Thần nữ là gì? Chi tiết về Thần nữ mới nhất 2021 | LADIGI
Một bức họa vào thế kỷ thứ 4 vẽ Hylas và những thần nữ trang trí cho Đại Giáo đường Junius Bassus“ Tiên nữ ” đổi hướng tới đây. Đối với Tiên Nữ ( xu thế ), xem Tiên nữ ( khuynh hướng ) .
Thần nữ[cần dẫn nguồn] (tiếng Hy Lạp: νύμφη, nýmphē) trong Thần thoại Hy Lạp là một nữ thần nhỏ thường gắn liền với một địa danh cụ thể hay vùng đất nào đó. Khác với các vị thần, thần nữ thường được xem như những sinh vật siêu nhiên sống và mang lại sinh khí cho những hiện tượng tự nhiên và thường được khắc họa với hình ảnh của những thiếu nữ trẻ trung, xinh đẹp và quyến rũ, yêu thích ca hát nhảy múa. Chính sự tự do luyến ái của họ đã làm họ khác biệt với những người vợ, những cô con gái vốn bị ràng buộc theo khuôn phép chặt chẽ của các thành bang. Các thần nữ sống trên các vùng núi cao hay những khu rừng nhỏ, trong các con sông và dòng suối. Cũng có khi họ sống trong cây cối hay các thung lũng và những hang động. Dù các thần nữ chẳng bao giờ chết vì tuổi già hay bệnh tật, thậm chí nếu giao hợp với một vị thần, họ còn có thể sinh ra những đứa con bất tử nhưng chính bản thân họ lại không cần bất tử. Họ có thể chết bằng rất nhiều cách và lý do khác nhau.
Một số thần nữ khác luôn ở dưới hình thức của những cô gái trẻ lại là tùy tùng của những vị thần như thể Dionysus, Hermes, Pan hay nữ thần săn bắn Artemis. [ 1 ] Các thần nữ thường là tiềm năng theo đuổi của những nhân dương. Họ cũng thường gắn liền với những vị thần quyền phép hơn như thần săn bắn Artemis, thần tiên tri Apollo, thần hội hè và vị thần rượu vang Dionysus, và những vị thần khác như thần đồng quê và Hermes .
Những cuộc hôn nhân gia đình mang tính hình tượng giữa một thần nữ và một vị trưởng tộc, thường là eponym của một dân tộc bản địa, là một chủ đề được nhắc lại rất nhiều lần trong những thần thoại cổ xưa Hy Lạp. Sự phối hợp này thường mang đến quyền lực tối cao cho những vị vua và huyết thống của ông .
Mục lục
Mục lục
- 1 Từ nguyên
- 2 Trong văn hóa truyền thống dân gian của Hy lạp văn minh
- 3 Ý nghĩa dục tính văn minh
- 4 Phân loại
- 5 Xem thêm
- 6 Tham khảo
Từ nguyên
[sửa|sửa mã nguồn]
Thần nữ là hiện thân của những hoạt động giải trí phát minh sáng tạo và nuôi dưỡng của tự nhiên, thường gắn với những dòng suối mang đến sự sống như Walter Burkert ( Burkert 1985 : III. 3.3 ) đã viết “ Ý tưởng những dòng sông là những vị thần và những con suối sinh ra những thần nữ không chỉ có nguồn gốc sâu xa từ những bài thơ mà thật ra chính là từ tín ngưỡng và nghi lễ ; việc thờ phụng những nữ thần này bị số lượng giới hạn chỉ vì người ta không thể nào phân biệt rõ ràng được họ với một vị thần nào đó ở địa phương ” .
Từ νύμφη trong Hy Lạp có nghĩa là “cô dâu” hay “che mạng” do đó gắn liền với một người phụ nữ trẻ có thể tiến tới hôn nhân. Ngoài ra cũng có một liên hệ khác (tương tự với từ nubere trong tiếng Latin và Knospe trong tiếng Đức) với ý tưởng “nhú lên” (theo Hesychius, một trong những ý nghĩa của νύμφη là “nụ hồng”.
Trong văn hóa truyền thống dân gian của Hy lạp văn minh
[sửa|sửa mã nguồn]
Tín ngưỡng của người Hy lạp cổ đại so với những thần nữ vẫn sống sót trong rất nhiều khu vực đến tận những năm đầu của thế kỷ 20 dưới hình thức của “ Nereides ” thần của những vùng biển, con gái thứ 50 của Nereisvà Doris. Vào thời gian đó, John Cuthbert Lawson đã viết : “ … khắp hang cùng ngõ ngách của Hy lạp, đâu đâu cũng sống sót những câu truyện mẹ kể con nghe nhắc nhở phải cẩn trọng với những nữ thần biển bởi chúng hay trộm cắp và lòng dạ rất độc ác. Ngược lại, đàn ông lại xưng tụng vẻ đẹp, niềm đam mê cũng như truyền miệng những câu truyện về những ỵêu giận thất thường của họ. Thậm chí đã vượt quá khuôn khổ của tín ngưỡng, tôi đã từng gặp rất nhiều người chứng minh và khẳng định họ đã gặp nàng thần nữ của biển cả này ( hay tối thiểu là họ cũng quả qyết tin thế ) mà điều kỳ lạ là toàn bộ những nhân chứng này như có sự thỏa thuận hợp tác trước khi miêu tả lại hình dáng cũng như phục trang của cô ta ”. [ 2 ]
Các thần nữ thường sinh sống ở những người hẻo lánh, cách xa con người nhưng vẫn hay bị phát hiện bởi những khách độc hành, vẳng nghe tiếng hát tiếng đàn của họ rồi lần theo đó để thấy họ đang nhảy múa, ca hát hay dầm mình trong những dòng nước mát giữa trưa nóng nực hay trong đêm thanh vắng. Thần nữ cũng hay Open trong những cơn gió lốc ; tuy nhiên, những cuộc gặp gỡ như vậy thường là rất nguy khốn làm cho những người không suôn sẻ bị câm, say đắm những thần nữ một cách mù quáng, hoàn toàn có thể là điên khùng hay thậm chí còn là cái chết. Khi mái ấm gia đình nghĩ rằng đứa con mình gặp phải Nereides, họ thường cầu xin thánh Saint Artemidos
Ý nghĩa dục tính tân tiến
[sửa|sửa mã nguồn]
Nữ thần Aphrodite” của Sophie Anderson
Chính vì hình ảnh của những thần nữ trong truyền thuyết thần thoại luôn là những người tự do luyến ái với cả hai giới tùy theo sở trường thích nghi của mình và trọn vẹn vượt ra khỏi năng lực trấn áp của người đàn ông, thuật ngữ này thường được gán cho những người đàn bà có hành vi tương tự như. ( Chẳng hạn như, tựa đề của tác phẩm trinh thám Perry Mason “ Vụ án Negligent Nymphe ” của Erle Stanley Gardner đã bắt nguồn từ chính ý nghĩa này. )
Thuật ngữ cuồng dâm đã được tâm lý học dùng để chỉ “mong muốn có được những hành vi tính dục của con người ở mức độ cần được xem xét lâm sàng cụ thể” và người cuồng dâm là những người mắc phải hội chứng này. Tuy nhiên, do thuật ngữ này thường được hiểu là người đàn bà cuồng dâm, những nhà chuyên môn ngày nay thích dùng thuật ngữ hypersexuality thay vì nymphomania để chỉ hội chứng này ở cả nam lẫn nữ.
Từ nymphet được dùng để chỉ một cô gái phát triển sinh lý sớm và đã trở thành nổi tiếng với tác phẩm Lolita của Vladimir Nabokov. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là Humbert Humbert đã dùng thuật ngữ này rất nhiều lần để chỉ Lolita.
Truyền thuyết kể rằng những thần nữ nếu kết đôi với thần biển Poseidon sẽ sinh ra một sinh vật lịch sử một thời là cyclops. [ 3 ]
Phân loại
[sửa|sửa mã nguồn]
Theo H.J. Rose, tất cả các tên gọi của những nhóm thần nữ khác nhau đều là tính từ số nhiều giống cái đi với danh từ nymphai và không có một sự phân loại nào có thể đáp ứng tất cả các nguyên tắc và yêu cầu. Do đó, các nhóm thần nữ thường hay bị trùng nhau và càng gây khó khăn hơn cho một bảng phân loại chính xác. Rose cho rằng dryad và hamadryad là các tiên cây nói chung, meliai là tiên cây tần bì và naiad là các tiên dưới nước.[4]
Xem thêm
[sửa|sửa mã nguồn]
- Thần thoại
- Phật mẫu
- Tiên nữ
- Thánh mẫu
Tham khảo
[sửa|sửa mã nguồn]
-
^
Xem thêm Jennifer Larson, “Handmaidens of Artemis?”, The Classical Journal 92.3 (February 1997), trang 249-257.
-
^
Lawson, John Cuthbert (1910). Modern Greek Folklore and Ancient Greek Religion (ấn bản 1). Cambridge: Cambridge University Press. tr. 131.
-
^
“A Quick History on the Nymphs of Greek Mythology”. About.com Education .
-
^
Rose, Herbert Jennings (1959). A Handbook of Greek Mythology (ấn bản 1). New York: E.P. Dutton & Co. tr. 173. ISBN 0-525-47041-7.
Bản mẫu : Thần thoại Hy Lạp ( thần nữ )
Source: https://thevesta.vn
Category: Giải Trí