Đạo Cao Đài | Patrimoines Partagés – France Vietnam
Toàn bộ tư liệu về đạo Cao Đài Open, tính từ lúc tôn giáo này chính thức sinh ra ( năm 1926 ) cho đến 1945, còn lại cho đến nay, hoàn toàn có thể chia thành sáu cụm như sau :
Tư liệu về các toà thánh: như Thánh thất Vũng Liêm (1928), Thánh thất Mỹ Tho (1928), Thánh thất Mỹ Tho: Thánh ngôn về chánh tà yếu lý (1931), Châu tri và chương trình: Toà thánh Tây Ninh (1928), Toà thánh Tây Ninh (1945)…
Các văn bản hành chính, hoặc ghi chép liên quan đến sự ra đời hoặc hoạt động của đạo phái, hoặc của tín đồ Cao Đài comme Les sociétés secrètes en terre d’Annam của Geoges Coulet (1926), Bài diễn văn của Hộ Pháp Phạm Công Tắc đọc tại Toà thánh Tây Ninh của Phạm Công Tắc (1928), Lịch sử của quan phủ Ngô Văn Chiêu là người đã sáng lập đạo “Cao đài” 1878-1932 (1932), Điều lệ Cao đài thượng đế hội giáo (1928),…
Bạn đang đọc: Đạo Cao Đài | Patrimoines Partagés – France Vietnam
Tư liệu diễn giảng về đạo pháp, bao gồm những yếu lĩnh cơ bản của tông pháp hoặc những phép tắc cụ thể trong đời sống thường ngày, như:
Pháp chánh truyền được công bố sau lễ khai đạo ngày 15 tháng 10 năm 1926 tại chùa Gò Kén, làng Long Thành, Tây Ninh. Văn bản này được coi như Hiến pháp so với đạo Cao Đài, và có nội dung ấn định những hàng phẩm chức sắc, chức việc trong đạo, như : Ấn định số lượng nhân sự từng phẩm, quyền hành và nghĩa vụ và trách nhiệm từng phẩm, phương pháp cầu phong và cầu thăng, pháp luật về phẩm phục áo mũ chức sắc, chức việc .
Thánh ngôn hiệp tuyển ( 1927 – 1963 ) dày 102 trang, do những chức sắc hạng sang của hội ( Thượng phẩm Cao Quỳnh Cư, Bảo pháp Nguyễn Trung Hậu, Đầu sư Ngọc Lịch Nguyệt – tức Lê Văn Lịch ) biên soạn. Đây là một tuyển chọn lời dạy của những đấng thần, thánh, tiên, phật .
Và những kinh kệ như Đại đạo Tam kỳ Phổ độ Kinh ( 1926 ), Kinh cao đài ( 1928 ), Kinh cúng thứ thời thánh ngôn – cảm ứng – tang tế và cầu siêu ( 1929 ), Kinh nhựt thời ( 1932 ), Kệ nhựt thời ( 1932 ), Tam nguơn giác thế kinh ( 1932 ), Tam nguơn giác thế kinh ( 1932 ) …
Đáng chú ý, có một mảng sách yếu chỉ dành cho nữ giới, hoặc về đời sống lứa đôi, chẳng hạn: Thánh thất nhơn ái nữ phái: Tam tòng tứ đức luận (1930), Huấn nữ thánh ngôn (1931), Đạo mạch tri nguyên: Phu thê yếu luận của Huê Chương (1929)…
Tư liệu minh chứng hoặc diễn giảng về tính hỗn tạp của đạo Cao Đài, như: Tam giáo đạo tổ hiệp nhứt lưu truyền (1928), Tiên phật hợp tâm (1932)…
Đặc biệt là những ấn phẩm liên quan đến lịch sử hình thành và hoạt động của đạo Cao Đài. Ở mảng tư liệu này, nguồn tiếng Pháp. Năm 1948 và 1949 tại Paris, Gabriel Gobron – nhà văn Pháp đồng thời là tín đồ đạo Cao Đài – cho xuất bản hai ấn phẩm về lịch sử đạo Cao Đài là Histoire du caodaïsme và Histoire et philosophie du caodaïsme. Trong hai công trình phẩm này, G. Gobron đã phân tích vai trò của Thần linh học trong việc hình thành và phát triển của đạo Cao Đài. Ông cũng giới thiệu giáo lý, luật lệ, lễ nghi, tổ chức giáo hội; và nhận định: đạo Cao Đài có giá trị liên kết các phần tử, liên kết những người đang sống của thời hiện tại trong tất cả các địa phương, với những người đã chết của thời quá khứ, và chuẩn bị cho kiếp tái sinh vị lai.
Ngoài ra còn có những ấn phẩm tiêu biểu vượt trội sau : Cultes et religion l’Indochine annamite ( 1928 ) của Geoges Coulet, Compte rendu de mandat de H. Marinetti, délégué au Conseil Supérieur des Colonies ( Báo cáo về nhiệm kỳ của H. Marinetti ) ( 1933 ), Etude sur le caodaïsme et ses dissidences in song ngữ Pháp Việt ( 1940 ) .
Còn lại là chữ quốc ngữ, như: Đại đạo vấn đáp căn nguyên của Thái Thơ Thanh (1928), Cao Đài đàm: Quái giáo nghị của Đặng Thúc Liêng (1928), Nói chuyện đạo nước mình của Nguyễn Tư Thức (1929), Cái án đạo Cao Đài của Đào Trinh Nhất (1929), Cải án Cao Đài của Băng Thanh (1929), Đại đạo căn nguyên của Nguyễn Trung Hậu (1930), Chánh tà thiệt luận phản đối Cao – Đài đàm Quái – giáo nghị của Nguyễn Văn Kiết (1930).
Đây là nguồn tư liệu quan trọng cho những sử gia lịch sử dân tộc tư tưởng, lịch sử dân tộc tôn giáo hoặc những nghiên cứu và điều tra sử dụng để khám phá, diễn giải, nhìn nhận lịch sử dân tộc tôn giáo này. Trong đó, đáng quan tâm là hai ấn phẩm mang tính đối thoại can đảm và mạnh mẽ. Đó là : Cái án đạo Cao Đài ( Đào Trinh Nhất, 1929 ). Trong biên khảo này, tác giả đã trình diễn quy trình sinh ra, giáo lý, phương pháp hành đạo của Cao Đài, như những hoạt động cơ bút ( nghi lễ cầu cơ và chấp bút, là một nền tảng của đạo Cao Đài ) của những vị công chức dẫn đến sự sinh ra của đạo Cao Đài. Và Đào Trinh Nhất cho rằng : đạo Cao Đài là một tà giáo, không có những chính kiến rõ ràng, luôn bộc lộ sự hỗn tạp trong giáo lý, cách hành đạo, cũng như cơ cấu tổ chức tổ chức triển khai ; do đó, đạo Cao Đài sẽ “ ngăn trở sự tiến hóa, có hại cho hoạt động và sinh hoạt dân gian và đào sâu hố ngăn cách giữa giai cấp này với giai cấp kia ”. Lập tức, tác giả Băng Thanh viết Cải án Cao Đài phản biện lại. Tác giả Băng Thanh cho rằng sự tổng hợp giáo lý mà đạo Cao Đài bộc lộ là một góc nhìn đạo đức, và nó biểu lộ ý nghĩa sâu xa của đạo Cao Đài .
Năm 1930, Nguyễn Trung Hậu viết Đại đạo căn nguyên trình bày chi tiết về lịch sử hình thành đạo Cao Đài. Tác giả không đưa quan điểm của mình vào trong bài viết, chỉ miêu thuật chi tiết những sự kiện đã diễn ra trong đạo, từ việc thu nhận đệ tử đến việc trình Tờ Khai đạo lên Chính phủ Nam kỳ, tường thuật về Ngày khai đạo, sự kiện quỷ phá trong ngày khai đạo… Đây có thể được xem là công trình lịch sử chi tiết của đạo Cao Đài từ khi manh nha hình thành đến khi dời cơ sở thờ tự về xây dựng Tòa thánh Tây Ninh vào năm 1927.
Như vậy, hoàn toàn có thể coi những tư liệu về đạo Cao Đài trước 1945 tại Nước Ta đã phân phối những thông tin về 3 phương diện của một tôn giáo, đó là : đức tin ( được tạo dựng từ những lịch sử một thời, truyền thuyết thần thoại, … về những đấng thần linh, hoặc sự vật vấn đề rất thiêng, linh nghiệm ), việc thực hành thực tế nghi lễ, và những người thực hành thực tế nghi lễ của tôn giáo này .
Đăng tải tháng 2 năm 2021
Source: https://thevesta.vn
Category: Phật Pháp