Có Phải Phật Giáo Đại Thừa Là Bà La Môn Giáo? (Hoàng Liên Tâm)

CÓ PHẢI PHẬT
GIÁO ĐẠI THỪA LÀ BÀ LA MÔN GIÁO?

Hoàng
Liên Tâm

Gần đây có người nói rằng Phật Giáo Đại Thừa là Bà La Môn Giáo, là tà ma ngoại đạo. Thật ra lời nói này không có gì mới lạ, nó đã có từ thời xưa, khi Phật Giáo đang ở trong thời kỳ tăng trưởng. Tuy nhiên, nhằm mục đích tránh sự hoang mang lo lắng cho những người mới bước chân vào đạo Phật và cho những Phật tử không có nhiều thì giờ nghiên cứu và điều tra về sự độc lạ giữa hai tôn giáo nên chúng tôi viết bài dưới đây. Chúng tôi không có ý so sánh hai tôn giáo lớn của trái đất, vì việc làm này là của những nhà học gỉa, mà chúng tôi chỉ đưa ra vài điểm độc lạ quan yếu có tính cách nền tảng giữa đạo Phật nói chung, Phật Giáo Đại Thừa nói riêng so với Bà La Môn Giáo. Bà La Môn Giáo ( Brahmanism ) hay còn gọi là Ấn Độ Giáo ( Hinduism ) là một tôn giáo lớn ở Ấn Độ có từ trên 1000 năm trước khi Phật Giáo sinh ra. Kinh Vệ Đà ( Veda ) xem như thể cỗi gốc của Bà La Môn Giáo và là suối nguồn của nền văn minh Ấn. Trong kinh có những bản thánh ca để ca tụng những vị thần, như thần lửa, thần núi, thần sông … Phần lớn ca tụng những vẻ đẹp huy hoàng, tưng bừng và mầu nhiệm của đời sống trong ngoài hành tinh. Toàn thể bộ kinh gồm bốn tạng : ( 1 ) Rig Veda : thi tụng cái biết, ( 2 ) Yajur Veda : nghi thức tế tự, ( 3 ) Sama Veda : ca vịnh thần chú, và ( 4 ) Atharva Veda : tiến hành ý nghĩa ba bộ kinh kia. Tư tưởng đa phần của Vệ Đà được biến hóa từ Đa thần qua Nhất thần, từ Nhất thần sang lãnh vực Triết học ngang qua ba thời đại : Vệ Đà Thiên Thư ( Veda ), Phạm Thiên Thư ( Brahmana ) và Áo Nghĩa Thư ( Upanishad ).

Theo
trình tự thời gian, tư tưởng Vệ Đà đã đạt tới quan
niệm một đấng Thượng Đế hữu ngã sáng tạo vũ trụ và
một bản thể tuyệt đối vô ngã làm cội nguồn chung cho
vũ trụ. Tuy nhiên, trên đại thể, kinh Vệ Đà vẫn thiên
trọng về quan niệm một đấng Thượng Đế hữu ngã hơn. 

Thời Vệ Đà Thiên Thư, dân chúng sùng bái cúng tế để cầu xin sự trợ giúp của những thần linh, hình thức phần chính thuộc về Đa Thần giáo. Sang thời kỳ Phạm Thiên Thư, Fan Hâm mộ chán việc tế lễ và thờ tự nhiều Thần, nên tuyển lọc lại vài vị Thần quan trọng để phụng thờ, sau thờ một Thần là đấng Phạm Thiên ( Brahma ), vị thần tối cao toàn năng, siêu việt, phát minh sáng tạo ra vạn vật ngoài hành tinh. Thế là đối tượng người tiêu dùng tín ngưỡng của phần lớn dân Ấn Độ chuyển từ Đa thần giáo sang Nhất thần giáo. Qua đến thời kỳ Áo Nghĩa Thư không chỉ số lượng giới hạn trong nghi thức tế tự, mà gồm có môn triết học cao siêu. Áo Nghĩa Thư là những bộ kinh luận được những giáo sĩ Bà La Môn trước tác nhằm mục đích khai triển nền giáo lý Vệ Đà trên phương diện triết học. Trong khi những kinh Vệ Đà chú trọng về nghi thức thờ phụng thì Áo Nghĩa Thư muốn khám phá thêm về tự ngã và tự thể của con người và mối liên hệ của chúng với bản thể tuyệt đối của ngoài hành tinh vạn vật. Nội dung cơ bản của Áo Nghĩa Thư cho rằng con người, cũng như mọi chúng sinh đều có một tự thể bất sinh, bất diệt, thường tịch và vô trụ như Bản thể tuyệt đối, thường được gọi là Atman hay Tiểu ngã ( một linh hồn bất diệt ). Khi tự ngã của con người hay của chúng sinh chưa hoà nhập với Bản thể tuyệt đối ( Brahman, đấng Phạm Thiên hay Đại Ngã ), thì Tự ngã của con người vẫn còn phải luân hồi trong vòng sinh tử. Họ chủ trương “ Brahma-Atman giống hệt ” và con người giải thoát là con người hoà đồng vào bản thể của thiên hà. Tiểu Ngã hoà đồng với Đại Ngã vô biên trong một trạng thái hằng hữu vĩnh cửu. Trên địa hạt xã hội, dân chúng Ấn Độ hồi đó được phân loại thành bốn giai cấp : ( 1 ) Hàng Tăng lữ thuộc giai cấp Bà La Môn ( Brahman ), ( 2 ) Vua chúa thuộc giai cấp Sát Đế Lỵ, ( 3 ) Thương buôn, nông phu và thợ thuyền thuộc giai cấp Phệ Xá ( Vaisya ), và ( 4 ) Tiện dân bần hàn thuộc giai cấp Thủ Đà La ( Sùdra ). Hệ thống giai cấp này theo chính sách cha truyền con nối, những người khác giai cấp không được cưới nhau, không được cùng nhau hành lễ tế tự và không được ăn chung bàn. Giai cấp Thủ Đà La là giai cấp cùng đinh bị khinh miệt và bị hành hạ, nên đời đời làm nô lệ Giao hàng cho ba giai cấp trên. Giai cấp này bị khinh bỉ đến nỗi một người Thủ Đà La đến gần một giếng nước, thời giếng nước ấy xem như đã trở thành dơ bẩn, không dùng được cho ba giai cấp trên và người Thủ Đà La nào vi phạm tội ấy hoàn toàn có thể bị ném đá cho đến chết. Chính sự tẩy chay này đã gây ra một tổ chức triển khai xã hội cực kỳ bất công. Cho đến cuối thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch đẳng cấp và sang trọng Bà La Môn trọn vẹn ngự trị trên toàn thể dân chúng Ấn, họ hợp nhất quyền lực tối cao chính trị vào quyền lực tối cao tôn giáo, đặt thêm nhiều nghi lễ tế tự phiền phức để trói buộc dân chúng nhằm mục đích củng cố giai cấp thống trị. Thời kỳ này có nhiều luận chấp về Tự Ngã và phát sinh nhiều phe phái, từ những luận chấp về quá khứ, về tương lai, cho đến luận chấp về hiện tại Niết Bàn. Tất cả những luận chấp này đều dựa vào sự xúc đối phân biệt của sáu giác quan ( mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thức ). [ 1 ] Trong khung cảnh ấy, nền giáo lý đạo Phật sinh ra như một luồng gió mới, một cuộc cách mạng giải phóng con người ra khỏi thực trạng bất công khắc nghiệt về giai cấp xã hội, thoát khỏi ngục tù nô lệ tư tưởng, khỏi những nghi lễ tế tự phiền phức của hàng giáo sĩ duy nhất Bà La Môn. Còn về nội dung giáo lý thì có nhiều điểm dị biệt với Bà La Môn Giáo, như trong khi kinh Vệ Đà thường ca tụng vẻ huy hoàng, tưng bừng và mầu nhiệm của đời sống thì đức Phật, trong giáo lý Tứ Đế, Ngài nói rằng cuộc sống là bể khổ. Lời công bố này là cơ sở xuất phát ra nền giáo lý đạo Phật. Song điểm độc lạ độc lạ là giáo lý Vô Ngã của Phật, tương phản với giáo lý Ngã của Vệ Đà. Đây là điểm độc lạ quan yếu có tính cách nền tảng giữa Phật Giáo và Bà La Môn Giáo. Một đằng chủ trương những thuyết liên hệ đến Ngã, một đằng chủ trương hết thẩy những pháp là Vô Ngã, và cho rằng phải phá chấp ngã, vì chấp ngã là nguồn gốc sinh ra vô minh, mà vô minh là đầu mối của luân hồi sinh tử và khổ đau của con người. Một điểm độc lạ nữa ở mặt hiện tượng kỳ lạ xã hội rất dễ nhận thấy, đó là Phật giáo chủ trương bình đẳng giai cấp, bình đẳng giữa con người có máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn. Bình đẳng không riêng gì biểu lộ trong việc tiếp xúc xã hội mà còn biểu lộ trong tâm của mỗi người. Trong thời Đức Phật còn tại thế, hai sự thành công xuất sắc rõ nét nhất tại Ấn Độ là sự bãi bỏ chính sách giai cấp và sự thiết lập Giáo hội Tỳ Kheo Ni. Dù bất kể một bộ phái hay tông phái Phật Giáo nào từ trước cho đến thời nay cũng đều phải thừa nhận đó là hai nét nền tảng độc lạ giữa Phật Giáo và Bà La Môn Giáo. Chính vì hai điểm độc lạ này mà có 1 số ít Fan Hâm mộ và đạo sĩ Bà La Môn Giáo cho đến nay vẫn xem Phật Giáo như thể thù nghịch, cho rằng chính Đức Thế Tôn đã đả phá tôn giáo của họ, đã làm đảo lộn truyền thống cuội nguồn tôn ti trật tự xã hội của họ. Chúng tôi sẽ lần lượt lý giải cụ thể dưới đây, đặc biệt quan trọng trong lãnh vực tư tưởng và giáo lý : Trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc Phật Giáo, tính cách giống hệt trong độc lạ là một đặc tính điển hình nổi bật. Mặc dù những nhà Phật Giáo Nguyên Thuỷ và Phật Giáo Đại Thừa không đồng quan điểm với nhau về một số ít yếu tố, nhưng cả hai đều công nhận giáo lý Vô Ngã và Duyên Khởi là giáo lý nền tảng của đạo Phật, là giáo lý chung cho tổng thể những bộ phái hay tông phái Phật giáo. Vô Ngã là một trong ba thành phần của Tam Pháp Ấn, chỉ định tính cách đích thực giáo pháp của Phật, không hề nhầm lẫn với giáo pháp ngoại đạo. Tam Pháp Ấn theo Phật Giáo Đại Thừa là Vô Thường, Vô Ngã và Niết Bàn [ 2 ]. Nhưng theo Phật Giáo Nguyên Thuỷ là Vô Thường, Khổ và Vô Ngã. Vô Ngã cũng là duyên khởi vì vô ngã là duyên sinh biểu lộ ở mặt hiện tượng kỳ lạ và duyên sinh là vô ngã bộc lộ ở mặt thể tính. Sự kiện này được bộc lộ bằng mối quan hệ y tha ( paratantra ), như sóng là hiện thân của nước, và nước là thể tính của sóng. Chính do đó mà cả Phật Giáo Nguyên Thuỷ lẫn Phật Giáo Đại Thừa đều đồng ý chấp thuận rằng : “ Ai thấy được lý Duyên Khởi, người ấy thấy được Pháp ; Ai thấy được Pháp, người ấy thấy được lý Duyên Khởi ”. [ 3 ] Chính Đức Phật nói rằng Ngài và những Đức Phật thời quá khứ đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ giáo lý Duyên Khởi. [ 4 ] Và chính Bồ Tát Long Thọ cũng nói rằng, “ nếu không có Tứ Đế và Duyên Khởi, thời không có Phật, Pháp và Tăng, vì chính nhờ hai giáo lý này mà thực sự tuyệt đối mới chứng đạt và vì thế được gật đầu trong giáo lý của những nhà Đại Thừa. ” [ 5 ] Một lần sau khi nghe về Duyên Khởi, thầy A Nan thưa : “ Bạch đức Thế Tôn, lý Duyên Khởi hay quá mà cũng thật đơn thuần, dễ hiểu. Phật nói : “ Thầy đừng nghĩ như vậy, lý Duyên Khởi rất thâm thúy và nhiệm mầu. Thầy chưa hiểu được hết đâu. Người nào thấy được tính duyên khởi tức là thấy được Như Lai. ”. Câu nói đó phải học thuộc lòng. Tất cả giáo lý của đạo Phật đều lấy lý Duyên khởi làm nền tảng [ 6 ].

Nếu
đi vào phân tích giáo lý, thì từ nguyên lý Duyên Khởi
chúng ta thấy rõ vô ngã tính của các pháp. “Vô Ngã” không
phải là một thuyết triết lý siêu hình mà là một toa thuốc
trị liệu tâm linh có giá trị vô song. Muốn được giải
thoát con người cần phải phá chấp Ngã bằng cách thực hành. Đạo Phật là con đường trí tuệ của nhận thức Vô Ngã
và thực hành Vô Ngã. Thực hành bằng cách chân không
hoá ý thức. Trong kinh Trung Bộ (Majjihima Nikaya III) đức
Phật dạy các đệ tử của Ngài cách thực hành bằng phương
pháp chân không hoá ý thức một cách từ từ. Phải,
đạo Phật là đạo thực hành, nếu con người muốn giải
thoát ra khỏi luân hồi khổ đau, thì phải triệt để phá
chấp, phá chấp tiểu ngã cũng như phá luôn cả thành trì
cuối cùng mà Bà La Môn Giáo gọi là Đại Ngã, hay là cái
gì đi nữa và cuối cùng phải phá luôn cả cái ý niệm phá
đó nữa. Hòa Thượng Thích Minh Châu, trong một bài diễn
giảng tại Viện Đại Học Vạn Hạnh cho rằng “Khi đức
Phật mở ra con đường giải thoát bằng việc phá chấp, phá
bỏ tất cả mọi cố chấp và phá bỏ ngay việc cố chấp
vào chính đạo Phật, đức Phật chỉ muốn cho con người
ý thức tối hậu rằng chính Thực Tại hay Thực Thể cũng
là biểu tượng cuối cùng mà con người phải phá huỷ, để
được giải phóng toàn triệt.” [7]

Như trên đã trình diễn, tất cả chúng ta thấy rõ rằng Vô Ngã – Duyên Sinh là sự độc lạ nền tảng giữa đạo Phật nói chung và Đại Thừa Phật Giáo nói riêng so với Bà La Môn Giáo. Một đằng chủ trương những thuyết liên hệ đến chấp Ngã và Ngã sở, một đằng chủ trương hết thẩy những pháp là Vô Ngã. Với nguyên tắc Duyên Khởi, sáu mươi hai luận chấp về Ngã và Ngã sở của Ba La Môn Giáo được thiết lập trên cơ bản ngã tính đều đã được phủ nhận tận nền tảng và những yếu tố siêu hình bàn về nguồn gốc tự thể của những hiện hữu đều được xem là hý luận so với nguyên tắc Duyên khởi. Tuy vậy vẫn có người cho rằng Phật Giáo Đại Thừa mà sự sinh ra của Tánh Không luận của Bồ Tát Long Thọ với học thuyết “ Nhất thiết pháp không ” không phải là đạo Phật mà là đạo Bà La Môn. Không ! Phải nói ngay rằng học thuyết “ Nhất thiết pháp không ” không có trong tư tưởng Áo Nghĩa Thư của Bà La Môn Giáo. Nó được khai sinh từ hệ Bát Nhã, thuộc kinh tạng Đại Thừa phát sinh từ Đại Chúng Bộ, Open lần tiên phong tại miền Nam Ấn, TT truyền bá Phật Giáo Đại Thừa. Nhưng “ thực ra dòng tiết học này vốn đã được thai nghén từ trong kinh bộ Nguyên Thủy Nikaya trên nền móng cơ bản của những giáo lý Duyên Khởi, Vô Ngã và Vô Thường … ” [ 8 ] Được biết trong quy trình tăng trưởng tư tưởng Phật Giáo, trong thiên nhiên và môi trường biện biệt phân tranh của xã hội Ấn thời đó, kẻ nói có, người nói không, kẻ nói vừa có lẫn vừa không, kẻ nói chẳng có lại chẳng không ; Bồ Tát Long Thọ đã tái cấu trúc nguyên tắc Trung Đạo trên nền tảng phủ định triệt để : “ Nhất thiết pháp Không ” tức “ Hết thảy những pháp là Không ” bằng tám cái Không ; nhằm mục đích phá huỷ toàn bộ kiến chấp sai lầm đáng tiếc hay mọi định kiến về có, không, sinh, diệt .. v .. v .. “ Không ” ở đây không có nghĩa là “ không có gì hết ” hay là “ hư vô ” mà là không có thật như ta đã nhận thức hay không có thật theo cái thực tướng của nó. Không ở đây cũng là Trung Đạo, nó không dẫn tới có hay không, không dẫn tới gật đầu hay phủ nhận. Trung đạo ở đây không phải là trung đạo, theo nghĩa ở ngoài hai cực đoan mà là con đường dẫn đến Niết Bàn, “ con đường huỷ diệt mọi con đường, via negativa, con đường tự huỷ diệt … ” [ 9 ] Niết Bàn là Chân Không, là Bản thể tuyệt đối bất sinh bất diệt như trong Bát Nhã Tâm Kinh nói : “ Thị chư pháp không tướng, bất sinh bất diệt ” nghĩa là tướng Chân Không của những pháp ( tức những hiện tượng kỳ lạ ) không sinh không diệt. Thật ra, Trung Đạo của Đức Phật và Trung Đạo trong Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ tuy có khác nhau ở chỗ Trung Quán Luận là một mạng lưới hệ thống luận lý, nhưng không do đó mà Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ độc lạ hay chống trái với giáo lý đạo Phật Nguyên Thủy. Qủa là như vậy, trong Kinh Pháp Cú có nói : “ Tu sĩ đạt tới chân không ( sunna ), tâm linh tịch tịnh ( santacitta ), họ đạt được một niềm mừng thầm không thuộc trần gian ( amânusi rati ) khi họ đã đạt pháp hoàn thành xong. [ 10 ]. Pháp hoàn thành xong ở đây được hiểu là chân không. Ngoài ra trong cả hai hệ kinh tạng tiếng Pali và tiếng Hán đều có hai bộ kinh nói về Không : Kinh Tiểu Không ( Pali ) [ 11 ] Kinh Đại Không ( Pali ) [ 12 ], Kinh Tiểu Không ( Hán ) [ 13 ], Kinh Đại Không ( Hán ), [ 14 ] đều trình diễn khá rõ ràng nghĩa chữ Không. Điểm thiết yếu trong nền triết học Tánh không của Bồ Tát Long Thọ là muốn minh giải về Bản thể tuyệt đối, điều mà xưa kia Phật ít muốn giải bày. “ Việc tiến hành giáo lý của phái Đại Thừa có lẽ rằng cũng không trái với ý muốn của Đức Thích Ca, vì ở thời đức Thích Ca, dân trí còn thấp kém, nên có lẽ rằng đức Thích Ca đã không muốn lý giải những yếu tố siêu hình. Tới thế kỷ thứ nhất sau tây lịch, dân trí đã mở mang hơn, lại thêm những tông phái Bà La Môn đều nảy nở, nền giáo lý Phật cần phải tiến hành mới hoàn toàn có thể sống sót được .. ” [ 15 ]. Ngoài ra, việc minh giải của Bồ Tát Long Thọ cũng không ngoài quan điểm chính thống của đức Phật Thích Ca từng nhấn mạnh vấn đề về con đường trung đạo và nguyên tắc Duyên Khởi. Long Thọ cho rằng tổng thể những pháp trên trần gian này đều lệ thuộc lẫn vào nhau để mà sinh khởi. Về Bản thể tuyệt đối, Long Thọ nói rằng không hề lý giải theo những ý niệm của trần gian được vì nó là bất khả thuyết bởi ngôn từ. Nó ngoài phạm trù tứ cú của trần gian, nên chỉ tạm gọi là Chân Không. Chân Không cũng còn được gọi là Niết Bàn. Tưởng cũng cần ghi chú thêm ở đây là trước Bồ Tát Long Thọ 100 năm có Bồ Tát Mã Minh sinh ra vào thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch, tức vào cao điểm của thời kỳ phân phái trong Phật giáo và cũng vào thời gian phổ cập của Bà La Môn Giáo. Mã Minh theo Đại chúng bộ tức phái cấp tiến, đã trước tác thiên trường ca bất hủ về cuộc sống Phật Thích Ca, thần thánh hoá Ngài là con người thiên hà. Về địa hạt tirết học, Mã Minh trước tác bộ Đại Thừa Khởi Tín Luận, trong đó Mã Minh diễn đạt về Tự thể và Bản thể tuyệt đối ( hay Chân như ) và sự liên hệ giữ chúng với nhau qua ví dụ sóng và nước trong biển cả đại dương. Bản thể tuyệt đối như thể nước đại dương bát ngát, còn những Tự thể chúng sinh như những làn sóng. Nước của đại dương tức là cái thực chất yên bình thường tịch, vô sinh vô trụ của Bản thể. Sóng chỉ là một thực tại tương đối sinh diệt có tính cách huyễn ảo. Sóng chỉ là nước nhấp nhô rồi lại trở lại đại dương. Chính điều diễn đạt này mà về sau một số ít người cho đó là quan điểm của Phật giáo và một số ít người khác cho rằng đó là quan điểm của Bà La Môn Giáo. Tuy nhiên, xét cho kỹ tất cả chúng ta thấy rằng đó là thuyết “ vạn vật đồng nhất thể ” vốn hàm chứa trong kinh Vệ Đà và cũng là ý niệm của Áo Nghĩa Thư Upanishads, thường được gọi là Adwaita, tức Phi Nhị Nguyên môn, nghĩa là không có hai. Nguyệt Khê Thiền Sư cho rằng : “ Đại Thừa Khởi Tín Luận lấy nước dụ cho Chơn Như, lấy sóng dụ cho sanh diệt, ấy là sai lầm đáng tiếc “ và nói : “ tác giả Đại Thừa Khởi Tín Luận là ngoại đạo mạo danh Ngài Mã Minh để truyền bá … ” Ngài Nguyện Khê lý giải : “ Chân như là bản thể Phật tánh, sanh diệt là tính năng vọng tưởng của bộ não, hai thứ chẳng dính dáng với nhau, Chơn như thể như như bất động, chẳng có đổi khác, chẳng khởi vọng niệm, nếu Chơn như hay khởi vọng niệm sanh diệt như nước nổi làn sóng thì Chơn như cũng có sanh diệt luân hồi, chẳng phải bản thể cùng tột của Phật tánh. Kinh Lăng Già dùng nước biển dụ cho thức thứ tám, làn sóng dụ cho thức thứ bảy mới đúng với chánh lý … ” [ 16 ] Trong khi tiểu Ngã của Ba La Môn Giáo tìm cách giải thoát bằng cách hoà đồng vào Đại Ngã, thì người Phật giáo giải thoát bằng cách chân không hoá toàn bộ mọi ý niệm, mọi tư tưởng chấp ngã và đam mê, xem chính mình là không, vạn sự vạn hữu là không để đạt Chân không, trong đó không còn có phân biệt chủ thể với khách thể, không còn có ý thức với vô thức, không còn có hữu hay vô, mà chỉ còn là tuyệt đối Chân không. Chân Không ở đây cần hiểu là Chân Không Diệu Hữu. Đối với Phật Giáo, tổng thể những ý niệm chủ khách, sắc không, niết bàn-sinh tử, hữu-vô, nhị nguyên-nhất nguyên, thường-đoạn, đều chỉ là những vọng chấp đối đãi. Trong sự giải thoát này không hề nói tới việc hoà đồng hay hoà nhập được vì muốn hoà đồng hay hoà nhập phải yên cầu sự hiện hữu của hai hữu thể hay ngã thể mà trạng thái Chân không hay Niết Bàn lại chính là trạng thái trong đó mọi tư tưởng, mọi ý niệm gồm có ý niệm về chấp ngã và ngã sở đều tịch diệt. Cái giải thoát của Bà La Môn Giáo chưa thể xem là giải thoát được vì vẫn còn Ngã, dù là Đại Ngã. Phật Giáo không chủ trương có hay không có Thượng Đế. Không chủ trương có hay không có Đại Ngã hay bất kể nguyên tắc tối cao nào ngoài nguyên tắc Duyên Khởi. Thật ra Bà La Môn Giáo có rất nhiều tông phái và ý niệm giải thoát của họ cũng có nhiều dị biệt với nhau. Gần thời đại tất cả chúng ta, họ có sáu tông phái chính với nguyên tử luận, luân lý luận, số luận, nhị nguyên luận, nhất nguyên luận và phi nhị môn luận. Trong số đó có phái Vedanta, một hệ phái được xem là chính thống hơn hết của Bà La Môn Giáo. Phái này còn gọi là phi nhị pháp môn, nghĩa là không có hai ( Adwaita ), cũng hàm nghĩa vạn vật đồng nhất thể. Đối với Phật Giáo, giáo lý đạo Phật là một pháp môn phi nhất, phi nhị, phi hữu, phi vô, phi sắc, phi không, phi đa nguyên, phi thiểu nguyên. Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận toàn bộ, mà theo Trung Quán Luận, “ nói phủ định nhằm mục đích khẳng định chắc chắn, chứng minh và khẳng định một “ chân trời ” không khi nào hiện hữu trong đối sánh tương quan đối đãi .. ” [ 17 ]. Điều này cũng chính là “ ngôn từ đạo đoạn tâm hành ý diệt ”. Mọi tư tưởng chấp Ngã, tiểu Ngã lẫn đại Ngã đều bị quét sạch, kể cái công cụ quét cũng bị quét luôn. Ngay cả đến giáo lý của Phật giảng dạy chỉ là phương tiện đi lại như là con đò đưa người qua sông. Khi đã đến được bến đò thì phải bỏ đò và người đưa đò tức Phật cũng phải bỏ luôn và phải bỏ luôn cả cái vọng chấp gọi là bến đò nữa mới hoàn toàn có thể đạt tới cái mà sách vở gọi là Niết Bàn, Chơn Như. Đối với Phật Giáo, không có yếu tố nhập Niết Bàn hay trở thành Niết Bàn Bởi vì có nhập, có vào hay có trở thành là có đối đãi, còn trong vòng nhị nguyên tương đối. Niết Bàn hay Chân Như siêu việt toàn bộ nên người ta nói Như Lai tịch diệt hay Như Lai Niết Bàn thế thôi. Niết Bàn chính là Chân không và Chân không chính là Niết Bàn. Vậy thử hỏi Niết Bàn và trần gian hay Phật và chúng sinh là hai hay một ? Theo chủ thuyết Bất Nhị của Vệ Đà Vedanta thì không có hai ( Adwaita ), tiểu Ngã hoà nhập với Đại Ngã thành một, không có gì độc lạ. Nhưng so với Phật giáo, Long Thọ Bồ Tát nói rằng : “ Niết Bàn và trần gian không có gì sai biệt. Niết Bàn và trần gian chúng không hai, không khác. ” Đây là một điểm khó hiểu và dễ gây ngộ nhận, nhưng Thiền Sư Bạch Ẩn đã cho một ví dụ rất dễ hiểu về sự nhất tính giữa Phật và chúng sanh hay giữa Niết Bàn và trần gian. Ông viện dẫn “ băng ( ice ), mà thực chất là nước. Ngoài nước không hề có băng. Khi ướp lạnh là băng, khi tan chảy là nước. Có một điều khó hiểu. Nếu tất cả chúng ta nói băng và nước là hai vật giống nhau. Đâu phải thế phải không ? Nếu tất cả chúng ta đi mua băng ( nước đá ), tất cả chúng ta sẽ không nhận nước lã ( water ), do đó không phải tương đương. Nhưng tất cả chúng ta không hề nói rằng băng và nước không giống nhau, chính do ngoài nước không có băng, cả hai không phải dị biệt. Băng và nước không phải đồng cũng không phải dị. Sự đối sánh tương quan giữa Phật và chúng sinh ( hay giữa Niết Bàn và trần gian cũng thế ) ”. [ 18 ]


bài viết có giới hạn nên chúng tôi chỉ có thể trình bày
vài điểm khác biệt quan yếu có tính cách nền tảng giữa
đạo Phật và đạo Bà La Môn. Đó là tính chất bình
đẳng và nguyên lý Duyên khởi của đạo Phật. Dù bất cứ
một bộ phái hay tông phái Phật Giáo nào từ trước cho đến
ngày nay cũng đều phải thừa nhận đó là những nét nền
tảng khác biệt giữa Phật Giáo và Bà La Môn Giáo. Vậy những
ai cho rằng Phật Giáo Đại Thừa là Bà La Môn Giáo quả là
một điều không tưởng.

Hoàng
Liên Tâm

Kinh
Sách Dẫn Chiếu:

[1]
Thích Minh Châu, Kinh Trường Bộ I, Kinh Phạm Võng, tr.
11-91, Viện Nghiên Cứu PHVN 1991

[2]
Thích Minh Châu, Kinh tạng Bắc Tông, Kinh Tạp A Hàm, Kinh số
262, quyển thứ 10 và Đại Trí Độ Luận của Bồ Tát long
Thọ sáng tác vào khoảng thế kỷ thứ hai sau Công nguyên,
cũng nói rất rõ rằng Tam Pháp Ấn là Vô Thường, Vô Ngã
và Niết Bàn.

[3]
Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ I, số 28 Đại Kinh Dụ Dấu Chân
Voi, tr. 422, ĐTKVN Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam 1992,
Tương Ưng Bộ III, tr. 144 và Tiểu Bộ Kinh I, tr. 48 
[4]
Thích Minh Châu, Kinh Tương Ưng Bộ II, Kinh Tương Ưng Nhân Duyên,
bản dịch của Thích Minh Châu, Tu Thư Phật Học Vạn Hạnh
1982 tr. 5 
[5]
Đại Thừa và Sự Liên Hệ Với Tiểu Thừa, nguyên tác:Nalinaksha.
Dutt, bản dịch HT. Minh Châu, NXB TP. HCM 1999, tr. 80

[6]
Trái Tim của Bụt, Thích Nhất Hạnh, tr. 27, Lá Bối 1999

[7]
Thích Minh Châu, Tôn giáo Phải Là Con Đường Giải Thoát Cho
Việt Nam và Thế Giới, Tư Tưởng Vạn Hạnh, Số I (8-67),
trang. 368

[8]
Lịch Sử Tư Tưởng Và Triết Học Tánh Không, Thích Tâm
Thiện NXB TP. HCM 1999, tr. 14

[9]
Phạm Công Thiện, Hố Thẳm Tư Tưởng, An Tiêm Saigon tái bàn
lần 2, tr. 167

[10]
Thích Minh Châu, Kinh Pháp Cú, Thiền Viện Vạn Hạnh 1996 tr.
202 nguyên văn chữ Pali và Việt như sau:

Sunnàgàram
pavitthasa / Bước vào ngôi nhà trống,

Santacittassa
bhikkuno / Tỳ kheo tâm an tịnh,

Amànusì
ratì hoti / Thọ hưởng vui siêu nhân

Sammà
dhammam vipassato. / Tịnh quán theo chánh pháp.

[11]
Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ III, 121 Kinh Tiểu Không tr. 291-299
(Pali Tạng)

[12]
Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ III, 122 Kinh Đại Không tr. 301-315
(Pali Tạng)

[13]
Thích Thiện Siêu, Kinh Trung A Hàm, Tiểu Không Kinh, số 190,
Đại I, 736c (Hán Tạng)

[14]
Thích Thiện Siêu, Kinh Trung A Hàm, Đại Không Kinh, số 191,
Đại I, 738 a (Hán Tạng)

[15]
Nghiêm Xuân Hồng, Biện Chứng Giải Thoát trong Tư Tường Ấn
Độ, Ấn Quán Hy Mã Lạp Sơn Saigon 1966 
[16]
Nguyệt Khê Thiền Sư-Việt dịch: Thích Duy Lực, Cội Nguồn
Truyền Thừa và Phương Pháp Tu Trì của Thiền Tông, Từ Ân
Thiền Đường 1991, tr. 79

[17]
Thích Tâm Thiện, Lịch Sử Tư Tưởngvà Triết Học Tánh không,NXB
TP. HCM 1999, tr. 122

[18]
Ama Kuki Sessan – Bạch Ẩn Thìền Định Ca, Việt dịch Bạch
Hạc, Viên Chiếu 1988, tr. 67

Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp