong vô số quốc tế như vậy có bao nhiêu tâm niệm, Như-Lai đều thấy biết tổng thể ‘. Phật dạy tiếp : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai nói tâm, không phải thật có tâm, chỉ giả gọi là ‘ tâm ‘. Tại sao vậy ? – Vì tâm quá-khứ tìm không được, tâm hiện-tại tìm không được, tâm vị-lai cũng tìm không được ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu có người dùng 7 món báu, đựng đầy trong một đại thế-giới ( một nghìn triệu thế-giới nhỏ ) đem bố thí, người này được phước nhiều không ? ‘. Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Nhiều lắm ‘. Phật dạy : ‘ Nếu chấp phước đức này thật có, thì Như-Lai nói phước đức này không nhiều. Không chấp phước đức nhiều, Như-Lai mới nói là ‘ đặng nhiều phước đức ‘. Phật hỏi : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Ông hoàn toàn có thể cho thấy sắc thân của ta đây là thấy được Phật không ? ‘. Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Không thể cho thấy sắc thân của Phật là thấy được Phật. Tại sao vậy ? Vì Như-Lai nói sắc thân, không phải thật sắc thân, chỉ giả gọi là sắc thân ‘. Phật hỏi tiếp : ‘ Tu-Bồ-Đề ! ông hoàn toàn có thể cho thấy những tướng tốt ( 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp ) của ta đây là thấy được Phật không ? ‘. Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Không thể cho thấy những tướng tốt của Phật là thấy được Phật. Tại sao vậy ? Vì Như-Lai nói những tướng tốt, không phải thật tướng tốt, chỉ giả gọi là tướng tốt ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! ông chớ nên nghĩ rằng : ‘ Như-Lai có thuyết pháp ‘. Tại sao vậy ? Nếu người nào không hiểu lời của Phật dạy, lại nói rằng : ‘ Như-Lai có thuyết pháp ‘, thì người ấy khinh báng Phật. Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai nói ‘ thuyết pháp, tức là không có pháp gì hoàn toàn có thể nói được, mới gọi là thuyết pháp ‘. Khi đó, ông Tu-Bồ-Đề thưa Phật : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Đời sau, nếu có chúng-sanh nào nghe đến Kinh Bát-Nhã, không biết họ hoàn toàn có thể tin được không ? ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Chúng kia, không phải chúng-sanh, cũng không phải phi chúng-sanh. Tại sao vậy ? Như-Lai nói chúng-sanh, thật không phải chúng-sanh, chỉ giả gọi là ‘ chúng-sanh ‘ ‘. Ông Tu-Bồ-Đề bạch Phật : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Như-Lai có chứng đặng đạo quả Vô-thượng Bồ-Đề không ? ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai không có một tí gì gọi là đặng đạo quả Vô-thượng Bồ-Đề ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Pháp này bình đẳng không có cao thấp, không ngã, không nhơn, không chúng-sanh và không thọ-giả, tạm gọi là đạo vô-thượng Bồ-đề. Tu-Bồ-Đề ! Do tu toàn bộ những pháp lành mà đặng đạo vô-thượng Bồ-đề, Như-Lai nói pháp lành, không phải pháp lành, mới gọi là pháp lành ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu có người đem 7 món báu, chất cao bằng những núi Tu-Di trong đại thế-giới ( một nghìn triệu thế-giới nhỏ ) để bố-thí, thì người này phước đức nhiều lắm. Nhưng, nếu có người thọ-trì đọc tụng, hoặc giảng dạy Kinh Kim-Cang Bát-Nhã Ba-La-Mật này, hoặc trọn quyển, hay nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì người này phước đức hơn người trước nhiều lắm. Phước đức của người trước không bằng một Xác Suất, một phần ngàn, một phần muôn, một phần ức của người này, cho đến dùng toán số không hề tính được, hay dùng thí-dụ cũng không hề thí-dụ được phước đức của người này ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! ông chớ lầm tưởng : Như-Lai nghĩ rằng : ‘ Ta độ chúng-sanh ‘. Tại sao vậy ? Nếu Như-Lai có nghĩ : ‘ Ta độ chúng-sanh ‘, thì Như-Lai còn chấp bốn tướng : ngã, nhơn, chúng-sanh, và thọ-giả, tức nhiên không phải Như-Lai. Bởi thế nên, Như-Lai thật không có độ chúng-sanh nào cả. Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai nói ‘ ta ‘, thật ra không có ‘ ta ‘ ; nhưng chúng phàm phu lại chấp có ta. Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai nói phàm phu, không phải phàm phu, chỉ giả gọi là phàm phu ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! ông hoàn toàn có thể cho thấy 32 tướng tốt của ta đây, là thấy được Phật không ? ‘ Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Đúng như vậy, thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật ‘. Phật dạy : ‘ Ông hiểu nhầm rồi ! Nếu thấy 32 tướng tốt của ta đây, mà cho là thấy được Phật, thì vua Chuyển-Luân Thánh-Vương cũng có đủ 32 tướng tốt như ta, vậy vua Chuyển-Luân Thánh-Vương cũng là Phật hay sao ? ‘ Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Con hiểu ý Phật rồi, không hề cho thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật ‘. Khi đó, đức Thế-Tôn nói tiếp bài kệ rằng : Nếu thấy ta bằng sắc tướng Nghe ta bằng âm thanh Người này đi đường tà Không thấy được Như-Lai. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! ông chớ nên nghĩ rằng : Như-Lai không thừa nhận thân tướng tốt đẹp này là thân Phật ‘. Tại sao vậy ? Nếu người phát tâm Bồ-Đề mà nghĩ như vậy, thì mắc vào cái chấp ‘ đoạn diệt ‘. Tu-Bồ-Đề ! Người phát tâm Bồ-đề, so với những pháp, không nên chấp ‘ đoạn diệt ‘ ( chấp không ). Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu có vị Bồ Tát dùng 7 món báu, đựng đầy trong hằng sa thế-giới, đem bố-thí ; và có vị Bồ-tát ngộ ‘ toàn bộ pháp không thật ‘ ( nhứt thế pháp vô ngã ) và chứng đặng ‘ pháp-không ‘ ( pháp nhẫn ) thì công-đức của vị Bồ Tát sau này, nhiều hơn vị Bồ Tát trước. Tại sao vậy ? Vì vị Bồ Tát sau này không lãnh thọ phước đức ‘. Tu-Bồ-Đề bạch Phật : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Tại sao Bồ Tát không lãnh thọ phước đức ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Bồ Tát làm những việc phước đức, nhưng không thâm trước, nên nói Bồ Tát không lãnh thọ phước đức ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu có người chấp : Như-Lai cũng tới, lui, nằm, ngồi v.v.. thì người đó không hiểu nghĩa Như-Lai. Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai nghĩa là không từ đâu đến và cũng không đi về đâu, nên gọi là Như-Lai ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu có người chẻ nhỏ Đại-thiên Thế-giới ( một nghìn triệu thế-giới nhỏ ) thành vi-trần. Vậy số vi-trần này nhiều không ? ‘ Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Nhiều lắm ! ‘ Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai nói những vi-trần, không phải thật vi-trần, chỉ giả gọi là vi-trần. Nếu những vi-trần thật có, thì Như-Lai không gọi là vi-trần ( chỉ gọi cái tướng, do chẻ nhỏ thế-giới mà thành ). Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai nói thế-giới, không phải thật thế-giới, chỉ giả gọi là thế-giới. Nếu thế-giới thật có, thì Như-Lai không gọi là thế-giới, mả chỉ gọi là cái tướng tổng-hợp của nhiều vi-trần. Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai nói cái tướng tổng hợp ( thế-giới ) không phải tướng tổng-hợp, chỉ giả gọi là tướng tổng-hợp. Tu-Bồ-Đề ! Chúng phàm phu vì không biết đó là một cái tướng tổng-hợp của nhiều vi-trần, nên chấp là thật có thế-giới, rồi sanh tâm tham-lam luyến-ái v.v.. ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu có người nói : ‘ Phật cũng nói ngã-tướng, nhơn-tướng, chúng-sanh tướng và thỏ-giả tướng ‘. Vậy, người này có hiểu được nghĩa của Như-Lai nói không ? ‘. Tu-Bồ-Đề thưa : ‘ Bạch Thế-Tôn ! Người này không hiểu được nghĩa của Như-Lai nói. Tại sao vậy ? Vì Như-Lai nói bốn tướng : ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả, nhưng không phải thật có bốn tướng, chỉ giả gọi bốn tướng ngã, nhơn, chúng-sanh và thọ-giả mà thôi ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Người phát tâm Bồ-đề chẳng nên chấp những pháp thật có, mà phải thấy những pháp là giả, biết những pháp là giả, hiểu những pháp là giả và tin những pháp là giả. Tu-Bồ-Đề ! Như-Lai nói ‘ những pháp ‘, không thật có ‘ những pháp ‘, chỉ giả gọi là ‘ những pháp ‘. Phật dạy : ‘ Tu-Bồ-Đề ! Nếu có người dùng 7 món báu, đựng đầy vô lượng vô số thế-giới đem bố-thí. Và, nếu có người phát tâm Bồ-đề thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy Kinh này, trọn quyển hay nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì phước đức của người sau này nhiều hơn người trước. Tại sao người thọ trì đọc tụng và giảng dạy Kinh này, phước đức nhiều hơn người trước ? Vì người này chẳng chấp thủ những tướng ( ngã, pháp ) nhập được thể-tánh Kim-Cang, như như bất động vậy ‘. Phải quán như thế này : Tất cả pháp hữu-vi Như mộng, huyễn, bọt, bóng Như sương, như điển chớp. Khi Phật nói Kinh này rồi, ông Trưởng Lão Tu-Bồ-Đề, những vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, thiện-nam, tín-nữ, trời, người và thần A-Tu-La, đều tin thọ và hoan-hỷ vâng làm.
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán tự tại Bồ tát, hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. O Xá Lợi tử, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc ; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc ; ThọTưởng, Hành, Thức, diệc phục như thị. Xá Lợi tử, Thị chư pháp không tướng : bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố Không trung vô Sắc, vô Thọ, Tưởng, Hành, Thức, vô nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý, vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc, vô vô minh tận ; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận ; vô khổ, tập, diệt, đạo ; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa, y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại ; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật, Y Bát nhã ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú ; năng trừ nhất thiết khổ, chân thực bất hư. O
Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú. Tức thuyết chú viết: yết đế, yế đế. Ba la yết đế. Ba la tăng yết đế. Bồ đề tát bà ha. (3 lần).
VÃNG SANH CHƠN NGÔN
Mục lục
Nam mô di đa bà dạ, Đa tha dà đa dạ, Đa địa dạ tha. A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa, tì ca lan đế, A di rị đa, tì ca lan đa, Dà di nị, dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần) O
A Di Đà Phật thân kim sắc
Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm
Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc
Trong hào quang hóa vô số Phật
Vô số Bồ tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát
Quy mạng lễ A Di Đà Phật
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh
Cúi xin Đức Từ Bi tiếp độ.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ, Đại Bi A Di Đà Phật.
Nam mô A Di Đà Phật (108 lần) O
Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát
(3 lần) O
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát (3 lần) O
Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát (3 lần) O
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (3 lần) O
SÁM NGUYỆN NIỆM PHẬT
Một lòng giữ niệm Di Đà,
Hồng danh sáu chữ thật là rất cao,
Năng trừ tám vạn trần lao,
Người đời nên sớm hồi đầu mới hay.
Khuyên ai xin chớ mê say,
Tịnh tâm niệm Phật việc gì cũng an,
Niệm Phật tội nghiệp tiêu tan,
Muôn tai ngàn họa khỏi mang vào mình.
Niệm Phật mở trí cao minh,
Bao nhiêu hôn chướng chẳng sinh vào lòng.
Niệm Phật cứu đặng tổ tông,
Khỏi nơi biển khổ thoát vòng sông mê.
Niệm Phật thân tộc đề huề
Một nhà sum hợp chẳng hề ghét nhau.
Niệm Phật khỏi khổ khỏi đau,
Bao nhiêu tật bịnh mau mau hết liền.
Niệm Phật có phước có duyên,
Tấn tài tấn lợi bình yên cửa nhà.
Niệm Phật trừ đặng tà ma,
Yêu tinh quỉ quái lánh xa ngàn trùng.
Niệm Phật năng khử độc trùng,
Các loài ác thú hóa hung ra hiền.
Niệm Phật hết khùng hết điên.
Có gương trí huệ có đàng quang minh.
Niệm Phật khỏi sự bất bình,
Sự người chẳng nhớ, sự tình chẳng ưa.
Niệm Phật cứu số long đong,
No cơm ấm áo thong dong mãn đời.
Niệm Phật cảm động khắp nơi,
Ai ai cũng mến, người người đều thương.
Niệm Phật sanh dạ hiền lương,
Từ bi thì có, bạo cường thì không.
Niệm Phật trời cũng thương lòng,
Thường thường gia hộ cả trong đêm ngày.
Niệm Phật thần cũng kính vì,
Thường hay trợ niệm trong khi đứng ngồi.
Niệm Phật lòng chẳng bồi hồi,
Như cây không gió, nhánh chồi chẳng rung.
Niệm Phật khỏi sự hãi hùng,
Gian tà đạo tặc sẽ không đến nhà.
Niệm Phật giấc ngủ an hòa,
Chiêm bao không có, niệm tà đều không.
Niệm Phật oan trái trả xong,
Nợ trần kiếp trước hết mong hết đòi.
Niệm Phật trăm việc xong xuôi,
Dầu sanh dầu tử cũng vui tấm lòng.
Niệm Phật hết sự đèo bồng,
Chẳng ham tài lợi, bỏ vòng công danh.
Niệm Phật uế nhiễm chẳng sanh,
Cái gương tâm tánh như vành trăng thu.
Niệm Phật lòng có sở cầu,
Muốn tu thì đặng dễ đâu sai lầm.
Niệm Phật huờn được chơn tâm,
Bao nhiêu nghiệp chướng tiêu trầm biển khơi.
Niệm Phật sẽ sống trọn đời,
Khỏi vòng lửa nước, khỏi nơi hung tàn.
Niệm Phật thân thể bình an,
Khỏi vương ách nạn, chết oan trên đời.
Niệm Phật bổ đức các nơi,
Phá tan địa ngục, rã rời ma quân.
Niệm Phật, Phật phóng hào quang,
Các ông hóa Phật ngồi ngang trên đầu.
Niệm Phật, Phật chẳng bỏ đâu,
Niệm đâu Phật đó phải cầu chi xa.
Niệm Phật, Phật đến rước ta,
Tây Phương đã sẵn một tòa bông sen.
Niệm Phật phải niệm cho chuyên,
Thì bông sen ấy liền liền tốt tươi.
Niệm Phật niệm niệm không rời,
Tinh thần đã sớm dạo chơi liên trì.
Niệm Phật lơ láo ích chi,
Sen kia khô héo khó mà tốt tươi.
Niệm Phật cần phải kính thành,
Giữ cho thanh tịnh trong mình lục căn.
Niệm Phật như nước với trăng,
Nước trong trăng tỏ, nước nhăn trăng lờ.
Niệm Phật có lắm huyền cơ,
Miễn đừng đem dạ nghi ngờ là xong.
Niệm Phật giữ một tấm lòng,
Di Đà oai đức mênh mông biển trời.
Đức Phật biến hóa khắp nơi,
Thương người cứu vớt những người trầm luân.
Chí tâm niệm Phật tinh cần,
Lâm chung hậu nhật trọn phần vãng sanh./.
(Bài Sám Niệm Phật này do Đạo Hữu Tâm Thái (79 tuổi) đã đọc cúng dường Chư Tôn Đức & quý Phật tử học viên trong Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu kỳ 10 (30/12/2010-02/01/2011) tại Adelaide, Nam Úc. Bài này cụ đã học thuộc lòng từ một quyển Kinh Nhật Tụng xưa. Hôm nay Tu Viện Quảng Đức xin in lại để cùng nhau thọ trì đọc tụng và cũng để lưu giữ lại cho thế hệ mai sau).
THIÊN A TU LA
Thiên A Tu La Dược Xoa đẳng
Lai thính Pháp giả ưng chí tâm
Ủng hộ Phật pháp sử trường tồn
Các các cần hành Thế Tôn giáo
Chư hữu thính đồ lai chí thử
Hoặc tại địa thượng hoặc hư không
Thường ư nhân thế khởi từ tâm
Trú dạ từ thân y pháp trụ
Nguyện chư thế giới thường an ổn
Vô biên phước trí ích quần sanh
Sở hữu tội nghiệp tịnh tiêu trừ
Viễn ly chúng khổ quy viên tịch
Hằng dụng giới hương đồ vinh thể
Thường trì định phục dĩ tư thân
Bồ đề diệu pháp biến trang nghiêm
Tùy sở trụ xứ thường an lạc.
Nam mô Tam Châu Cảm Ứng Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
Tụng Kinh công đức khó nghĩ lường Vô biên thắng phước đều hồi hướng Khắp nguyện chúng sanh trong pháp giới Đều được vãng sanh về Cực Lạc. Nguyện tiêu ba chướng trừ phiền não Nguyện chơn trí tuệ thường sáng tỏ Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ, Kiếp kiếp thường tu Bồ Tát đạo. Nguyện sanh Cực Lạc cảnh phương Tây. Chín phẩm hoa sen là cha mẹ Hoa nở thấy Phật chứng vô sanh Bất thối Bồ Tát là bạn lữ. Nguyện đem công đức này. Hướng về khắp toàn bộ, Đệ tử và chúng sanh Đều trọn thành Phật Đạo. O
Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, tác đại chứng tỏ.
Phục Nguyện, thượng chúc Phật nhật tăng huy, pháp luân thường chuyển, phong điều vũ thuận, quốc thới dân an, thế giới hoà bình, chúng sanh an lạc.
Đệ tử chúng con nguyện đem công đức này hồi hướng trang nghiêm Tây Phương Phật tịnh độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, xin hồi hướng oan gia trái chủ trong nhiều đời nhiều kiếp, cũng như hiện tại, hữu hình và vô hình dung, nếu có ai thấy nghe đều phát tâm Bồ Đề, hết một báo thân này, sanh qua cõi Cực Lạc. Đệ tử chúng con nguyện cầu Đức Phật A Di Đà chấn tích quang lâm phóng ngọc hào quang gia hộ đệ tử chúng con biết trước giờ lâm chung, thân không tật bệnh, tâm không hôn mê, nhất tâm niệm Phật, Phật và thánh chúng tay cầm đài vàng tiếp dẫn chúng con vãng sanh về tây phương Cực Lạc. Đệ tử chúng con nguyện đức Bồ Tát Quan Thế Âm Bồ Tát thùy từ phóng ngọc hào quang gia hộ đệ tử chúng con cùng toàn bộ chúng sanh thân tâm thường an nhàn, tật bệnh tiêu trừ, căn lành tăng trưởng, phước huệ trang nghiêm, xuân đa những khánh, hạ bảo bình an, thu tống tam tai, đông nghinh bá phước. Đệ tử chúng con nguyện Đức Phật A Di Đà, thùy từ phóng ngọc hào quang, tiếp dẫn chư hương linh, vong linh cửu huyền thất tổ, thập nhị loại cô hồn ngạ quỷ hà xa, hữu danh vô vị, hữu vị vô danh nam nữ thương vong, lai đáo Phật tiền, thính pháp văn kinh, tốc xả mê đồ, siêu sanh tịnh độ. Phổ nguyện âm siêu dương thới, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sanh, tình dữ vô tình, đồng thành Phật Đạo. NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
TAM TỰ QUY
– Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. O – Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ Kinh Tạng, trí tuệ như biển. O – Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. O
ĐẢNH LỄ
Đệ tử chúng con hôm nay, xin ghi nhớ công ơn Quốc gia bảo hộ và Cha mẹ sinh thành, cúi đầu đảnh lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương (1 lạy) O
Đệ tử chúng con hôm nay, xin ghi nhớ công ơn dạy dỗ của Sư trưởng và sự tác thành của thiện hữu trí thức, cúi đầu đảnh lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương (1 lạy) O
Đệ tử chúng con hôm nay, xin thay mặt cho tất cả chúng sanh đang đau khổ trong ba đường ác đạo, cúi đầu đảnh lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương (1 lạy) O
* * * Source : www.quangduc.com
Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp