Giải Mã Bí Ẩn Kinh Pháp Hoa

Giải Mã Bí Ẩn Kinh Pháp Hoa

Unveiling the Secret of the Lotus Sutra

Lê Sỹ Minh Tùng

blank Pháp Hoa là kinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duy và suy luận của con người bình thường. Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Pháp Hoa bắt đầu được phát triển, truyền bá rất sớm và rất rộng rãi vào khoảng 700 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết bàn. Kinh giới thiệu rất nhiều pháp hội và rất nhiều các vị Bồ Tát cùng chư Phật trải suốt chiều dài của kinh. Biết bao cảnh giới bất tư nghì xuất hiện trong cả hai phần Tích môn và Bổn môn. Tuy kinh có dài, ý nghĩa sâu xa, nhưng vẫn không ra ngoài mục đích giúp chúng sinh “Khai, Thị, Ngộ, Nhập” Tri Kiến Phật. Nhưng quan trọng nhất vẫn nằm trong phần chót,  phần Nhập Phật tri kiến, là phần thực hành để trở về sống với trí tuệ Phật của mình.  

Thế nào là Tri Kiến Phật?

Tri Kiến là thấy biết cho nên vì thế Tri Kiến Phật nghĩa là cái thấy biết của Phật. Ở đây tuy Kinh Pháp Hoa chỉ nói thấy, biết nhưng đây chỉ là cách nói tóm gọn của kinh, chứ thật ra nó gồm có cả thấy, nghe, hay, biết mà tầm cỡ thường gọi là Kiến, Văn, Giác, Tri tức là cái tâm của con người. Về thực ra con người có năm cánh cửa để đảm nhiệm từ quốc tế bên ngoài là mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân cảm hứng và sau đó đưa tổng thể vào tâm để trở thành cái biết tức là lục thức mà tầm cỡ thường gọi là tâm. Năm cái biết đầu gồm có nhãn thức ( cái biết do mắt nhìn thấy cảnh sắc ), nhỉ thức ( cái biết do tai nghe âm thanh ) ), tỷ thức ( cái biết mùi hương do mũi tiếp đón ), thiệt thức ( cái biết mùi vị do lưỡi nếm ), thân thức ( cái biết do cảm hứng nơi thân ). Ngoại cảnh thế nào thì nó thấy biết, cảm nhận như vậy ấy cũng như hình ảnh phản chiếu rất trung thực qua tấm gương cho nên vì thế năm cái tâm đầu ( tiền ngũ thức ) này nhà Phật gọi là trực tâm. Rồi sau đó những cái thấy biết đó không dừng lại mà được so sánh, phân biệt đối đãi và mẫu sản phẩm ở đầu cuối này gọi là ý thức tức là cái tâm có phân biệt. Từ sự phân biệt đó vọng tưởng phát sinh sai khiến con người đi tìm những ảo giác, những niềm hạnh phúc tạm bợ của trần gian do đó phiền não, khổ đau liên tục phát sinh. Vậy tâm là gì ? Nó đang ở đâu ? Và nó muốn làm gì ? Tâm là cái biết nghĩa là năm căn của con người ( mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ) thu nhận năm cái biết từ quốc tế bên ngoài để cho ta biết mắt thấy gì, tai nghe âm thanh gì, mũi ngửi hương thơm gì, lưỡi nếm mùi vị gì hoặc thân có xúc cảm gì. Chức năng của nó giống như năm cái sensors của chiếc xe luôn đảm nhiệm những tín hiệu chung quanh để đưa vào TT CPU. Vì thế những tín hiệu này trọn vẹn trung thực chưa có phân biệt, thấy sao ghi nhận vậy. Sau cùng những cái biết đó được những dây thần kinh chuyển vào mạng lưới hệ thống TW não bộ để so sánh, phân biệt hoặc lưu giữ thì cái tâm ở đầu cuối đó gọi là ý thức. Thế thì tâm là cái biết, trùm khắp trên thân thể và trong nội tâm của con người vì vậy tâm luôn biến chuyển, đổi khác chớ không cố định và thắt chặt ở một nơi nào. Đó là nguyên do tại sao trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật gạn hỏi A Nan bảy lần về nơi thường trụ của tâm. Trước hết, A Nan cho rằng tâm ở trong thân, Đức Phật bác. A Nan nói rằng tâm ở ngoài thân thì Đức Phật cũng bác. Kế đến, A Nan cho rằng tâm núp sau con mắt thì Đức Phật cũng bác. Suy nghĩ một lúc, A Nan nói rằng nhắm mắt thấy tối là tâm thấy trong thân, Đức Phật cũng bác. A Nan lại cho rằng sự tâm lý là tâm thì Đức Phật cũng bác. A Nan sau đó lý luận rằng tâm ở chặng giữa, Đức Phật cũng bác. Cùng đường bí lối, A Nan nói rằng tâm là cái không dính dáng vào đâu cả thì Đức Phật cũng bác luôn. Không phải những gì Tôn giả A Nan nói là sai mà nó chỉ đúng có một nữa. Lý do Đức Phật bác bỏ những lý giải của Tôn giả A Nan do tại Tôn giả chứng minh và khẳng định rằng tâm chỉ trụ nhất định ở một chỗ. Vì tâm là cái biết, cho nên vì thế cái biết đó luôn biến chuyển, đổi khác khắp body toàn thân, từ trong ra ngoài rồi từ ngoài vào trong, từ sinh lý đến tâm ý chớ không khi nào trụ ở bất kỳ một nơi cố định và thắt chặt nào. http://thuvienhoasen.org/a9672/kinh-thu-lang-nghiem-giang-giai-suramgama-sutra-cuon-1 Có tâm là do năm căn ( mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ) luôn tiếp xúc với quốc tế bên ngoài rồi sau đó ý căn duyên với pháp trần ( tư tưởng tâm lý do não bộ tiếp thu từ năm căn kia đưa đến ) nên tâm luôn vọng ngoại, chạy theo vọng kiến tình thức để sai sử con người thỏa mãn nhu cầu những dục vọng, luyến ái. Vì thế phàm nhân thì sống bằng vọng tâm, chấp trước, phân biệt đối đãi khiến đời sống buồn, vui lẫn lộn là vậy. Thật ra tâm chỉ có một, cũng như giác mê là một. Khi mê thì sống bằng vọng tâm điên đảo đến khi thức tỉnh ( giác ) vọng tâm biến mất, chơn tâm hiện bày. Thế thì cái thấy biết ( Tri Kiến ) của Phật và cái thấy biết của phàm nhân khác nhau như thế nào ? Phật và chúng sinh đều cùng một thể tánh chơn tâm nghĩa là toàn bộ đều có tri kiến Phật tức là có năng lực thấy biết như thật rằng trần gian này là vô thường, vô ngã chớ không có chi là Ta hay là của Ta. Nhưng tại sao chúng sinh không là Phật ? Bởi vì chúng sinh chạy theo ý thức vọng niệm ( vọng kiến tình thức ), thấy biết trần gian bằng vọng tưởng nghĩa là cái thấy biết đó không còn trung thực mà bị ảnh hưởng tác động bởi vô minh bất giác tức là ngầm chứa những dục vọng của tham sân si. Ngược lại Đức Phật cũng thấy biết, cũng hoạt động và sinh hoạt nói năng như tổng thể mọi người, nhưng tâm Ngài trọn vẹn trong sáng, không còn tác động ảnh hưởng của ái dục mặc dầu là vi tế. Vậy Đức Phật thấy biết cái gì khiến tâm Ngài thanh tịnh ? Đó là trần gian này là vô thường, vô ngã khiến cho con người bất toại nguyện mà sinh ra đau khổ chính do toàn bộ chỉ là do duyên khởi tác tạo thế thôi. Ngài luôn thực hành thực tế chánh kiến, chánh tư duy để nhận xét cuộc sống nghĩa là cuộc sống thế nào thì Ngài thấy biết như thế đó, đúng với thực chất thật sự là, không thêm không bớt. Thấy biết đúng thì có niềm hạnh phúc, an nhàn, ngược lại thấy biết sai lầm đáng tiếc đưa con người đến chỗ phiền não, khổ đau ( sai một ly, đi một dặm ). Tuy nhiên, niềm hạnh phúc mà con người đeo đuổi không khi nào sống sót, vững bến do tại những điều kiện kèm theo tạo duyên cho nó phát sinh luôn biến hóa vì vậy cái mà con người gọi là niềm hạnh phúc thật ra chỉ sống sót nhất thời, có đó rồi mất đó chẳng khác nào như ôm giữ một cái bóng, như chớp lấy một làn hương. Vì thế con người luôn đi tìm từ niềm hạnh phúc này đến niềm hạnh phúc khác, không khi nào ngừng nghỉ. Ngược lại, người giác ngộ cũng đi tìm niềm hạnh phúc đấy chứ, nhưng đây không phải là niềm hạnh phúc thông thường của con người mà là niềm hạnh phúc tối thượng của cuộc sống vì trong đó hành giả sẽ không có niềm hạnh phúc, cũng không hề có khổ đau mà chỉ có toàn là an nhàn, thanh tịnh Niết bàn.

Vậy làm thế nào để thâm nhập cái trí tuệ Phật này?

Phàm nhân thì khư khư cho rằng thân này là thật, là của Ta, do cha mẹ Ta sinh ra do đó họ bám chặt vào thân, sống giữ chết đem theo. Từ đó những vọng chấp về Ngã tức là Ta và ngã chiếm hữu tức là những vật thuộc về Ta phát sinh, đâm chồi nảy nhánh trong Ta. Vì chấp thân, tâm Ta là thật, là của Ta cho nên vì thế tham, sân, si phát khởi khiến cho con người làm nô lệ từ vật chất đến niềm tin để cung phụng cho Ta và những cái thuộc về Ta. Từ đó đời sống trở thành điên đảo.

Nhưng thực sự có cái Ta như thế không?

Khi đứa bé mới sinh sinh ra thì nó chưa có cảm tính về một “ Cái Tôi ” riêng không liên quan gì đến nhau trong tâm thức. Dần theo thiên nhiên và môi trường sống lớn lên, đứa bé học hỏi từ cha mẹ, bạn hữu và người thân trong gia đình chung quanh những ý niệm về Cái Của Tôi. Đây là cha mẹ của nó, thức ăn của nó, cái giường ngủ của nó, đồ chơi của nó, cái phòng của nó, cái chén cái ly này là của nó, anh chị em của nó …. Vì là của nó nên nó phải bảo vệ giữ gìn Cái Của Nó từ đó tâm thức mở màn tăng trưởng những ý niệm ích kỷ hẹp hòi. Cái Tôi ấy mỗi ngày liên tục biến hóa và sinh trưởng dưới tác động ảnh hưởng của những điều mà nó học hỏi mới và những kinh nghiệm tay nghề mới trong đời sống và trong tâm thức của nó lúc nào cũng có Cái Tôi mới khác hẳn với Cái Tôi trước đó. Nói chung Cái Tôi đổi khác từ lúc còn bé thơ, dần đến trưởng thành và ở đầu cuối là đến lúc mạng chung. Mỗi thời gian trong cuộc sống nó có một Cái Tôi độc lạ, nào là Cái Tôi lúc còn đi học, Cái Tôi bước vào ngưỡng cửa cuộc sống, Cái Tôi của những cặp nhân tình, Cái Tôi của những đấng cha mẹ, Cái Tôi của những người lớn tuổi và sau cuối Cái Tôi của người sắp hấp hối. Nói chung, Cái Tôi của nó đang tuần tự biến dạng trong kiếp sống này qua những thể dạng khác nhau từ trẻ thơ, đến trưởng thành, rồi già nua và ở đầu cuối nhờ vào cái chết để nó trở thành Cái Tôi của một đứa bé khác dưới một cái tên gọi khác, vào trong một mái ấm gia đình khác, một dòng họ khác, một quê nhà khác, hoàn toàn có thể một tôn giáo khác và đương nhiên nó mang theo bao nhiêu kinh nghiệm tay nghề, ký ức, kiến thức và kỹ năng từ kiếp trước dưới hình thức những vết hằn ghi đậm trên dòng tri thức liên tục của nó. Nếu thật sự có Tự Ngã thì chỉ có một Cái Tôi duy nhất thế mà dần trôi theo thời hạn, Cái Tôi cứ liên tục biến hóa, biến dạng tùy theo thực trạng và thiên nhiên và môi trường sống do đó có biết bao Cái Tôi hiện ra trong cuộc sống cho nên vì thế không có cái gì thật sự là Tự Ngã hay Cái Tôi cả. Ngày xưa Đức Phật thiền định 49 ngày đêm dưới cội Bồ đề, đắc tứ thiền ( 1 ), thực chứng chân lý Vô Ngã ( không có cái gì thực sự là cái Tôi cả ) trở thành Phật. Trong bài Chuyển Pháp Luân, Đức Phật sau khi thuyết giảng chân lý Tứ Diệu Đế, Ngài liền giảng giải cho năm đồng đội Tôn giả Kiều Trần Như về giáo lý Vô Ngã. Năm người đó liền trở thành A la hán. Cũng chân lý Tứ Diệu Đế và giáo lý Vô Ngã đó, có toàn bộ 1250 vị trở thành A la hán. Chính Đức Phật cũng là vị A la hán nhưng vì Ngài là thầy của tổng thể những vị A la hán và là người đã khai sáng ra đạo Phật vì vậy danh vị Phật chỉ dành riêng cho Ngài. ( 1 ) Tứ thiền : Sau khi hành trì về kinh quán niệm hơi thở gồm có năm tiến trình được thuần thục, hành giả hoàn toàn có thể chọn một trong hai con đường, một là thiền quán hai là thiền định. Nếu chọn con đường thiền định, hành giả phải đi qua bốn tầng thiền của sắc giới : ( Sau đó tiến đến bốn tầng thiền vô sắc giới nếu muốn ). – Sơ thiền : Còn được gọi là tầng thiền thứ nhất. Hành giả sau khi tìm được một nơi vắng vẻ, ngồi xuống và giữ khung hình cho được thẳng trong tư thế tự do tự nhiên. Sau đó mở màn quán sát hơi thở. Trong khi bám sát hơi thở, hành giả phải tác ý trong tâm là phải ly toàn bộ những tham muốn dục vọng ngay cả dục vọng trở thành giải thoát giác ngộ cũng phải bỏ luôn. Rồi sau đó hành giả phải ly tổng thể những bất thiện pháp do đó kinh nói rằng “ ly dục ly bất thiện pháp ” là vậy. Sau đó hành giả phải tìm cho mình một đề mục và phải bám sát để mục đó. Nếu tâm không còn vọng tưởng, chỉ còn một đề mục thì lúc ấy hành giả có tầm, có tứ nghĩa là không còn vọng tâm xen tạp. Lúc đó hành giả sẽ chứng và an trú sơ thiền, có được một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh và phải có tầm, có tứ. Nói cách khác một khi hành giả đã từ bỏ tổng thể dục vọng, tham muốn cuộc sống thì tâm sẽ phát sinh một trạng thái hỷ lạc nhưng với điều kiện kèm theo là phải bám sát một đề mục hành thiền của mình, đừng để cho vọng tâm xen tạp trong bất kỳ tích tắc nào. – Nhị thiền : Sau khi chứng và an trú sơ thiền, giờ đây hành giả liên tục hành trì bằng cách diệt tầm diệt tứ. Hành giả lúc đó sẽ chìm vào trong trạng thái định và tâm rất an bình mà không cần bám víu vào bất kỳ đề mục nào nữa. Lúc ấy hành giả chứng và an trú vào tầng thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh và đương nhiên không tầm, không tứ nghĩa là lúc đó hành giả sẽ không còn bất kỳ điều gì tâm lý trong đầu cả tức là ý thức bị diệt, buông xả tổng thể. Đến đây hành giả sẽ đạt được trạng thái nội tỉnh nhất tâm. – Tam thiền : Ở tầng thiền thứ hai, hành giả có hỷ ( niềm vui ) là do định sanh, nhưng giờ đây nếu muốn đi sâu thì hành giả phải bỏ luôn hỷ ( không còn bám vào niềm vui nữa ). Hành giả quán vào thân để biết body toàn thân có sự an nhàn do định sanh. Sau khi ly hỷ ( gạt bỏ niềm vui trong tâm, đừng có thú vị nữa ), trú xả ( không chấp bất kể ý niệm nào, chỉ biết những biến hành trong thân của mình một cách trung thực ví dụ điển hình như trạng thái lạc thì biết rằng thân mình có lạc hoặc trạng thái khổ thì biết rằng thân mình có khổ, nhưng đến tầng thiền này thì trạng thái khổ sẽ không còn nữa mà chỉ có lạc ), chánh niệm tỉnh giác ( luôn luôn thức tỉnh để quan sát và hiểu biết chuyện gì đang xảy ra trong khung hình của mình. Tỉnh giác cần phải có chánh niệm do tại nếu niệm giờ đây nghiên về tà niệm thì lúc đó chánh định sẽ biến mất mà trở thành tà định cho nên vì thế tỉnh giác cần song song với chánh niệm ), thân của hành giả sẽ có sự lạc thọ phát sinh ( ở tầng thiền thứ ba này khung hình của hành giả sẽ không còn đau đớn, không còn tức bực, không còn mõi mệt mà khung hình trọn vẹn ở trạng thái tự do, khinh an, thanh thoát ). Kinh điển gọi trạng thái này là xả niệm ( bỏ hết ý niệm ), lạc trú ( trú trong an nhàn ) và hành giả lúc ấy chứng và an trú tầng thiền thứ ba. – Tứ thiền : Ở tầng thiền thứ nhì hành giả có hỷ, lạc rồi đến tầng thiền thứ ba hành giả bỏ hỷ mà chỉ có lạc. Đến tầng thiền thứ tư hành giả phải bỏ luôn lạc, bỏ luôn khổ nghĩa là phải bỏ hết, đừng cảm thú những lạc thọ của thân nữa và ngay cả những cảm xúc khổ nào ở trong thân thì cũng bỏ đi, diệt hỷ, diệt ưu ( tuy niềm vui, hay đau buồn đã được bỏ ở tầng thiền thứ nhì, nhưng nếu hành giả không chú ý quan tâm thì nó sẽ trở lại vì vậy ở tầng thiền thứ tư hành giả phải bỏ hết ) do vậy hành giả sau khi xả lạc, xả khổ rồi còn phải diệt cả hỷ, diệt cả ưu để cho hết những cảm thọ của thân, tâm. Nói cách khác hành giả phải bỏ hết, không bám víu vào niềm hạnh phúc, không đau khổ bực tức vì nghịch cảnh, không còn cảm thọ của thân và cảm thọ của tâm. Đến đây hành giả không khổ, không lạc, không hỷ, không ưu, xả niệm thanh tịnh ( buông bỏ trọn vẹn toàn bộ ý niệm nghĩa là nếu có lạc đến thì hành giả cứ bình thản, nếu có khổ, có hỷ hay có ưu đến thì hành giả vẫn bình thản khi nào cũng ở trạng thái xả ) thì hành giả chứng và an trú tầng thiền thứ tư. Ở đây thân, tâm của hành giả trọn vẹn trong sáng, không lạc, không khổ, không hỷ, không ưu. Tuy trong tâm lúc này không còn niệm, nhưng hành giả vẫn biết với tâm rất thanh tịnh, thanh thoát, nhẹ nhàng. Thế nào là xả niệm thanh tịnh trong đời sống ? Hằng ngày tất cả chúng ta chạy theo lời khen, tiếng chê làm cho đời sống chao đảo chông chênh, nghe khen thì vui còn người chê thì buồn chán đau khổ. Bây giờ nghe lời Phật dạy, khen, chê bỏ ngoài tai thì tâm không khổ, cũng không vui. Mình tốt mình biết, mình xấu bao nhiêu thì cũng chính mình biết do đó khen, chê chỉ là tiếng thị phi chớ đâu phải là mình. Buông nó xuống là có thanh tịnh ngay.

Tuyệt đối không có xe dê, xe hưu hay xe trâu hoặc không bao giờ có Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa hay Tiểu thừa, Đại thừa và Tối Thượng thừa vào thời Đức Phật còn tại thế. Xa hơn nữa, không bao giờ có Hóa Thành hay Bảo Sở bởi vì một khi chứng thánh quả A la hán là hành giả đã đến chỗ trân quý nhất của thế gian tức là bảo sở rồi. Cứu cánh tối thượng của Phật giáo Nguyên thủy là A la hán quả trong khi đó Đại thừa là quả vị Bồ tát dẫn đến quả vị Phật. Đại thừa đã hư cấu nhiều vị Bồ tát huyền bí trong khi đó Phật giáo Nguyên thủy cho rằng Bồ tát là một con người ở giữa chúng ta và Ngài hiến tặng đời mình cho sự giác ngộ và vì hạnh phúc cho đời. Có người lý luận rằng Phật giáo Nguyên thủy thì ích kỷ, chỉ lo tìm sự giải thoát cá nhân. Nhưng thử nghĩ lại, làm sao một người ích kỷ (tâm xấu) có thể đạt được giác ngộ? Khi Long Thọ viết về Tánh Không trong Trung Quán Luận khoảng thế kỷ thứ nhất sau công nguyên, Ngài chứng minh rằng vạn pháp đều rỗng không thì nhiều người lầm tưởng đây là giáo lý hoàn toàn của Đại thừa, nhưng Ngài Long Thọ đã căn cứ vào thuyết Vô Ngã và Lý Duyên Khởi vốn đã có sẵn trong kinh tạng Nguyên thủy Pali. Chỉ khác là Long Thọ đã triển khai những học thuyết đó sâu xa hơn về triết học và tâm lý học. Nói cách khác giáo lý Vô Ngã dễ hiểu, dễ ứng dụng, dễ thực hành, dễ có kết quả. Ngược lại triết lý Tánh Không quá trừu tượng, chỉ là biện chứng, khó ứng dụng nên không thực tế. Dựa theo triết lý Trung Quán, Long Thọ đã giới thiệu lý tưởng “PHÁP THÂN” và sau đó Vô Trước của phái Du Già Hành Tông (Duy Thức) đề ra khái niệm về “BÁO THÂN” cho Đức Phật. Long Thọ phủ nhận quan niệm của Nguyên thủy về Đức Phật lịch sử cho rằng Đức Phật cũng bắt đầu bằng thân phận bình thường của một con người, cũng chia sẻ tất cả mọi hệ lụy của kiếp người. Ngài cũng phải đương đầu với sanh, lão, bệnh, tử như tất cả mọi chúng sinh khác. Sau cùng, Ngài tìm kiếm một con đường giải thoát và đạt đến hạnh phúc Niết bàn, chứng đắc trí tuệ viên mãn và thoát ly sinh tử luân hồi. Ngài chỉ rõ cứu cánh này cho mọi người biết và những ai đi theo con đường này cũng sẽ đạt đến cứu cánh tối thượng giống như Ngài. Vì thế Đức Phật là vị A la hán đầu tiên của tất cả các vị A la hán. Ngược lại, Long Thọ cho rằng Đức Phật lịch sử chỉ là ứng thân của Phật vào trong thế giới Ta Bà để cứu độ chúng sinh. Vì vậy dựa theo Long Thọ, Đức Phật không phải là một nhân vật lịch sử, mà Đức Phật chân chính là một thực thể siêu việt, vượt hiện thế, vĩnh hằng và vô hạn tức là “Pháp thân”. Cho nên Đức Phật lịch sử chỉ là nhân vật được “Đức Phật chân chính” gởi đến với thế gian để tạo thành một nhân vật có hình thể là một con người, có một đời sống sinh hoạt giống hệt như một con người thường tục để thuyết giảng Chánh Pháp cho nhân thế (Kinh Pháp Hoa, Phẩm Như Lai Thọ Lượng). Do đó Đức Phật đã thành Phật từ vô lượng kiếp trước chớ không phải mới thành Phật tại thế giới này nhờ công phu tu thiền định. Từ quan điểm này mới phát sinh ra tín ngưỡng trong Phật giáo Đại thừa. Vào thế kỷ thứ 4 sau công nguyên, Vô Trước, Thế Thân của trường pháp Du Già Hành Tông (Duy Thức) tin vào chủ nghĩa “duy tâm siêu hình” mà theo đó tâm thức sáng tạo ra đối tượng của nó nhờ vào những năng lực tiềm ẩn nội tại. Thế Thân lý luận rằng tất cả vạn hữu trong thế giới hữu vi này mà con người biết được, trong thực tế đều chỉ là cấu trúc của tâm thức bởi vì những vật thể đó cũng chỉ là sự thông giải do tâm trí của con người đặt ra. Dưới mắt các học giả Tây phương, Du Già là một triết học mang tính duy tâm chủ nghĩa (idealism) vì nó lấy sự thông giải tâm thần các kinh nghiệm của con người làm điểm phát xuất. Nói cách khác, tâm thức tự nó hiện hữu mà không cần có bất cứ đối tượng nào. Sự giải thoát chỉ có thể thực hiện được khi nào con người có thể tạo ra được một nhận thức thuần túy nghĩa là chỉ thuần có tâm thức và không lệ thuộc vào phạm trù đối đãi của nhị nguyên.

Tóm lại, Duy Thức lý luận rằng vạn pháp do tâm tạo, vạn vật do thức biến hay là tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức nghĩa là tổng thể những pháp ( sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ) ( quốc tế bên ngoài ) đều do tâm phân biệt, đều do tâm tạo ra. Câu “ vạn pháp do tâm sanh ” là tư tưởng của phe phái Sautratika của Kinh Hoa Nghiêm và câu “ vạn pháp duy thức ” nghĩa là ngoài thức không có gì hết tức là không có hiện hữu là của Duy Thức học. Thế nào là do tâm tạo ra ? Nếu nói pháp đó là tâm hành như buồn, vui, thương, giận … thì hoàn toàn có thể hiểu được. Nhưng nếu pháp ở đây là nhà cửa, xe cộ, thành tháp … mà do tâm của bạn tạo ra thì phải hiểu như thế nào ? Không lẽ tâm bạn có thần thông để biến hóa thành nhà cửa, xe cộ hay sao ? Nhưng muốn làm nhà, phong cách thiết kế chiếc xe hay tạo tác bất kể vật thể gì trên trần gian, trước hết bạn phải có dự án Bất Động Sản phong cách thiết kế phát xuất từ biết bao tâm lý của tâm. Từ đó bạn khởi đầu vẽ họa đồ, order vật tư, mướn nhân công và sau cuối phong cách thiết kế. Tất cả những tiến trình đó đều phát xuất từ tâm.

Thật ra tư tưởng này cũng chẳng có chi là xa lạ vì trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật đã nói rất đơn giản, ngắn gọn là:” Tâm dẫn đầu các Pháp, Tâm làm chủ tạo tác…” rồi.

Khi Đức Phật còn tại thế chỉ có một con đường giải thoát giác ngộ là Bát Chánh Đạo và cứu cánh tối thượng là A la hán thế thôi. Thập Nhị Nhân Duyên không phải để cho người tu thành Duyên giác mà giáo lý này là xương sống của thuyết Duyên Khởi nghĩa là sinh không phải thật sinh và chết cũng không phải là mất hẳn mà sinh để rồi diệt và từ diệt sẽ sinh trở lại, sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận cũng bởi do vô minh mà ra. Đây chính là luân hồi của Phật giáo. A la hán nghĩa là họ hoàn toàn phá chấp Ngã tức là vô ngã,  chứng quả vô sanh (vĩnh viễn không còn tái sinh nữa). Chấp ngã phá thì chấp pháp cũng phá nghĩa là trong thì không có Ta và ngoài thì không có chi là chân thật nên chẳng có gì để bám víu, chấp thủ khiến tâm hoàn toàn thanh tịnh, an lạc, Niết bàn. Vì thế Kinh Kim Cang có câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” nghĩa là nếu tâm không còn dính mắc, chấp thủ, bám víu một khi mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi hương, lưỡi nếm thức ăn, thân cảm xúc và ý tác dụng với pháp trần thì lúc đó cái tâm kỳ diệu mới hiện ra (sinh ra). Tâm kỳ diệu này không gì khác hơn là chơn tâm, Phật tánh, tánh giác diệu minh có sẵn ở trong mọi chúng sinh. Do vậy, hằng ngày đương đầu với cuộc sống, nếu không sống trong khuôn khổ của đạo đức nhân bản để có thể ly dục ly bất thiện pháp, thử hỏi có bao nhiêu người trong thế gian cảm biết được cái tâm kỳ diệu này?

Vậy tri kiến Phật trong Kinh Pháp Hoa ở đây không có gì khác hơn là cái thấy biết trung thực để phá chấp Ngã. Nhưng thế nào là Ngã ? Phải chăng đây là sự quản lý và vận hành của ngũ uẩn ( thân, tâm ) mà con người lầm lẫn cho là Ta ? Ngũ uẩn gồm có sắc uẩn thuộc về thân và thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn thuộc về tâm. Vì thế nếu đồng cảm sự quản lý và vận hành của thân và tâm ( ngũ uẩn ) thì giờ đây con người sẽ có đánh giá và nhận định đúng mực hơn về cái mà tất cả chúng ta gọi là Ta. Cốt lõi để xâm nhập ( thực hành thực tế ) Tri Kiến Phật hay mày mò cái trí tuệ Phật ở trong Ta là quay trở lại với trạng thái thanh thoát nhẹ nhàng, không dính mắc, bám víu hay chấp thủ cũng như dòng sông trí tuệ tuôn chảy tự nhiên bị cái đê ngũ uẩn ngăn chận. Vì thế muốn dòng sông trí tuệ không còn bị ngăn ngại thì phải phá cho hết cái đê ngũ uẩn. Sắc uẩn cũng phá, thọ uẩn cũng phá, tưởng uẩn cũng phá, hành uẩn cũng phá và sau cùng thức uẫn cũng phá. Kinh Pháp Hoa, lần tiên phong trong kho tàng tầm cỡ Đại thừa, vén bức màn bí hiểm để hiển lộ bộ mặt thật của Phật tánh, chơn tâm hay Tri Kiến Phật. Vì Phật tánh là bản thể chơn như mà Lục Tổ gọi nó là “ Bổn lai vô nhất vật ”. Bản thể chân như, ngôn tự của Phật giáo Đại thừa, là một cái gì quá trừu tượng chằng khác nào chớp lấy những làn hương nghĩa là biết đó mà không khi nào chớp lấy nó được. Nói cách khác dựa theo Phật giáo Thiền tông Nước Trung Hoa ( 2 ), chơn tâm, Phật tánh thì tự tu tự tri chớ không hề diễn đạt được. Nhưng như mong muốn thay, kinh Pháp Hoa đã bật mý để tất cả chúng ta có cái nhìn rõ ràng hơn về cái “ Bổn lai vô nhất vật ” này. Đó là chỉ cần phá vỡ ngũ uẩn thì bức màn che Phật tánh khởi đầu lan rộng ra và cái “ Bổn lai vô nhất vật ” đó sẽ từ từ hiển lộ chớ không còn nằm trong trí tưởng tưởng của con người nữa. ( 2 ) ( Nhắc lại, Đạo Phật Nguyên thủy vào thời Đức Phật còn tại thế chỉ có Như Lai thiền là thiền quán ( thiền Tứ Niệm Xứ ) và thiền định ( Tứ thiền ) chớ không khi nào có Thiền tông ( Tổ sư thiền ) ( thiền Nước Trung Hoa ) ( Tổ Bồ Đề Đạt Ma ) và lịch sử một thời Niêm Hoa Vi Tiếu ).

Trong Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattana Suttam), Đức Phật giải thích Tam khổ: khổ khổ (cái khổ này chồng lên cái khổ kia), hoại khổ (hữu sinh, hữu diệt, có kết tụ tất có phân ly), hạnh khổ (sáu căn tiếp xúc sáu trần vọng tưởng phát sinh) và Bát khổ như sau: “Này các Tỳ khưu, đây là Thánh Đế về Khổ: Sanh là khổ; Già là khổ; Bệnh là khổ; Chết là khổ; gần người, vật không ưa là khổ; xa người, vật đáng mến là khổ; không được điều mình muốn là khổ; tóm lại ngũ uẩn  (pañcupādānakkhandhā) là khổ”.

Vì thế ngũ uẩn không có gì xa lạ mà chính là một thành tố của Bát khổ trong phần Khổ Đế của Tứ Diệu Đế. Khi Đức Phật dạy về Khổ Đế, Ngài muốn chúng sinh thấy biết ngũ uẩn bởi vì thế giới loài người của chúng ta là sự hiện hữu của ngũ uẩn. Đây là thực tại tối hậu của thế gian (the ultimate reality of the world) cho nên sau khi chứng ngộ, Đức Phật giải thích, giảng dạy, tuyên thuyết, chứng minh và khai mở làm sáng tỏ thực tại tối hậu đó.

Ở đây, Đức Phật muốn chúng sinh thấy biết ( Tri Kiến ) Danh – Sắc tức là Thân – Tâm như chúng thực sự là và sự quan hệ với nhau như thế nào nghĩa là trong quốc tế của ngũ uẩn, Danh dựa vào Sắc như thế nào ?

Trong Kinh Thế Gian “Loka sutta” Đức Phật đã giải thích Danh – Sắc (Thân- Tâm) (ngũ uẩn) dưới dạng thập bát giới nghĩa là sáu căn tiếp xúc với sáu trần sinh ra sáu thức. Đức Phật dạy rằng:

-Do duyên mắt và các sắc, nhãn thức khởi sanh

Với sự tụ họp của ba : mắt, sắc, nhãn thức có xúc ( phasso ). Do duyên xúc, có thọ ( vedanā ) ; Do duyên thọ, có ái ( taṇhā ) ; Do duyên ái, có thủ ( upaadāna ) ; Do duyên thủ, có hữu ( bhava ) ; Do duyên hữu, có sanh ( jāti ) ; Do duyên sanh, có già chết ( jarā, marana ) ; Sầu, bi ( soke, parideva ) ; Khổ, ưu, não ( dukkha, domanassa, upāyāsa ) xuất hiện. Các căn còn lại cũng thế :

-Do duyên tai và các tiếng, nhĩ thức khởi sanh …

-Do duyên mũi và các mùi, tỷ thức khởi sanh …

-Do duyên lưỡi va các vị, thiệt thức khởi sanh …

-Do duyên thân và các xúc, thân thức khởi sanh

-Do duyên ý và các pháp, ý thức khởi sanh

Vì tâm của con người biến hóa từng sát na tùy theo ngoại cảnh vì vậy trong phần Diệt Đế, Đức Phật lý giải sự chấm hết khổ đau như sau : – Do vô minh diệt, ( avijjāya tveva asesavirāga nirodhā ), những hành diệt ( sankhāra nirodho ) ; – Do hành diệt, thức diệt ; – Do thức diệt, danh-sắc diệt ; – Do danh-sắc diệt, lục nhập diệt ; – Do lục nhập diệt, xúc diệt ; – Do xúc diệt, thọ diệt ; – Do thọ diệt, ái diệt ; – Do ái diệt, thủ diệt ; – Do thủ diệt, hữu diệt ; – Do hữu diệt, sanh diệt ; – Do sanh diệt, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là sự diệt của hàng loạt khổ uẩn. Đối với những thánh giả A la hán, vô minh lúc ấy sẽ bị tiêu diệt. Vì vô minh diệt nên sẽ không còn dư tàn của những hành, ái và thủ. Tuy những nhân sinh ra khổ bị diệt, nhưng bản thân khổ chưa diệt chính bới hành giả vẫn còn mang thân ngũ uẩn cho nên vì thế những quả của nghiệp quá khứ vẫn còn hoạt động giải trí. Ngay cả Đức Phật vẫn còn cảm thọ “ lạc, khổ “ khi Ngài còn thân ngũ uẩn. Chỉ đến khi Đức Phật nhập Vô Dư Niết bàn ( Parinibbāna ) thì lạc, khổ thọ về thân mới trọn vẹn diệt.

1)Trước hết, trong phẩm Dược Vương Bồ Tát (Phẩm thứ 23), Bồ Tát Dược Vương đốt thân và hai tay để cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức thì đây là phá sắc uẩn.

Chánh kinh :

“Cúng dường xong, Bồ-tát xuất định và tự nói trong lòng: “ Tuy ta đã dùng thần lực cúng dường Phật, nhưng sao bằng lấy thân cúng dường”. Bồ-tát liền uống các chất thơm, kế uống dầu làm bằng các thứ hoa thơm mãn 1,200 năm, rồi lấy dầu thơm thoa thân, dùng áo báu cõi trời quấn mình trước Đức Phật Tịnh Minh Đức, rưới các thứ dầu thơm lên áo và dùng sức nguyện thần thông mà tự đốt thân. Ánh sáng tỏa soi 80 ức hằng sa thế giới. Trong ánh sáng ấy, chư Phật đồng thời  đều khen: “ Lành thay ! Lành thay ! Như vậy mới thật là tinh tấn, mới thật là cúng dường Pháp…”

Phải hiểu rằng Phật là đấng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả cho nên không có một vị Phật nào ngồi đó nhìn bất cứ ai đốt thân mình để cúng dường cho chư Phật mà không ngăn cản cho đến khi thân xác họ cháy thanh tro rồi phát lời tán thán khen ngợi. Vậy ý kinh như thế nào?  Dựa theo tinh thần Pháp Hoa là khi hành giả “nhập” Tri Kiến Phật thì người đó phải có đủ trí tuệ để phá ngũ uẩn mà sắc uẩn tức là thân xác của con người. Có phá được sắc uẩn thì mới hy vọng phá được thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Vì vậy đốt thân để cúng dường Phật là phá sắc uẩn rồi tiếp tục phá luôn các uẫn còn lại để tiến thẳng về quả vị Vô thượng Chánh Đẳng Chánh giác tức là thành Phật chớ không phải đốt cái xác thân tứ đại. Đốt thân là để xả kiến chấp Ngã nơi thân sắc uẩn nên không còn xem thân này của Ta hay là Của Ta nữa. Thân xác tức là sắc uẩn là do tứ đại kếp hợp mà thành nên sắc uẩn không có tự thể, không phải là của Ta mà là của tứ đại thiên nhiên vì thế nếu không chấp Ngã thì mọi tương quan đến thân như thất tình, lục dục, tham-sân-si, mạn, nghi sẽ không có cơ hội phát tác.

Chánh kinh :

“Bồ-tát Hỉ Kiến đã dùng gỗ chiên-đàn làm giàn hoả thiêu, thâu xá lợi đựng vào 84,000 bình báu, xây 84,000 ngọn tháp cao ba thế giới”.

Thật ra đâu có xá lợi của vị Phật nào mà có thể nhiều đến độ có thể chứa hết vào trong 84,000 bình báu. Và dĩ nhiên không có ai có thể xây đến 84,000 tháp cao đến ba thế giới được. Nhưng ý nghĩa ở đây là muốn nói lên một chân lý là bất cứ vị Phật nào cũng đều giáng sinh, trụ thế và nhập Niết bàn chớ không có vị Phật nào sống hoài cả. Đó là ý nghĩa của định luật vô thường: sinh, trụ, dị, diệt của tạo hóa mà ngay cả Đức Phật là bậc giải thoát giác ngộ vẫn không thoát khỏi định luật này. Thế thì sinh tử là chuyện bình thường, hễ có sinh tất có ngày hoại diệt cho nên người đệ tử Phật xem chuyện sống chết chỉ là trò dâu bể, chẳng có gì quan trọng vì nó là chân lý nên không lo sợ buồn phiền. Điều đó chứng minh rằng: “Tất cả pháp hữu vi chẳng qua như mộng, như huyễn, như bọt, như  bóng, như sương, như điện chớp” chẳng có gì là bền chắc muôn đời cả. Thế thì dưới ánh mắt của người học Phật thế gian là vô thường, vô ngã cho nên cuộc đời luôn dính liền với đau khổ và bất tịnh nghĩa là không bao giờ được an ổn tự tại. Vì thế khi quán về xá lợi Phật nghĩa là quán về sự vô thường, vô ngã của vạn pháp để tìm về sống với tánh  thanh tịnh an lạc của chính mình. Biết như thế thì sinh thuận tử an vậy. Người đệ tử Phật đừng nghĩ đây là chuyện có thật hay là hoang đường mà chỉ là văn dĩ tải đạo với mục đích chuyên chở những triết lý sâu xa ở trong đó cho nên kinh nói xây bao nhiêu tháp nhưng thật ra đâu có xây tháp gì.

Chánh kinh :

“Bây giờ, Bồ-tát lại tự nghĩ: Cúng dường xá lợi như thế chưa đủ. Bèn ở trước 84,000 ngọn tháp, đốt 2 cánh tay được trang nghiêm bằng trăm phước, suốt 72,000 năm, khiến vô số hạng cầu quả Thanh Văn và vô lượng người phát tâm cầu Vô thượng giác đều đứng vững trong chánh định “ Hiện nhất thiết sắc thân”.

Bồ Tát Hỷ Kiến sau khi đốt thân để cúng dường Phật nghĩa là ngài đã xả kiến chấp về chấp ngã nơi thân. Bây giờ ngài nguyện đốt luôn hai cánh tay để cúng dường tháp Phật. Đốt thân là để phá kiến chấp ngã nơi thân và đốt hai cánh tay là để phá nốt mọi kiến chấp nơi tâm. Nhưng tại sao lại đốt hai cánh tay ? Hai cánh tay là muốn ám chỉ cho sự phân biệt đối đãi nhị nguyên tức là có chủ thể và đối tượng người dùng, có Ta có người. Thông thường con người có hai cái chấp là chấp ngã và chấp pháp tức là hai phạm trù đối đãi, hễ có Ta là phải có người. Vì thế Bồ Tát Hỷ Kiến đốt hay cánh tay ở đây là muốn đốt hết tâm phân biệt phải trái hai bên. Thân và sơ là hai do đó xóa bỏ những ý niệm giúp người thân trong gia đình bỏ người sơ tức là bất nhị. Thương và ghét là hai cho đến đốt luôn ý niệm thương người này ghét người kia tức là bất nhị. Những cặp phạm trù khác là phải quấy, hơn thua, tốt xấu, khôn dại … cần phải đốt hết tức là mình đã đốt hai cánh tay rồi đấy chớ đâu phải đốt cánh tay của mình thật. Sau khi đốt hết trong tâm những phạm trù đối đãi phân biệt nhị nguyên thì những bất bình đẳng thiện ác, tốt xấu sẽ vĩnh viễn biến mất trong tâm hồn của tất cả chúng ta. Vì thế khi bỏ được những cội gốc phát sinh ra vô minh phiền não tham, sân, si thì hành giả mới tiến về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tức là thành Phật được. Phải thực hành thực tế rốt ráo Chánh đẳng thì mới hướng về Chánh giác tức là giải thoát giác ngộ. Thâm ý của kinh về đốt thân hay đốt hai cánh tay là đốt hết những quan hệ về chấp ngã và những cặp phạm trù đối đãi phân biệt nhị nguyên là nguồn gốc phát sinh ra vô minh phiền não để triển khai xong Phật đạo do tại nếu không còn sống trái với chân lý thì nguyên do gây ra đau khổ sẽ không có nên từ đó mới hoàn toàn có thể thành Phật, chớ Phật không khi nào lôi kéo bất kỳ ai đốt thân hay bất kể phần nào trong thân thể của mình để cúng dường cho Phật cả. Nên nhớ bất kể vật gì trong quốc tế hữu vi mặc dầu quý báu như kim cương, vàng bạc hay thân thể thì cũng đều là những thứ hoại diệt, nay có mai không nên chẳng có giá trị gì so với bậc giác ngộ. Ngày xưa, chính Đức Phật cũng đã từng chịu đựng khổ đau trong cung thành Ca tỳ la vệ mà vua cha nghĩ rằng đây là thiên đường đầy lạc thú. Ngài đã buông bỏ toàn bộ, giải thoát những gông cùm ràng buộc trong tâm thức và sau cuối trở thành đấng giác ngộ. Thế thì Đức Phật đâu cần lầu vàng gác tía mà Ngài rất thảnh thơi tự tại ở dưới gốc cây. Thấu hiểu được chân lý đó thì thấy biết toàn bộ mà không chấp vào đó. Biết thân, biết cảm thọ nhưng không chấp nó là Ta, là Của Ta. Biết thế gian biến hóa khôn lường, nhưng đừng chấp tốt xấu, thân sơ, phải quấy, thiện ác vì vậy đốt là xóa sạch những ý niệm phân biệt đối đãi chớ có đốt thật đâu mà cần phải hoàn trả. Phật là đấng đại từ đại bi nên không khi nào Ngài xúi bảo ai quyết tử bất kể cái gì cho Ngài ngoại trừ xóa bỏ tâm tham, sân, si để chính mình có đời sống an nhàn thế thôi chớ thật sự Phật chẳng được cái gì. Thí dụ quán tấm thân tứ đại này chỉ là sắc thân thôi và do sự quản lý và vận hành của ngũ uẩn thì có an nhàn, nhưng giờ đây nếu cộng ngã chấp vào cho rằng thân này là Của Ta thì lập tức bao nhiêu cơ bản phiền não tham, sân, si phát khởi. Có Ta thì phải có người, có đối tượng người dùng tức là có nhị nguyên từ đó tâm khởi biết bao phân biệt đối đãi và vọng chấp cũng từ đó phát sinh. Vì vậy đốt thân là đốt những kiến chấp cho rằng thân xác này thật sự là Của Ta và đốt hai cánh tay là đốt luôn những vọng chấp đối đãi phân biệt giữa Ta với người. Đức Phật không phủ nhận rằng thân xác tứ đại là của Ta, nhưng chỉ là của Ta trên danh nghĩa, trên quy ước. Nếu tất cả chúng ta chấp quy ước là thật, tên gọi là thật thì Đức Phật gọi đây là vô minh, tà kiến.

Khi chúng sinh đã nắm được diệu lý của kinh Pháp Hoa thì sẽ phát tâm đốt cho hết những nguyên nhân gây ra những căn bản phiền não tham, sân, si và những cặp phạm trù đối đãi nhị nguyên. Đốt ngón tay,  đốt ngón chân hay đốt thân là đốt cho hết chấp Ngã về Ta và cái Của Ta. Chấp Ngã không còn thì chấp pháp biến mất, trong ngoài mới tự tại được. Ngày nay cũng có người bắt chước kinh Pháp Hoa đốt ngón tay, hay ngón chân của mình để cúng dường Phật. Nhưng sau khi đốt xong rồi mà công danh, sự nghiệp, tiền tài, danh lợi, địa vị không bỏ xuống được phần nào, ngã không, pháp không chưa quán triệt được thì cho dù bạn có đốt cả thân xác cũng chẳng có lợi ích gì chớ đừng nói chi là chỉ đốt ngón tay, ngón chân. Do đó đốt ở đây là đốt bản ngã, đốt cái chấp về ngã sở hữu, không để cho nó lôi kéo, nhận chìm vào trong biển trầm luân đau khổ. Nên nhớ tấm thân tứ đại này đối với vạn pháp thế gian đâu có tội lỗi gì mà phải đốt nó vì tất cả vạn pháp đều có tự tánh thanh tịnh bản nhiên nên không có vật gì là tội lỗi cả. Tội lỗi là vì con người nhìn sai đối tượng và áp dụng sai lầm cho nên vật tốt trở thành vật xấu thế thôi. Thậm chí cho đến cần sa, á phiện đâu phải là những thứ xấu xa, nhưng nếu con người sử dụng sai lầm thì nó sẽ biến thành thứ độc hại, ngược lại nếu dùng đúng chỗ thì nó sẽ biến thành thuốc chống đau, thuốc tê thần diệu đấy chứ. Gần đây nhất có bài tường thuật từ CNN của Dr. Sanjay Gupta về những trường hợp dùng cần sa để điều trị những em bé khoảng 5 tuổi (tiểu bang Colorado) bị bệnh giựt gân (seizures) rất hiệu dụng trong khi thuốc Tây và những phương thức khác không có tác dụng nếu không muốn nói là bó tay. Thế thì một khi chúng ta cộng thêm tự ngã là Ta hay Cái Của Ta vào bất cứ hiện tượng gì trên thế gian thì lập tức nỗi khổ niềm đau cũng từ đó phát sinh. Ngược lại, người giác ngộ thì mắt vẫn thấy sắc, tai vẫn nghe âm thanh, mũi vẫn ngửi mùi, lưỡi vẫn nếm thức ăn, thân vẫn có cảm xúc, nhưng chỉ thấy biết một cách khách quan, không cộng ngã kiến vào thì không bao giờ có khổ vui mà chỉ có an lạc. Tại sao? Bởi vì: “Chư Pháp tùng bổn lai, Thường tự tịch diệt tướng” nghĩa là các pháp từ xưa đến nay, bản tánh của chúng thường vắng lặng, không hạnh phúc và cũng chẳng có khổ đau. Thế thì tất cả các Pháp từ Căn như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý đến Trần như sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cho đến sáu Thức đều là  tự tánh thanh tịnh bản nhiên nghĩa là tự tánh của chúng là vậy (như thị), không khổ, không vui. Vì thế khi nói khổ đau hay hạnh phúc là có sự hiện diện của bản ngã trong đó nghĩa là tôi khổ hay tôi hạnh phúc rồi.

Phật giáo Đại thừa vì chịu tác động ảnh hưởng rất lớn của kinh Pháp Hoa cho nên vì thế trong những giới đàn thường thấy những giới tử sau khi quỳ xuống và đốt 9 huyệt ở trên đỉnh đầu để cúng dường chư Phật và biểu lộ chí nguyện của mình. Như vậy sự đốt hương trên đỉnh đầu để cúng dường chư Phật bắt nguồn từ kinh Pháp Hoa vậy.

Sắc uẩn (Material form):  Một hài nhi mới tượng hình chỉ là một giọt máu. Dần theo thời gian, giọt máu đó được nuôi dưỡng từ người mẹ cho đến lúc thành hình. Rồi sau khi sinh ra, hài nhi tiếp tục được nuôi dưỡng cho nên thân thể càng ngày càng tăng trưởng. Sự nuôi dưỡng bắt đầu từ một giọt máu cho đến khi trưởng thành là do ngoại duyên của người mẹ và thức ăn thức uống từ bên ngoài cho nên tất cả sự hấp thụ đó để hình thành sắc thân một con người thì gọi chung là sắc uẩn. Nói chung sắc uẩn là yếu tố vật chất bao gồm vật lý – sinh lý. Có bốn yếu tố vật chất căn bản hình thành sắc uẩn là:

1)Đất (solidity) bao gồm tóc, lông, móng răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, ruột, lá lách, phèo, phổi, bao tử….

2)Nước (fluidity) gồm có mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước mỡ, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu.

3)Gió (motion or vibration) là hơi thở ra vào, đem nguồn sống dưỡng khí O2 vào trong cơ thể để nuôi tế bào và sau đó tải thán khí CO2 ra ngoài.

4)Lửa (heat) là thân nhiệt tức là năng lượng để nuôi thân và nguồn năng lượng này lấy từ thức ăn, thức uống hằng ngày.

Các yếu tố do tứ đại tạo ra thuộc về sinh lý như : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và những đối tượng người tiêu dùng của giác quan như : hình sắc, âm thanh, mùi, vị, vật xúc chạm. Khi tứ đại phối hợp thì tất cả chúng ta có hình dáng và nếu không nhìn bằng cặp mắt trí tuệ thì tất cả chúng ta sẽ thêm vào cái hình dáng đó là Tôi, là Của Tôi. Do ý niệm sai lầm đáng tiếc này khiến sự dính mắc phát sinh trong tâm của tất cả chúng ta. Như vậy yếu tố vật chất là thân thể hay ngoài thân thể, thuộc vật chất hay nguồn năng lượng, thuộc thời hạn hay khoảng trống đều bao hàm trong sắc uẩn. Thân thể là sắc uẩn, tự nó không phải là một thực thể độc lập mà là một hợp thể vật chất dịch chuyển và xích míc như mảng bọt trên mặt nước hay nếu nhìn kỹ tất cả chúng ta sẽ thấy thân tứ đại chỉ là những bọt vật chất tạm bợ. Thật vậy, nếu lửa tắt thì chết ngay. Thở ra mà không hít vào thì mất mạng. Không nhà hàng siêu thị vài tuần thì cũng chết. Nói chung, thân thể muốn sống sót phải nương vào những duyên bên ngoài như ánh sáng mặt trời, thức ăn thức uống, không khí, nhà cửa, xe cộ … do đó thân tứ đại là vô thường, vô ngã tức là Không. Con người vì bị vô minh che lấp nên không nhìn thấy biết đúng mà cho rằng thân xác này thực sự là Của Ta. Nếu thân này là Của Ta thì Ta phải làm chủ nó. Ta bảo nó đừng già, đừng bệnh, đừng chết … nó có nghe không ? Nếu là Của Ta thì tại sao Ta không mang nó theo khi chết mà tứ đại trở về với cát bụi ? Đức Phật thật chứng qua những tầng thiền định, thiền tuệ giúp Ngài thấu biết rằng thân xác của Ngài không phải thật sự là của Ngài tức là thân là Vô Ngã cho nên vì thế mọi sự dính mắc, tham níu cho thân bị diệt. Tham, sân, si diệt tức là nguyên do gây ra khổ bị diệt. Khổ diệt thì Niết bàn hiển hiện cũng như có ánh sáng thì màn đêm biến mất hay có nước trong thì ánh trăng hiện.

Vì vậy bất cứ sự chấp thủ, tham ái cho thân thể (sắc uẩn), hoặc bất cứ một đối tượng vật lý, sinh lý nào cũng đều tiềm ẩn nguy cơ đau khổ cho nên Đức Phật dạy rằng “Ai cho rằng sắc uẩn là Ta, là Của Ta, là tự ngã Của Ta thì chắc chắn gặt hái đau khổ, thất vọng, sầu muộn, vấp ngã và tai nạn”.

2)Kế đến phẩm Diệu Âm Bồ Tát Vãng Lai (Phẩm thứ 24) thì Bồ Tát Diệu Âm  đã sử dụng 10,000 thứ kỹ nhạc để cúng dường cho Phật Vân Lôi Âm Vương thì đây là phá thọ uẩn.

Chánh kinh :

“Thuở quá khứ có Phật hịêu Vân Lôi Âm Vương, nước tên là Hiện Nhất Thiết Thế Gian, kiếp tên Hỉ Kiến Suốt 12,000 năm, Bồ-tát Diệu Âm dùng 10,000 thứ kỹ nhạc cúng dường Phật Vân Lôi Âm Vương cúng dâng 84,000 bát bảy báu. Do nhân duyên quả báo đó mà nay sanh tại nước của Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí và có sức thần như thế. Này Hoa Đức, ngươi nghĩ sao? Diệu Âm Bồ-tát thuở xưa đó, chính nay là Bồ-tát Diệu Âm đây. Bồ-tát Diệu Âm này đã từng cúng dường, gần gũi vô lượng Phật, từ lâu vun trồng công đức, lại gặp hằng hà sa Phật”. 

Phần này kinh nói về sắc tướng và âm thanh do tại hằng ngày hai yếu tố làm cho con người đau khổ nhiều nhất là sắc và thanh tức là thấy và nghe. Tuy hương, vị, xúc, pháp cũng mối đe dọa, nhưng tầm quan trọng của nó không bằng sắc và thanh. Khi Phật Vân Lôi Âm Vương Open thì Bồ Tát Diệu Âm đã sử dụng 10,000 thứ kỹ nhạc để cúng dường và có lẽ rằng cũng vì sự kiện đó mà ngài có tên là Diệu Âm tức là âm thanh vi diệu. Bồ Tát Diệu Âm đã dùng nhiều loại âm nhạc khác nhau để cúng dường Phật trong suốt mười hai ngàn năm và đồng thời cũng cúng dường Phật Vân Lôi Âm Vương 84,000 cái bát ăn cơm làm bằng châu báu. Âm nhạc Bồ Tát Diệu Âm sử dụng để cúng dường Phật không phải là loại âm nhạc than mây, khóc gió, sầu thảm đau buồn hay thát loạn mà đó là những bản nhạc biểu lộ sự giải thoát, tâm tự tại thanh thoát của mình. Do đó âm nhạc của Bồ Tát Diệu Âm được dựa trên nền tảng của trí tuệ chính bới cái trí tuệ đó là năng lực hiểu được lòng người và hiểu được tiếng người cho nên vì thế âm nhác đó hoàn toàn có thể đi thẳng vào lòng người nghe và chuyển hóa được người nghe theo Chánh pháp. Ở phẩm trước, Bồ Tát Hỷ Kiến tức là tiền thân của Bồ tát Dược Vương đã đốt thân và đốt hai cánh tay tức là bố thí nội tài để cúng dường Phật. Đốt thân và đốt hay cánh tay là đốt hết những quan hệ về chấp ngã và những cặp phạm trù đối đãi phân biệt nhị nguyên là nguồn gốc phát sinh ra vô minh phiền não. Nhưng giờ đây Bồ Tát Diệu Âm chỉ cúng dường âm nhạc và những bát bảy báu là những món ngoại tài mà công đức lại thù thắng hơn Bồ Tát Dược Vương hay sao ? Ngoại tài mà kinh muốn nói ở đây không nhất thiết là những thứ âm nhạc thông thường hay những bình bát quý báu để cúng dường cho Phật. Thật ra chư Phật đâu cần những thứ này, những Ngài sống đời đơn thuần, thanh tịnh nên tâm không còn chấp vật nào là đồ quý báu hay thứ âm thanh nào là huyền diệu. Mà ngoại tài là ám chỉ cho sự cảm thọ từ nhân duyên bên ngoài. Con người có khổ, có trầm luân cũng vì thích cảm thọ rồi đưa những cảm thọ đó vào tâm, từ đó vọng tưởng phát khởi khiến họ chạy theo tham đắm, dục tình và sau cuối bị nhận chìm trong ái dục. Thí dụ như khi mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi vị, lưỡi nếm mùi vị, thân xúc cảm nóng lạnh, mềm mịn và mượt mà … Trong sáu căn đó thì mắt và tai là hai căn nhạy bén nhất và tiếp xúc với bên ngoài nhiều hơn do đó nó có nhiều cảm thọ hơn. Nhưng giữa mắt và tai thì lỗ tai nghe âm thanh là nhạy bén hơn và ít bị ngăn ngại. Thí dụ ở trong căn phòng, nhưng tất cả chúng ta hoàn toàn có thể nghe được âm thanh chó sủa rất xa mặc dầu không thể nào thấy được con chó. Nói lớn nghe rõ mà nói thì thầm thì cũng nghe. Hằng ngày nếu nghe lời khen, tiếng tốt thì ta cảm thấy thoải mái và dễ chịu nên bám vúi vào cái thoải mái và dễ chịu đó mà cho rằng đó là niềm hạnh phúc. Nghe lời cay đắng, chửi mắng thì cảm thấy bức rức, không dễ chịu rồi cho rằng cuộc sống là đau khổ, đáng chán. Vì vậy kinh giới thiệu Bồ Tát Diệu Âm cúng dường âm nhạc là để nhắn nhủ với chúng sinh rằng nghe thì nghe tổng thể, nhưng đừng dấy niệm phân biệt tốt xấu, khen chê vì chúng là ngoại trần, không phải là Ta hay cái Của Ta, thì không cảm thọ vui buồn. Còn Bồ Tát Diệu Âm cúng dường bát bảy báu là chỉ cho sắc pháp nghĩa là mắt tuy có thấy hình tướng, sắc tố mà không cảm thọ vui hay buồn thì tâm sẽ được an tịnh. Thí dụ hiện tại tất cả chúng ta đang sống trong quốc tế đầy vật chất nên con người chạy theo sắc tướng, đắm say theo hình sắc một cách mù quáng là chuyện thông thường. Khi thấy một chiếc xe lộng lẫy thì sinh ra say đắm. Thấy cái nhà đẹp lòng si mê không muốn rời. Một chàng trai trẻ nhìn một cô gái đẹp chân tay rụng rời chẳng muốn dời chân. Thấy người bạn đeo một chiếc nhẫn kim cương to, bóng lộng khiến lòng ta không vui, tủi thân. Vì thế Bồ Tát Diệu Âm cúng dường đến 84,000 ( 3 ) bát bảy báu cho Phật là kinh muốn nhắn nhủ rằng trong trần gian này có vô số vật chất như trân châu, đồ quý báu, nhưng mặc dầu là quý báu đến đâu thì chúng cũng là loại vô thường hoại diệt, nay có mai không. Nếu người tu Phật biết quán chiếu và sống với chánh niệm tỉnh thức thì mắt vẫn thấy tổng thể những vật thể trên trần gian, nhưng xem nó chẳng có gì quan trọng thì không có những cảm thọ vui buồn. Từ đó mới hoàn toàn có thể làm chủ tâm mình mà tiến về quốc tế thanh tịnh Niết bàn được. ( 3 ) Phật giáo Đại thừa cho rằng có 84,000 pháp môn để giải thoát do đó có vô số pháp tu, vô số tông phái làm sai lầm giáo lý Phật Đà. Có càng nhiều tông phái, pháp môn thì có càng nhiều Tổ ( sư ) và ai cũng cho tông phái, pháp môn của mình là đệ nhất, là tuyệt vời ví cũng như người mù sờ voi. Không thể nói chỉ có cái vòi hay cái đuôi hay vài phần của khung hình mà tổng thể mới gọi là con voi. Ngược lại, Đức Phật từ khi thành đạo cho đến lúc nhập Niết bàn chỉ xiễn dương một pháp môn duy nhất. Đó là chân lý Tứ Diệu Đế ngoài những không còn bất kỳ pháp môn thứ nhì, thứ ba nào nữa chớ đừng nói chi đến 84,000. Trong Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất để có giải thoát giác ngộ và hành giả phải nương theo Giới, Định, Tuệ để đạt đến cứu cánh tối thượng đó. ( Không có con đường nào khác ! ) Âm thanh còn tai hại nhiều hơn sắc tướng cho nên vì thế Bồ Tát Diệu Âm mới dùng đến 10,000 thứ kỹ nhạc trong suốt 12,000 năm để cúng dường Phật. Con người nghe tiếng rồi phân biệt tốt xấu, khen chê, thị phi, phải quấy vì vậy kinh muốn nhắn nhủ rằng tuy thế gian có rất nhiều loại âm thanh, lời nói, nhưng chúng đều là loại sinh diệt từ bên ngoài nên đừng chấp đem vào tâm rồi tạo sự phân biệt tốt xấu, khen chê cho nên vì thế nghe thì nghe tổng thể, biết tổng thể, nhưng không chấp vào nó, không phân biệt thì sẽ không có cảm thọ vui buồn. Đó là ý nghĩa của sự cúng dường âm nhạc. Nhưng tại sao phải cần đến 12,000 năm ? Cảm thọ rất sâu rộng từ tâm ý đến sinh lý tạo thành một dòng sông cảm thọ to lớn chi phối tâm tưởng của con người. Vì thế muốn xóa đi dòng sông cảm thọ đó thì phải cần thời hạn lâu dài hơn để huân tu, mỗi ngày thực hành thực tế một tí, biến hóa một chút ít cho đến khi nào cảm biết thì cũng cảm biết, nhưng không chấp nó là Ta hay là Của Ta tức là hãy cứ để nó trôi đi một cách tự nhiên thì lúc đó con người mới quay trở lại với thật tánh, với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình được mà nơi đó sẽ không khi nào có hình bóng của khổ, vui. Con người vì trải qua qua bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp chạy theo bản ngã vì vậy nghĩ rằng toàn bộ những cảm thọ buồn, vui của trần gian là của mình tức là tôi vui hay tôi buồn, tôi khổ hay tôi niềm hạnh phúc. Vì vậy muốn biến hóa ý niệm sống về những cảm thọ đó một cách vô tư thì đương nhiên rất khó, cần nhiều thời hạn do đó kinh mới nói 12,000 năm là vậy. Thí dụ muốn xóa một vết xâm nhỏ trên thân mình thì dễ, ngược lại muốn xóa vết xâm trên body toàn thân thì rất khó, cần rất nhiều thì giờ mới mong thành công xuất sắc được. Thật vậy, khi tai nghe những âm thanh, lời nói không hài lòng khiến tâm tức bực, không dễ chịu. Ngược lại nghe những lời bùi tai thì say đắm. Thí dụ như vợ chồng, con cháu không ổn định, thường hay cải vã, lời qua tiếng lại cũng vì tư tưởng khác đồng chuyển qua lời nói làm cho người nghe chịu không nổi, đâm ra bực tức, rồi sinh ra chửi bới, đánh đấm … ở đầu cuối dẫn nhau ra tòa ly dị … hoặc vào tù ra khám. Tại sao ? Bởi vì con người chấp những lời nói kia là mình, là của mình nghĩa là lời nói khen Ta, hay chửi Ta. Ngược lại, nếu không chấp thì nghe vẫn nghe, cái thuận với chân lý ( cái hay ) gật đầu, cái dở bỏ đi thì làm gì còn phiền não, khổ đau.

Thí dụ có người chê ta là người xấu hoặc khen ta là người tốt thì họ chỉ dựa theo kiến giải và kinh nghiệm bản thân của họ mà so sánh, đánh giá người khác chớ làm sao họ biết ta bằng chính ta. Mình tốt bao nhiêu mình biết, mình xấu bao nhiêu thì cũng chính mình biết. Vì thế nếu mình là người xấu mà có người khen tặng mình mà mình nhận chẳng khác nào chính mình tự lừa dối mình, sống trong ảo tưởng. Ngược lại nếu mình là người tốt, luôn nghĩ thiện, nói lời lành và làm việc thiện mà có ai chê ta thế này thế kia thì ta cứ mặc họ vì cuộc sống nhẹ nhàng, thánh thoát, an vui, tự tại thì chính ta đã có rồi đâu cần người đời trao tặng nữa. Nên nhớ những tiếng thị phi, những lời khen chê thì ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có chẳng khác nào thời tiết nóng lạnh bất thường. Do đó người biết tự chủ tâm mình là người không chạy theo khách trần phiền não cho nên nghe thì nghe tất cả mà như không nghe gì hết, trong ngoài tự tại, không còn ngăn ngại tức là “Văn thanh bất thị thanh” thì chính ta đã cúng dường âm thanh phiền não, đau khổ đó cho chư Phật rồi.

Thọ uẩn (Feelings or Sensations): Thọ là cảm giác, do sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mà sinh ra thọ. Đức Phật dạy có sáu thọ: mắt tiếp xúc với hình sắc mà sinh thọ, tai với âm thanh, mũi với mùi, lưỡi với vị, thân với vật cứng-mềm, ý với đối tượng tâm ý. Cảm giác theo Phật giáo không dừng lại ở mức độ tiếp xúc đơn thuần mà là cảm xúc, một biểu hiện sâu hơn của cảm giác. Trong Phật giáo, thọ được chia làm ba loại: lạc thọ, khổ thọ và vô ký thọ.

Lạc thọ (sukhavedanā)(pleasant) là cảm nhận được cái vui, cái sung sướng ở thế gian nầy do sự tiếp xúc mà ra. Nếu lạc thọ thuộc về thân thì gọi là “lạc” (sukha) và lạc thọ thuộc về tâm thì gọi là “hỷ” (soma-nassa). Thí dụ mắt thấy nhà sang, xe đẹp; tai nghe lời dịu ngọt êm đềm; mũi ngửi hương thơm hay thân đang ở phòng mát mẻ thì sẽ sinh ra cảm giác sung sướng, thoải mái tức là lạc thọ. Muốn công hầu khanh tướng, đỉnh cao danh vọng, giàu sang phú quý là chạy theo lạc thọ.

Khổ thọ (dukkhavedanā)(unpleasant) là cảm nhận sự đau khổ hay bất hạnh do cuộc đời đưa đến. Nếu khổ thọ thuộc về thân thì gọi là “khổ” (dukkha) và khổ thọ thuộc về tâm thì gọi là “ưu” (doma-nassa). Thí dụ mắt thấy cảnh đau thương, tai nghe lời nguyền rủa, miệng ăn vật cay đắng tanh hôi, mũi ngửi hương vị thối tha…khiến tâm cảm nhận khổ đau. Hoặc bị người đánh đập khiến thân đau đớn. Công danh thất bại, duyên số bẽ bàng là khổ thọ.

Xả thọ (adukkhama-sukhāvedanā)(neutral) hay vô ký thọ là không vui cũng chẳng buồn. Lúc nào cũng vậy thôi, trước sau như một. Thí dụ hằng ngay ra đường mắt thấy biết bao chiếc xe, nhà cửa…tuy thấy tất cả mà chẳng quan tâm để ý thì tâm dững dưng không vui mà cũng chẳng buồn.

Con người có sáu căn tức là sáu giác quan ( sáu cánh cửa ) để tiếp xúc với ngoại cảnh vì vậy sẽ có sáu loại cảm thọ tương ứng. Thí dụ mắt thấy hình sắc thì phát sinh cảm thọ đẹp, xấu. Tai nghe âm thanh liền cảm thọ vui, buồn. Lưỡi nếm thức ăn liền cảm thọ ngon, dở. Thân đụng da mềm liền cảm thọ lưu luyến, khoái cảm hay đớn đau … Nói chung, tổng thể cảm thọ của con người từ thân đến tâm không ra ngoài hỷ, lạc, khổ, ưu và xả thọ. Tóm lại có ba loại cảm thọ là lạc thọ, khổ thọ và vô ký thọ. Một khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần tạo ra sáu lạc thọ, sáu khổ thọ và sáu vô ký thọ tổng số có 18 thọ. Sau đó có cảm thọ về quá khứ, hiện tại và tương lai. Tất cả những loại cảm thọ ấy tạo thành một dòng sông cảm thọ tâm ý chi phối mạng lưới hệ thống tâm thức. Dòng sông cảm thọ sinh khởi biến hiện đổi khác vô chừng. Chúng chuyển biến vô tận, vô thường, vô ngã và hiện hữu có điều kiện kèm theo. Tuy nhiên, khi còn trẻ ngũ uẩn hoạt động giải trí thông thường cho nên vì thế cảm thọ rất nhạy bén đến khi già nua thì miệng ăn không biết ngon, mắt nhìn không thấy rõ, tai nghe ùn ùn, tiếng được tiếng mất vì vậy cảm thọ là vô thường vô ngã chớ có chi là chân thực. Chấp thủ vào những cảm thọ đó khi nào cũng sai lầm đáng tiếc và gặt hái khổ đau. Tuy nhiên, những cảm thọ sướng khổ cũng chẳng tương quan gì đến Cái Tôi chính do những cảm thọ đó có cũng bởi do duyên tạo từ bên ngoài chớ chẳng có cái gì thật sự là của tôi cả cho nên vì thế đời sống con người buồn vui lẫn lộn là vậy. Cảm thọ là do ảnh hưởng tác động của duyên từ bên ngoài nên nó không thật vì những ngoại duyên đó luôn biến hóa mà con người cứ chấp là thật, là bền chắc nên muốn giữ mãi những khoảng thời gian ngắn êm đềm đó. Nói cách khác khi tâm thọ nhận cảm giác liền bị vô minh che mờ mà không biết rằng cảm xúc đó là do duyên hợp mà thành nên chúng là vô thường, vô ngã mà để cho lòng tham Ái lung lạc khiến tâm có những cảm xúc vui hay buồn và tệ hại hơn nữa cho những cảm xúc đó là Ta vui hay Ta buồn. Thí dụ vì không chú ý, tất cả chúng ta đụng vào tường nên có cảm xúc rất đau. Nếu biết quán thọ trên thân để thấy biết như thật thì cái đau trước đâu giống cái đau sau. Mỗi thời gian có một cái đau khác nhau cho đến khi cái đau trọn vẹn biến mất. Vậy thế nào là thấy biết như thật ? Đức Phật dạy rằng thấy biết như thật là trước đó một sát na thì tất cả chúng ta không biết và sau một sát na xảy ra rồi tất cả chúng ta cũng không biết. Thế thì thấy biết như thật là ngay vào thời gian đó sự hiện hữu xảy ra thì tất cả chúng ta cũng ngay thời gian đó tiếp đón sự hiện hữu đó chớ không phải một sát na trước hay một sát na sau. Vậy thì cứ mỗi sát na body toàn thân của tất cả chúng ta có sự đổi khác, chuyển hóa nhỏ mà tất cả chúng ta thấy biết như thật. Nếu tất cả chúng ta thấy sự chuyển hóa ở sát na trước mà tất cả chúng ta giữ lại thì tất cả chúng ta sẽ không biết sự chuyển hóa của sát na sau do đó cái thấy biết này không còn thấy như thật nữa mà là cái thấy biết củ. Vì thế cảm thọ chỉ là ảo giác, chẳng khác gì những gợn sóng nổi lên không bình thường, có đến rồi lại đi chớ chẳng dính dấp gì tới cái Tôi cả. Khi khổ đau hay niềm hạnh phúc phát sinh, con người thường hay đồng điệu mình với những cảm hứng của mình do đó họ bị hành hạ bởi sự hiểu biết sai lầm đáng tiếc do tại toàn bộ niềm hạnh phúc hay khổ đau đó cũng chỉ là vô thường, vô ngã chớ không phải là Của Ta. Tại sao con người thích tích góp tiền tài, mơ ước thành ông này, bà kia, mong cầu đạt được danh vọng trong xã hội … ? Bởi vì toàn bộ những thứ ấy sẽ mang lại cho tất cả chúng ta niềm vui, niềm hạnh phúc tức là lạc thọ. Đơn giản chỉ có thế thôi. Nhưng rất tiếc không có niềm vui hay niềm hạnh phúc nào vĩnh viễn ở mãi với tất cả chúng ta, nó đến rồi ra đi ( duyên sinh, duyên diệt ) nhanh gọn do đó đời sống con người luôn mãi khổ công nhọc kế đi tìm từ niềm hạnh phúc này đến niềm hạnh phúc khác. Thế thì cái mà tất cả chúng ta gọi là niềm hạnh phúc phải chăng đó là khổ đau cũng ví như viên thuốc bọc đường, khi chất ngọt tan mất thì vị đắng sẽ hiện ra. Trong bài chuyển pháp luân tiên phong, Đức Phật đã đưa ra hai thái cực : một bên là ái dục, niềm hạnh phúc và bên kia là đau khổ, bất toại nguyện. Con đường Đức Phật chọn là con đường trung đạo nghĩa là hãy tránh xa hai thái cực đó vì cả hai đều đưa chúng sinh đến chỗ phiền lụy, khổ đau. Con đường trung đạo là con đường thực hành thực tế chân chính mà ở trong đó, không có hình bóng của khoái lạc hay khổ đau. Bởi vì tổng thể những ý niệm niềm hạnh phúc hay khổ đau, tốt hay xấu đều còn nằm trong phạm trù của ý thức phân biệt nhị nguyên. Do đó khi nhập vào thiền định thì ý niệm bị diệt, ý thức không còn tác động ảnh hưởng được nữa, hành giả chỉ còn sống trong tỉnh thức nghĩa là trong thời gian đó hành giả biết rất tỏ tường, sáu căn vẫn sáng tỏ, nhưng không tác ý được nữa vì vậy hàng loạt tư tưởng, lời nói cho đến hành vi đều bị diệt nghĩa là không còn tâm lý, nói năng hay cử động tay chân cho đến khi xuất thiền. Lúc đó tâm hành giả trọn vẹn thanh tịnh và đây là con đường giải thoát, chứng nhập chân lý. Chân lý hoàn toàn có thể nói là năng lực hiểu biết ngoài tánh cách điều kiện kèm theo, tổng hợp và số lượng giới hạn của khoa học trần gian. Thông thường, những lạc thú của con người chỉ là những niềm hạnh phúc phù du, giả tạm, lừa phỉnh chẳng khác gì miếng mồi móc vào một lưỡi câu. Khi đã nuốt miếng mồi mà mình đang thèm muốn thì tức thì lưỡi câu kia cũng sẽ móc vào cổ họng của mình do đó không có niềm hạnh phúc nào trên trần gian của con người thông thường mà không ngầm chứa những nỗi khổ niềm đau về sau. Ngược lại Niết Bàn, tạm gọi là niềm hạnh phúc tối thượng, là sự an nhàn thanh tịnh trong tâm hồn mà trong đó không còn hình bóng của tham, sân, si cho nên vì thế họ không còn tranh chấp, đố kỵ cho những ảo ảnh phù du, giả tạm của trần gian.

3)Đến Phẩm thứ 25: Phổ Môn, Bồ Tát Quán Thế Âm phá tưởng uẩn để giúp chúng sinh hết sợ.

Chánh kinh :

Vô Tận Ý, Bồ-tát Quán Thế Âm thành tựu công đức như thế, dùng các thứ thân hình, dạo cùng các nước mà độ thoát chúng sanh, vì vậy chúng ngươi phải “ nhất tâm” cúng dường. Bồ-tát Quán Thế Âm còn được cõi Ta-bà gọi là:  “Người bố thí vô uý” vì trong hoàn cảnh sợ hãi tai nạn nguy cấp, Bồ-tát có khả năng làm cho hết sợ”.

Thế nào là quốc tế Ta Bà ? Ta Bà là kham nhẫn nghĩa là chúng sinh ở trong cái quốc tế tâm có nhiều phiền khổ, bức ách mà vẫn phải cam tâm nhẫn chịu. Nếu hiểu theo “ sự tướng ” thì Bồ Tát Quán Thế Âm có đủ thần thông diệu dụng nên ngài dạo khắp quốc tế Ta Bà để lắng nghe từng nỗi khổ của nhiều hạng người và sau đó tùy trường hợp mà cứu độ họ. Nhưng hiện thân thế nào ? Bồ Tát Quán Thế Âm có Hiện Nhất Thiết Sắc Thân tam muội nên hoàn toàn có thể ứng hiện bất kỳ hình tướng nào theo ý muốn ? Bất cứ ai sống trong quốc tế Ta Bà cũng đều nuôi nấng nỗi khổ từ hình thức này đến hình thức khác, nặng nhẹ khác nhau. Quan trọng nhất là hãy nhìn lại chính mình. Từ khi lớn lên đến giờ tất cả chúng ta phải cam chịu biết bao nỗi khổ từ ý thức đến vật chất. Có những lúc quá khổ, tất cả chúng ta cũng cầu nguyện Bồ Tát, nhưng cái khổ, cái nghèo đâu có hết ? Thế giới luôn sinh động biến hóa tùy theo cách sống của con người vì vậy từ khi khai thiên lập địa cho đến thời nay biết bao tai ương vạn vật thiên nhiên, cuộc chiến tranh giết chóc, người hãm hại người, tôn giáo này tiêu diệt tôn giáo kia không khi nào chấm hết. Nếu cầu nguyện Bồ Tát làm cho trần gian hết khổ, hết tai nạn đáng tiếc thì tại sao hằng ngày con người vẫn còn khổ, tai nạn thương tâm, cuộc chiến tranh, thiên tai, động đất vẫn xảy ra khắp mọi nơi ? Thế thì không lẽ kinh nói sai ?

Hiện nay có trên sáu tỷ người trên thế giới trải khắp năm châu bốn bể nên không có chuyện Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân bằng hình tướng này hay hình tướng nọ để an ủi, cứu giúp họ. Mà huyền nghĩa của kinh là Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân chính ở ngay trong tất cả mọi người. Tâm tưởng con người biến đổi từng giây, từng phút. Thí dụ có những lúc chúng ta giận dữ, cố đấu tranh hơn thua nghĩa là trong giây phút đó chúng ta đang sống trong cảnh giới của A tu la. Nếu bấy giờ chúng ta niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì ngài hiện đến thế giới A tu la đó nghĩa là từ trong lòng ta phát ra những Diệu Âm để hóa giải hết giận hờn, tranh chấp tức là đưa chúng ta thoát ra khỏi cõi A tu la. Ngược lại, nếu tâm ta đang phát khởi những niệm lành và muốn phát triển thêm hạnh lành nên niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì Bồ Tát liền hiện trong cái tâm lành của ta bằng với thập thiện nghiệp đó tương ứng với các chư Thiên để khuyến khích, giúp đở ta thành tựu ý chí thiện đó. Vì thế bất cứ tâm niệm nào cũng có thể tưởng niệm, tư duy quán chiếu tiếng Diệu Âm mầu nhiệm trong lòng mình để nhắc nhở trên con đường hoàn thiện của mình. Đó chính là khả năng du hành tự tại của Bồ Tát ở cõi Ta Bà vậy.

Nói thế thì bất kỳ ai ở đâu và làm gì cũng đều có Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong họ để nhắc nhở họ luôn làm lành lánh dữ, tránh xa dục lạc thấp hèn, luôn sống trong thức tỉnh chánh niệm, luôn làm chủ tâm mình thì cuộc sống sẽ không khi nào có hoạn nạn, bao nhiêu khổ ách sẽ tan biến. Đó chính là thần lực nhiệm mầu của Bồ Tát. Cao hơn nữa, Bồ Tát còn khuyến khích họ quay về sống với chơn tâm, Phật tánh hay Tri Kiến Phật hằng sáng thì đời sống sẽ trở thành thanh tịnh tự tại Niết bàn. Chúng sinh sắp làm bất kỳ việc thiện hay ác gì thì Bồ Tát Quán Thế Âm cũng nhắc nhở, khuyến khích hay cảnh báo nhắc nhở trước. Nếu con người biết nghe theo và thực hành thực tế đúng những Diệu Âm đó thì chính họ sẽ có nhiều quyền lợi và tránh xa biết bao tai ương. Thí dụ có người muốn đi cướp nhà băng hay có dự tính giết người thì Bồ Tát Quán Thế Âm liền cảnh báo nhắc nhở cho biết tai ương sắp xãy ra, nhưng vì vô minh tham dục che lấp khiến họ không nghe theo Diệu Âm nên mới phải vào tù chịu khổ. Một khi đã bị bắt hay vào tù tức là nhân đã thành quả rồi thì Bồ Tát Quán Thế Âm cũng đành bó tay, không giúp gì cho ai được. Vì sự huyền diệu đó mà Bồ Tát Quán Thế Âm Âm có bộc lộ trên sáu tỷ thân người là như vậy nghĩa là quốc tế có bao nhiêu con người là có bấy nhiêu hiện thân của Bồ Tát Diệu Âm. Tiếng nói Diệu Âm này không nhất thiết chỉ dành cho Phật tử, những người quy y Tam Bảo, mà nó có trong tổng thể mọi chúng sinh. Người theo đạo Thiên Chúa giáo cũng có lời nói này, kẻ theo đạo Bà la môn cũng nghe rất rõ Diệu Âm này. Thậm chí, những người không theo bất kể tôn giáo nào thì lời nói Diệu Âm vẫn réo gọi trong tâm hồn họ rất huyền diệu chằng sai khác vì tổng thể mọi chúng sinh đều có sẵn Phật tánh ( Buddha Nature ) rồi.

Vô úy là không sợ vì thế pháp vô úy thí là phương pháp giúp cho người khác không còn lo sợ. Nghĩ lại, cái sợ đã chiếm quá nữa cuộc đời của con người. Khi còn nhỏ, chúng ta sợ rắn rít, bò cạp, sợ bóng tối, sợ ma…khi lớn lên thì sợ thiếu ăn, thiếu mặc, sợ cô đơn, sợ giặc, sợ thi rớt, sợ tai nạn, sợ kiếm không ra việc làm, sợ thiếu công danh sự nghiệp, sợ thua sút bạn bè, khi già thì sợ đau, sợ bịnh, và cuối cùng là sợ chết. Nếu muốn kể cho hết tất cả những nỗi sợ, thì phải nói cả đời vẫn chưa xong. Đời sống hàng ngày đã khổ, lại càng khổ thêm vì sợ. Cho nên làm cho họ hết sợ chính là đã cứu cho họ bớt đi quá nữa nỗi khổ đau trong kiếp sống này. Muốn giúp người, trước hết chúng ta phải luyện cho mình một đức tính đừng sợ. Làm thế nào mà đạt đến điều này? Khi đã hiểu lý vô thường của nhà Phật thì chúng ta không còn sợ cái gì cả, bởi vì nếu  không tham lam tiền của thì chúng ta không sợ mất, không màng danh lợi thì không sợ thất vọng, cái thân tứ đại này là giả tạo nên không sợ chết. Con người có lo sợ, có đau khổ cũng vì sống trong vọng tưởng, bất giác vô minh, không đúng với chân lý, bây giờ chịu quay về nhất tâm niệm danh hiệu Quán Thế Âm tức là trong tâm chỉ có danh hiệu Bồ Tát chớ không còn vọng niệm nào khác thì lúc đó vọng tưởng tiêu tan, ý niệm tham đắm biến mất thì hết lo sợ, đau khổ, buồn phiền.

Như vậy chiêu thức tốt nhất hoàn toàn có thể tạo ra một thiên nhiên và môi trường niềm hạnh phúc và an bình chân thật là pháp thí vô úy tức là làm cho người khác không còn sợ hãi vì trong ý nghĩa sâu thẳm nhất của vô úy thí đồng nghĩa tương quan với giải thoát và niềm hạnh phúc. ( 4 ) Đức Phật từ khi thành đạo cho đến lúc nhập Niết bàn, Ngài chỉ xiễn dương một đạo Phật duy nhất là Phật giáo trí tuệ để giúp chúng sinh thoát khổ. Vì thế chân lý Tứ Diệu Đế mới là cứu cánh tối thượng của cuộc sống vì ở trong đó có bốn thánh đế là Khổ Đế ( những nỗi khổ của con người ), Tập Đế ( nguyên do nào phát sinh ra khổ ), Diệt Đế ( Niết bàn ) và sau cuối là Đạo Đế ( con đường giải thoát ). Ngoài ra không có Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Kim Cang … chính bới trong lần kết tập tầm cỡ thứ nhất, tại động Thất Diệp, Satiapanni, thành Vương xá, Rãjagãha, do ba Đại đệ tử : Ma – Ha – Ca – Diếp, Ưu – Ba – Ly ( luật ) và A-Nan-Đà ( kinh ) đồng chủ toạ, dưới sự bảo trợ của vua A-Xà-Thế ( Ajatasattu ) với 500 vị A la hán, những Ngài không có tụng thuật bất kỳ tầm cỡ Đại thừa nào cả vì nó chưa có. Phật giáo Đại thừa chỉ Open ở Ấn Độ khoảng chừng 500 năm sau khi Đức Phật nhập Niết bàn cho nên vì thế tầm cỡ Đại thừa là do những Tổ viết. Đến khi tầm cỡ Đại thừa vào Trung Quốc thì người Trung Hoa biến Phật giáo trở thành Phật giáo tín ngưỡng, đi ngược lại với giáo lý nhân quả, trọn vẹn sai lầm với giáo lý Phật Đà. Tệ hại hơn nữa, Trung Quốc cố tâm bành trướng Phật giáo tín ngưỡng đó sang những vương quốc lân cận như Nước Ta, Đại Hàn và Nhật Bản … Đặc biệt phẩm Phổ Môn này, có rất nhiều diễn giải dựa theo Phật giáo tín ngưỡng đưa người Phật tử tin cậy, cầu nguyện sai lầm đáng tiếc trái ngược với nhân quả, chính là cốt lõi của đạo Phật. Trải qua trên mấy ngàn năm, Phật giáo Nước Ta đã đến lúc cần phải chấn hưng để đưa đạo Phật quay trở lại con đường chân thực của nó chính bới đạo Phật là đạo như thật. Tự hào với bốn ngàn năm văn hiến thế mà Phật giáo Đại thừa Việt nam thời nay vay mượn ( phụ thuộc ) trọn vẹn vào Phật giáo tín ngưỡng Trung Quốc, vậy thế nào để gọi là Phật giáo Nước Ta ? Mời xem Youtube của TT Thích Nhật Từ : https://www.youtube.com/watch?v=Aja2BkWrj40 https://www.youtube.com/watch?v=R1xuaWUFudA

Tưởng uẩn (Perceptions): Tưởng là tưởng tượng, là suy tưởng. Vậy tưởng cái gì? Chấp có cái Ta, một bản ngã là tưởng. Chấp có ngã sở cũng là tưởng. Ngồi đây mà nhớ về quá khứ là tưởng, suy nghĩ về hiện tại là tưởng và lo lắng cho tương lai cũng là tưởng. Mở mắt nhìn thế gian là tưởng, tai nghe âm thanh là tưởng…Mở mắt không nhìn gì cũng là tưởng, nghĩ quanh nghĩ co là tưởng. Đến khi đi ngủ, nhớ trước nhớ sau là tưởng. Thậm chí ngay cả khi ngồi thiền mà đầu óc cứ quay cuồng nhớ nghĩ từ việc này đến việc khác là tưởng. Có tưởng là có vướng mắc, còn chướng ngại khiến cho trí tuệ bị ràng buộc khó phát triển.

Tưởng đóng vai trò rất quan trọng so với những em học viên, sinh viên. Tùy theo công dụng rộng hẹp, hay sâu cạn của tưởng tác động ảnh hưởng đến trí nhớ của những em. Bởi thế có người học đâu nhớ đó sự nghiệp thành đạt, ngược lại cũng lắm người học trước quên sau. Thí dụ tất cả chúng ta trong quá khứ đã bị phỏng lửa vì vậy giờ đây khi thấy lửa cháy liền hồi tưởng nên không dám sờ tay vào lửa nữa. Ngược lại, một đứa bé chưa bị phỏng nên khi thấy lửa nó liền đưa tay rờ. Đó là đứa bé đang sống với trực tâm tức là bằng thức chớ chưa có tưởng. Người còn trẻ, trí óc hoạt động giải trí tốt, tưởng rất nhạy bén nên vừa thoáng là nhớ ngay. Đến khi tuổi già, bộ óc ngưng trệ nên nhớ trước quên sau. Đó là chưa kể những người bị bệnh Alzheimer ( lãng trí ) dần theo thời hạn phần nhớ trong bộ óc tức là tưởng uẩn gần như bị hư hỏng trọn vẹn do đó họ không còn nhớ gì về quá khứ. Thậm chí ngay cả con cháu đến thăm họ cũng không nhận ra. Người trẻ thì tưởng về quá khứ ít, ham sống với hiện tại và mong cầu nhiều cho tương lai. Đến lúc về già thì tưởng rất nhiều về quá khứ, ít gật đầu hiện tại và không còn mấy chăm sóc về tương lai. Một ngày nọ có một vị tu hành lên đò để sang sông. Ngặc nổi cô lái đò lại rất trẻ đẹp nên vị sư nầy cứ lấm liếc nhìn cô ta. Khi sang bến, thay vì phải trả tiền đò như những người khác, cô lái đò đòi tiền vị tu sĩ gấp đôi. Ngạc nhiên, vị tu sĩ hỏi : – Tại sao cô lại tính tiền tôi nhiều gấp đôi vậy ? Cô lái đò đáp : – Khách đi đò thì họ chỉ đi đò nên tôi tính tiền có một, còn Ngài thì vừa đi đò vừa ngắm nghía tôi nên tôi phải tình tiền gấp đôi. Sau khi hoàn thành xong Phật sự vị tu sĩ phải trở lại bến đò để về chùa, nhưng lần nầy vị tu sĩ lấy nón che mặt lại khi sang sông. Khi đến bến thay vì chỉ trả một đồng xu tiền đò thì cô lái đò lại đòi đến bốn đồng. Quá đỗi quá bất ngờ, vị tu hành hỏi : – Tại sao lần này cô lại đòi tiền tôi quá nhiều thế ? Cô lái đò đáp : – Khi qua sông thì Ngài chỉ lấy mắt nhìn tôi nên tôi đòi tiền gấp đôi, giờ đây trở lại Ngài không nhìn tôi bằng mắt mà Ngài nhìn tôi bằng tâm tưởng. Cái nhìn của mắt có số lượng giới hạn nên tôi chỉ đòi hai đồng còn tâm tưởng thì vô biên vô lượng, ai biết Ngài đang nghĩ gì hay muốn làm gì nên tôi phải đòi tiền gấp bốn lần là như vậy. Dựa theo Phật giáo, tưởng là nhóm tri giác có năng lực nhận ra đối tượng người dùng là gì, đây là năng lực kinh nghiệm tay nghề của sáu giác quan và sáu đối tượng người dùng của giác quan. Sự nhận ra đối tượng người tiêu dùng có hai loại : một là phân biệt đối tượng người dùng bên ngoài như mắt thấy sắc nhận ra đó là cái nhà, chiếc xe, tai nghe âm thanh nhận ra tiếng chim hót, tiếng khen, lời chửi mắng … ; hai là năng lực phân biệt đối tượng người tiêu dùng bên trong, tức là những đối tượng người dùng tâm ý như những khái niệm, hồi tưởng, ký ức, kinh nghiệm tay nghề … Như vậy, tưởng uẩn là cái thấy, cái biết của mình về con người, hoặc vấn đề hay sự kiện. Vì vậy, tri giác là một trong những tính năng của thức. Sự xuất hiện của tri giác là sự xuất hiện của kinh nghiệm tay nghề. Tri giác tùy thuộc vào những kinh nghiệm tay nghề đã qua cho nên vì thế khi thấy đóa hoa thì biết đây là đóa hoa do tại cái tri giác về đóa hoa đã có sẵn trong A lại da thức. Nhưng làm thế nào để biết đó là đóa hoa ? Khi ý thức muốn so sánh thì Mạt na thức liền chuyển tư tưởng đó vào A lạ da thức và sau khi so sánh những kinh nghiệm tay nghề của những đóa hoa đã có trong đó xong thì một lần nữa Mạt na thức liền chuyển ý tưởng sáng tạo đó cho tưởng uẩn thành ra “ tri giác ” tức là “ sự thấy ” hay là “ sự nhận ra ” vật đó là đóa hoa. Vì vậy tri giác dễ bị đánh lừa bởi kinh nghiệm tay nghề, do vì thực tại thì luôn sinh động. Tại sao ? Bởi vì tất cả chúng ta chỉ thấy đóa hoa dựa theo ý niệm của mình chớ không thấy thật tánh của đóa hoa tức là “ tự nó thật sự là ”. Khi nhìn đóa hoa tất cả chúng ta cho rằng mình đang nhìn đóa hoa, nhưng đóa hoa là tên do mình đặt cho nó chớ tự nó “ không phải là ” đóa hoa “ hay là ” đóa hoa. Mà thật chất của nó chỉ là sự tổng hợp của đất, nước, gió, lửa qua trùng trùng duyên khởi kết thành hình tướng rồi tất cả chúng ta đặt tên hình tướng đó là hoa này hay hoa nọ. Do đó thật tánh của hoa là không tánh vì hoa là do sự phối hợp của trùng trùng duyên khởi chớ đóa hoa không tự nó có hay sống sót được. Vì vậy cái biết của tri giác là cái biết “ không thật ” mà là cái biết của duyên khởi cho nên vì thế tri giác sống sót có điều kiện kèm theo, do đó chúng là vô thường, trống rỗng và do duyên sinh vì thế tri giác đầy hư vọng mà tất cả chúng ta thường gọi là vọng tưởng. Con người thường đồng nhất mình với những gì mình ý thức và nhớ tưởng đến những kỷ niệm, ký ức, kinh nghiệm tay nghề trong quá khứ khiến cho tham sân si phát sinh. Sự hiểu biết sai lầm đáng tiếc này trở thành thói quen chất chứa trong tiềm thức khiến tâm con người phát sinh vô số vọng tưởng và biến đời sống trở thành điên đảo.

4)Bây giờ đến phẩm Đà-la-ni (Phẩm thứ 26): Phá Hành uẩn.

Hành có nghĩa là tác ý, là ý muốn làm phát xuất từ bộ óc rồi sau đó mới chuyển thành tư tưởng, lời nói hay hành vi. Vì thế khi hành giả trì chú Đà-la-ni có nghĩa là người đó đang cột tâm vào câu thần chú. Tâm chỉ nghĩ đến câu chú, miệng đọc câu chú và thân bắt ấn do đó gọi là tam mật tương ưng. Vì thế trong thời gian đó thân, khẩu, ý của hành giả chỉ nghĩ đến Phật nên tâm không có thời cơ phát tác những chuyện bất thiện. Do vậy trì chú là một phương pháp điển hình để phá hành uẩn giúp con người phục thiện thân, khẩu, ý của họ.

Hành uẩn (Mental formations or Thought Process): Hành có nghĩa là tác ý, là ý muốn làm phát xuất từ bộ óc rồi sau đó mới chuyển thành tư tưởng, lời nói hay hành động. Thí dụ trước khi muốn đi, bộ óc phải có tác ý muốn đi rồi sau đó hệ thống thần kinh trung ương chuyển đến khiến đôi chân bước đi. Nói cũng vậy, trước khi nói phải có tác ý muốn nói hay suy nghĩ cũng phải có tác ý suy nghĩ trước khi tâm suy nghĩ về bất cứ đối tượng gì. Nhờ tác ý này mà thân thể của con người mới hoạt động theo ý muốn của mình được. Ngược lại khi về già tuy có tác ý muốn đi, nhưng thân quá yếu hay bệnh tật nên không đi được. Hoặc tác ý muốn nhớ lại kỷ niệm nào đó trong quá khứ, nhưng tưởng uẩn không còn hoạt động nhạy bén nên nhớ đầu quên đuôi, không đâu ra đâu cả. Tuy nhiên không phải có thân là ta có tác ý cho mọi hành tác của mình được. Thí dụ như tim thì luôn đập bất chấp ta muốn hay không. Máu phải lưu thông, hệ thống não bộ thần kinh lúc nào cũng hoạt động chằng chịt, rất phức tạp chẳng khác chi có hàng ngàn bộ máy vi tính hoạt động không ngừng từ trong bộ óc cho đến trên khắp thân thể của chúng ta.

Vì thế khi con người có những tư tưởng xấu ác, lời nói hung ác hay hành vi gian ác thì trong tâm phải có tác ý bất thiện đó. Ngược lại nếu tất cả chúng ta có những tư tưởng tốt, lời nói hòa giải, hành vi nhân ái thì đây là những tác ý thiện. Nói chung tập hợp của tổng thể “ tác ý ” thiện hay bất thiện được biểu lộ bằng tư tưởng, lời nói hay hành vi thì gọi chung là hành uẩn. Ở đây, Đức Phật muốn chỉ rõ tận tường nguồn gốc phát sinh ra tư tưởng, lời nói hay hành vi để con người hoàn toàn có thể dùng tỉnh thức chánh niệm mà trấn áp nó. Vì thế trong Kinh Tứ Niệm Xứ, Đức Phật dạy rằng : “ Khi tâm tham, ta biết tâm tham. Khi tâm không tham, ta biết tâm không tham. Sân và Si cũng vậy … ” Khi thực hành thực tế chánh niệm ( mindfulness ) để biết rõ những biến hành ( tác ý ) của tâm thì con người giờ đây mới hoàn toàn có thể làm chủ thân, khẩu, ý của mình được. Muốn luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm thì con người phải nỗ lực liên tục, không gián đoạn, chứ không phải siêng năng tùy lúc tùy thời. Sự theo dõi, quán sát tâm của mình cũng ví như cha mẹ theo dõi con cháu, khi nào cũng luôn bảo vệ không cho chúng vấp ngã, làm bậy và dạy cho chúng biết và thực hành thực tế điều đúng. Thí dụ niệm Phật là thiền chỉ nghĩa là trong lúc hành giả niệm Phật thì tâm họ cột vào hồng danh chư Phật ( tầm và tứ ) khiến cho vọng tưởng tạm dừng lại ( chỉ ), nhưng khi hết niệm thì vọng tưởng phát tác trở lại tức thì khiến đời sống trở thành điên đảo. Vì thế nếu luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm, hành giả sẽ làm chủ thân, khẩu, ý của mình. Từ đó đời sống sẽ nhẹ nhàng, thanh thoát, yên vui, tự tại, và sẽ không còn lo lâu, phiền não.

5)Và sau cùng phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự (Phẩm thứ 27) là phá luôn thức uẩn.

Chánh kinh :

Thuở xưa, cách đây vô lượng vô biên kiếp, có đức Đhật hiệu Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, tại nước Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp tên là Hỉ Kiến.

Tại Pháp hội của đức Phật đó, có một nhà vua tên là Diệu Trang Nghiêm, phu nhân tên là Tịnh Đức và hai con tên là Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn.

Hai người con có sức thần thông lớn, có phước đức và trí tuệ, từ lâu tu tập 10 pháp ba-la-mật, rành cả 37 phẩm trợ đạo, lại các môn tam muội của Bồ-tát như: Nhật-tinh-tú, Tịnh-quang, Tịnh-sắc, Tịnh-chiếu, Trường-trang-ngiêm, Đại-oai-đức.

Lúc đó, vì muốn dẫn đường cho vua Diệu Trang Nghiêm và cũng vì lòng thương chúng sanh, Phật Vân Lôi Âm nói kinh Pháp Hoa này”.

Những nhân vật trong đoạn kinh trên là hình tượng của thức uẩn. Vua Diệu Trang Nghiêm là nhân vật quan trọng nhất nên tượng trưng cho Tàng thức ( A lại da thức ). Phu nhân Tịnh Đức là người thân cận nhất của nhà vua tức là Mạt-na-thức ( thức thứ bảy ). Tịnh Tạng là ý thức và Tịnh Nhãn là biểu trưng cho Tiền ngũ thức ( nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức ). Thế thì Hoàng tử Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn đã xuất gia tu chứng nghĩa là tiền ngũ thức và ý thức giờ đây thanh tịnh nên mới khuyên vua Diệu Trang Vương và phu nhân Tịnh Đức hướng về tu theo đạo Vô thượng Bồ Đề nghĩa là một khi lục thức đã thanh tịnh thì Mạt na thức ( Hoàng hậu Tịnh Đức ) sẽ thanh tịnh theo và sau cuối A lai da thức ( vua Diệu Trang Vương ) sẽ chuyển thành Như Lai tạng bản thể.

Thức uẩn (Consciousness): Thức là có khả năng rõ biết, phản ảnh thế giới hiện thực. Khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, thức nhận biết sự có mặt của đối tượng, thức không nhận ra đối tượng ấy là gì, là cái gì, màu gì… đó là chức năng của tri giác (tưởng); thức chỉ nhận biết sự hiện diện của đối tượng giống như tấm gương phản chiếu tất cả những hình ảnh đi ngang qua nó.

A) Đối với Phật giáo Nguyên thủy, thức được hiểu như là dòng chảy liên tục của các ý niệm. Các ý niệm này tùy thuộc nhiều yếu tố khác mà phát sinh, Đức Phật gọi quá trình tuỳ thuộc phát sinh nầy là “duyên khởi” (paticasamupàda). “Thức” chỉ là một mắc xích trong 12 mắc xích duyên khởi  mà thôi. Đối với Phật giáo Nguyên thủy, phần tâm linh chỉ có hai cái tâm:

1 ) Tâm thứ nhất là cảm xúc, là cái biết chưa có sự phân biệt. Đó là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức. Cái biết này chính là cái biết của trực giác cho ta những cảm xúc thoải mái và dễ chịu, không dễ chịu, không thoải mái và dễ chịu, không không dễ chịu. Tâm này còn gọi là tiền ngũ thức nghĩa là thấy sao biết vậy tức là trực tâm. 2 ) Tâm thứ hai là tư tưởng tức là ý thức. Nó mượn sự hoạt động giải trí của bộ óc để phát hiện tức là phân biệt tốt xấu, phải quấy, thịnh suy, vinh nhục, ngon dở, thân sơ … Tâm này là quan trọng và nguy khốn nhất vì nó sai sử con người vào chỗ đọa lạc. Ý thức rất lanh lẹ cho nên vì thế nếu chúng sinh có tâm lý việc lành, việc tốt thì ý thức đứng đầu. Ngược lại, nếu chúng sinh đo lường và thống kê tạo tác việc ác, việc bất thiện thì nó cũng đứng trên hết nghĩa là “ Công vi thủ, tội vi khôi ”. Vì thế nếu người tu vào thiền định, diệt được ý thức là thoát ly sinh tử tức là được liễu sanh thoát tử ngay. Vì tầm quan trọng của ý thức, Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú rằng :

Tâm dẫn đầu các Pháp

Tâm làm chủ tạo tác

Đối với tâm ô nhiễm

Nói năng hay hành động

Khổ não bước theo sau

Như bánh xe lăn theo

Dấu chân con vật kéo (Pháp Cú 1)

trái lại :

Tâm dẫn đầu các Pháp

Tâm làm chủ tạo tác

Đối với tâm thanh tịnh

An lạc bước theo sau

Như bóng không rời hình (Pháp Cú 2)

B) Bây giờ Phật giáo Đại thừa giới thiệu thêm hai tâm nữa. Ngoài sáu thức căn bản ở trên, ngài Vô Trước, Thế Thân của Duy Thức tông đã giới thiệu thêm Mạt na thức và A lại da thức để giúp chúng sinh thấy rõ công năng, sự vận hành của ý thức.

3 ) Tâm thứ ba là thức thứ bảy tức là Mạt na thức. Tâm này có công suất giúp cho ý thức lựa chọn sự so sánh, phân biệt những gì có lợi cho tự Ngã tức là những gì có lợi cho Ta và cái của Ta nằm trong A lại da thức rồi sau đó quyết định hành động sai năm thức đầu ( nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức ) hành vi và đương nhiên tác tạo ra nghiệp. Tuy thức thứ bảy có giám sát quyết định hành động gì đi chăng nữa thì cũng do thức thứ sáu là ý thức thôi thúc, xúi giục cho nên vì thế ý thức mới là thức nguy hại nhất. Thức thứ bảy này là thức ngu si nhất và thức thứ sáu là thức khôn ngoan nhất và cũng là tội lỗi nhất trong bát thức tâm vương. Vì thế Mạt na thức thường được gọi là tâm nghiệp, tâm đồng lõa dẫn dắt chúng sinh vào biển sinh tử luân hồi. 4 ) Tâm sau cuối là thức thứ tám tức là A lại da thức, là kho chứa tổng thể kinh nghiệm tay nghề, kiến thức và kỹ năng, ký ức, kỷ niệm và tổng thể những chủng tử thiện, ác, tốt, xấu và vô ký. Có thể ví A lại da thức như là cái kho cũng như ông vua làm chủ cả giang san, vàng bạc, gấm vóc, lụa là, binh khí … Mạt na thức ví như ông đại tướng là người đánh nam dẹp bắc tức là tạo nghiệp, nhưng chính Mạt na thức lại biết rất rõ ràng những gì nhà vua cất giữ trong cái kho. Nhưng muốn đánh đấm hay phân phát cơm gạo cho ai thì phải có sự xúi giục, hướng dẫn, chỉ bảo của ông quân sư tức là ý thức. Ông quân sư bày vẽ theo hướng nào thì ông đại tướng thực hành thực tế theo hướng đó nghĩa là vào kho lương lấy tiền gạo ra phân phát cho quân lính. Sự phân phát thì do tiền ngũ thức triển khai. Vì Mạt na thức khi nào cũng đo lường và thống kê và thao tác gì cũng nghĩ đến lợi cho A lai da thức nghĩa là lợi cho Ta và cái của Ta nên bị ý thức đánh lừa khiến con người sa vào hầm tăm tối, tạo tội nghiệp để phải chịu quả khổ đời đời. A lại da thức là cái kho dung chứa tổng thể những chủng tử của kinh nghiệm tay nghề, ký ức, kỹ năng và kiến thức và toàn bộ những chủng tử thiện ác hay vô ký. Mặt khác, A lại da thức làm cơ bản cho những hoạt động giải trí tâm ý trở về sau khi không còn điều kiện kèm theo hoạt động giải trí. Nhờ năng lực bảo tồn của A lại da thức mà những hiện tượng kỳ lạ tâm ý phát khởi trở lại khi hội đủ những yếu tố. Có thể hiểu A lại da thức như thể một cái kho chứa và Mạt na thức là người giữ kho. Chính Mạt na thức vào trong cái kho để chuyển những chủng tử ra hay vào mà Duy thức gọi là hiện hành hay biến hành và từ đó tưởng uẩn mới biết được vật đó là gì. Ngày nay, A lại da thức cũng giống như sự hoạt động giải trí của phần cứng ( harddrive ) của máy vi tính. Khi muốn lưu giữ bất kể dữ kiện ( data ) ( document ) nào, tất cả chúng ta bấm save thì dữ kiện đó được chuyển vào phần cứng và lưu giữ ở đó ( chủng tử ). Bây giờ nếu muốn mở ( open ) dữ kiện đó thì chỉ cần bấm vào tên thì dữ kiện đó sẽ được chuyển từ trong phần cứng và mở ra cho tất cả chúng ta xem ( biến hành ). Nếu muốn xóa đi, bấm chữ delete thì dữ kiện đó sẽ bị xóa ngay. Ngay cả khi máy vi tính bị hư ( virus ) thì phần cứng vẫn còn, không bị mất cũng như khi con người chết thì phần Thức vẫn còn và thoát ra ( do nghiệp lực ) để tái sinh vào một thân xác mới tương ứng với nghiệp báo của họ. Tuy A lại da thức là một cái kho chứa nhóm, nhưng nó biến chuyển quản lý và vận hành liên tục không ngừng nghĩ, có lúc chuyển chủng tử mới vào ( nhân ) và có khi đưa chủng tử ra gọi là biến hành tức là nhân giờ đây biến thành quả tạo nên sự khổ, vui cho con người. Vì sự biến chuyển này mà con người mới hoàn toàn có thể tu sửa để trở thành Thánh nhân hay biến thành hung thần quỷ ác. Còn linh hồn là cố định và thắt chặt, không bao giờ thay đổi vì vậy đạo Phật phủ nhận có một linh hồn sống giữ chết đem về. A-lại-da hàm chứa mọi nội dung của thức. Nội dung này luôn luôn đổi khác theo thực trạng sống và theo hành vi của chúng sinh. Chính đây là nguồn năng lượng, là sức mạnh gọi là nghiệp lực mà khi một người chết đi, nghiệp lực đẩy A-lại-da Thức ( Thần Thức ) nương gá vào một thân thể mới vừa tượng hình có thực trạng tương thích với nó. Đó là ý nghĩa của “ linh hồn đi đầu thai ” mà Phật giáo gọi là Thức đi đầu thai.

Thế thì làm sao phá được thức uẩn dựa theo đoạn kinh này?

Mỗi khi lục căn tiếp xúc với lục trần thì lục thức phát sinh, nhưng sự thấy biết của tiền ngũ thức là “ hiện lượng ” tức là thấy sao biết vậy chưa có sự phân biệt cũng giống như cái máy quay phim, cảnh giới âm thanh bên ngoài thế nào thì nó ghi lại như vậy, không thêm bớt. Nhưng khi xuất hiện của ý thức thì hiện lượng không còn mà thay vào đó bằng “ tỷ lượng ” tức là có sự phân biệt của cao thấp, hơn thua, đẹp xấu … trong đó rồi. Từ đó vọng tưởng phát sinh và đưa con người chìm đắm vào trong sông mê biển ái mà chịu cảnh khổ. Những chủng tử của vọng thức được chuyển vào trong A lại da thức từ đó trong tâm chứa đầy vọng kiến tình thức rồi sinh ra biết bao vọng tưởng để sai khiến con người chạy theo thập triền, thập sử do đó họ không khi nào có khoảng thời gian ngắn an vui, tự tại. Vì thế muốn chuyển tâm, chuyển nghiệp thì trước hết phải làm chủ thân, tâm, trấn áp sáu thức. Nếu con người luôn sống trong tỉnh thức chánh niệm thì ý thức không tác tạo hoành hành được.

Tóm lại, tuy cấu trúc của kinh Pháp Hoa rất phức tạp, nhưng nội dung cũng không ngoài mục đích giúp chúng sinh phá chấp Ngã (phá ngũ uẩn) để không còn chấp thân, tâm này là Ta hay là Của Ta.

Phá ngũ uẩn là phá chấp Ngã và chấp pháp tức là chứng đắc chân lý Vô Ngã mà chính Đức Phật đã chứng dưới cội Bồ Đề và là bài pháp thứ nhì ( Vô Ngã ) chính Đức Phật đã thuyết giảng cho nhóm ông Kiều Trần Như. Thế thì cái Tri Kiến Phật mà kinh Pháp Hoa nói ở đây chính là trí tuệ Phật tức là cái biết như thật về tánh Vô Ngã và lý Duyên Khởi của những pháp. Cái biết như thật trong trí tuệ chánh niệm tỉnh giác là sự thấy biết rốt ráo rõ ràng từ kinh nghiệm tay nghề khắp body toàn thân, tâm. Mà cái thực tại Vô Ngã ( No-self ) chỉ hoàn toàn có thể thành tựu qua công phu thiền định và lúc đó lòng chấp thủ về chủ thể lẫn đối tượng người dùng sẽ không còn hiện hữu. Một khi hành giả thực sự chứng nghiệm ngũ uẩn là Vô ngã thì không còn chấp thủ ngũ uẩn là mình, là của mình, hay là tự ngã của mình thì họ sẽ đạt đến đỉnh điểm trí tuệ ngang hàng với trí tuệ Phật mà kinh Pháp Hoa gọi là Tri Kiến Phật. Chấp thủ diệt thì ái diệt, khổ diệt. Đây là đường vào giải thoát, an vui, tự tại, Niết bàn. Ngày nay đạo Phật dựa theo thời hạn biến thể so với giáo lý Nguyên thủy do chính Đức Phật thuyết giảng, tuy nhiên mặc dầu hành giả có thực hành thực tế theo pháp môn gì đi chăng nữa thì con đường giải thoát vẫn không khi nào biến hóa. Muốn tận diệt những cơ bản phiền não Tham-Sân-Si thì phải vận dụng Giới-Định-Tuệ. Nhiều người cho rằng ăn chay, giữ giới thì sẽ có định. Nếu thật sự lý luận kia là đúng thì người Bà la môn vào thời Đức Phật còn tại thế đều ăn chay, giữ giới nhưng tại sao họ không có giải thoát mà phải cần giáo lý Phật Đà ? Ăn chay là một đức hạnh tốt, nhưng không phải là điều kiện kèm theo tất yếu để có định. Ngày xưa chính Đức Phật và 1250 vị A la hán không hề ăn chay, hằng ngày họ đi khất thực do đó nếu thí chủ cúng dường vật thực dù chay hay mặn họ vẫn hoan hỉ tiếp đón. Giới là nền tảng tất yếu không hề thiếu so với hành giả. Trong kinh Pháp Cú ( 273 – 274 ), Đức Phật dạy rằng :

“Trong tất cả các con đường

Con Đường Tám Chánh là thù thắng nhất

Đây là con đường duy nhất

Không có con đường nào khác

Để đi đến tri kiến thanh tịnh”

Vì thế con đường duy nhất để đi đến giải thoát giác ngộ xưa nay vẫn là Bát Chánh Đạo. Giới là một pháp môn tu học, giúp hành giả thực hành chớ không phải giáo điều để giữ. Thí dụ Phật tử tại gia chỉ cần tu theo 5 giới là không được sát sanh, không trộm cướp, không: nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác, không được tà hạnh và không được uống rượu. Năm giới này Đức Phật không hề nói về ăn chay. Tuy nhiên đối với Phật tử tại gia, Đức Phật dạy rằng: ”không nghe, không thấy, không biết, không xúi bảo hay tự tay mình giết con vật đó cho mình ăn thì không phạm Giới”. Nếu biết ứng dụng (thực hành) 5 giới đó vào trong cuộc sống hằng ngày thì chắc chắn người đó sẽ có biết bao hạnh phúc và an lạc. Gia đình trên thuận, dưới hòa, cuộc sống hòa hợp với đạo đức nhân bản. Nhưng thực hành 5 giới đó không có nghĩa đưa hành giả vào định mà hành giả cần phải thực hành thiền định hay thiền quán thì mới có thể vào định được. Một trong những đề mục về thiền quán là quán ngũ uẩn là vô ngã tức là ngũ uẩn giai không của bài viết này để tự mình thật sự thâm hiểu mà phá tự ngã và những quan hệ về ngã chấp. Ngược lại, nếu hành giả phá giới thì chắc chắc không bao giờ người đó có được chánh định, nếu có thì chỉ có tà định đưa đến tranh chấp lợi danh, quyền thế cũng như ngày xưa Đề Bà Đạt Đa mà thôi. Vì thế Giới là nền móng giúp hành giả có cuộc sống đạo đức nhân bản, từ đó tiến tu thì sẽ có định và từ định trí tuệ sẽ phát sinh để nhận chân được chân lý. Con đường hóa giải tham sân si duy nhất là phải thực hành giới định tuệ. Thực hành đứng đắn Giới thì lòng tham sẽ giảm và cuối cùng sẽ biến mất. Tâm có an định thì những căn bản sân hận, thù oán sẽ tiêu tan. Sau cùng người có trí tuệ thì vô minh bị diệt nghĩa là sẽ không còn si mê lầm lạc chạy theo tham đắm dục tình. Ngày nay đạo Phật chao đảo chông chênh là vì con người phá Giới, chạy theo ái dục một cách mù quáng, quên đi cứu cánh tối thượng là giải thoát giác ngộ. Sau khi thành đạo, có người hỏi Đức Phật là ai thì Ngài trả lời: “Ta là người giải thoát giác ngộ”. Người đó không hiểu giải thoát giác ngộ nghĩa là gì thì Đức Phật dạy rằng: “Ta là người thức tỉnh”.  Thức tỉnh nghĩa là thấy biết thân và đời là giả tạm, do duyên khởi tác tạo chớ không phải là Ta hay là Của Ta. Duyên hợp thì thân còn, thế gian còn duyên tan thì thân hoại, thế gian mất. Nhưng chết không phải là mất hẳn. Khi duyên mới kết thì tái sinh và chu kỳ sinh sinh diệt diệt vô cùng vô tận này đạo Phật gọi là luân hồi. Ngược lại, phàm nhân thì chấp thân và thế gian là thật, là Ta là của Ta sống giữ chết mang theo cho nên Đức Phật gọi chúng ta là những người mê muội, còn lặn hụp trong bể ái sông mê.  

Tóm lại con đường đưa đến giải thoát là không còn tham, không còn sân và không còn si.

1)Muốn không còn tham thì hành giả phải giữ tròn giới hạnh nghĩa là phải thực hành đứng đắn chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng. Đó là không được sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không uống rượu và không vọng ngữ  nghĩa là không nói dối, không nói ác, không nói chia rẽ và không nói lời vô nghĩa.

Nếu biết thân này không phải là Ta hay là của Ta thì chính ta không tham cho thân cho nên vì thế mọi bám víu, chấp thủ cho thân sẽ suy giảm và bị diệt. Bản tánh tham lam đã ăn sâu tận xương tủy của con người cho nên vì thế nếu không có trí tuệ và sống đời đạo hạnh thì bản tánh tham lam khó lòng chuyển hóa. Vì thế ở phần trên tầm cỡ nói phải dùng đến 72,000 năm để đốt hai cánh tay nghĩa là phải cần thời hạn rất dài để thực tập, thử nghiệm bản tâm của mình để tự soi xét cường độ tham ái lúc đó đã giảm được bao nhiêu do đó cỗ nhân có câu : “ Núi sông dễ chuyển, bản tính khó dời ” là vậy. Một người tham tiền đam mê cờ bạc cho đến thua sạch gia tài, nhà tan cửa nát mà vẫn chưa thức tỉnh từ bỏ là chuyện có thật. Nên nhớ nghèo không phải là tội chỉ là kém phước đức, mà sống thiếu đạo đức chạy theo tà hạnh mới là có tội cho nên vì thế có biết bao người đời sống thanh bần nhưng sống đời trong sáng đạo hạnh, rất đáng khâm phục.

2)Muốn không còn sân, hành giả phải thực hành chánh tinh tấn, chánh niệm và dĩ nhiên thành tố chính là chánh định. Muốn chinh phục, kiểm soát được nội tâm thì thiền định là phương pháp phát huy tinh thần hiệu nghiệm nhất mà theo đó hành giả chú tâm vào một đối tượng hay quán hơi thở (tầm và tứ) cho đến khi tâm an trú và không lay động bởi ý tưởng hay cảnh vật bên ngoài. Sân hận là vì con người không đạt được những điều họ mong muốn, bất toại nguyện hay đón nhận những gì họ không muốn. Nên nhớ những gì mình thọ nhận hiện tại là kết quả của những gì chính mình đã gieo từ trước chớ đâu phải từ trên trời rơi xuống cho nên nếu không muốn khổ đau cho tương lai thì hiện tại đừng gieo những nhân bất thiện. Khi chúng ta tức giận, nổi nóng hay phát sinh tính ganh tỵ thì thiền định mang lại sự an lạc, giảm cường độ nóng giận vì lúc đó chúng ta quay về với lý trí thay vì sống bằng cảm tính. Thông thường sân hận đốt cháy lý trí khiến con người ngu muội, dễ dàng biến đổi từ nhân tính đến ác tính thậm chí có thể trở thành thú tính trong một giây, một phút nào đó. Đến khi thức tỉnh thì đã muộn màng, thân bại danh liệt thậm chí có thể nhà tan cửa nát, vào tù ra khám.

Vì phải vật lộn với đời sống do đó đầu óc con người khi nào cũng bận rộn. Suy nghĩ, ý tưởng sáng tạo, vọng niệm liên tục biến hóa khiến cho tâm tư nguyện vọng quay cuồng, điên đảo. Vì thế học Phật là cố gắng nỗ lực thực hành thực tế thế nào để đơn thuần đời sống, nhờ thế đầu óc có nhiều thời cơ thư giản. Lúc đó chính mình sẽ thở được bầu không khí trong sáng, nhẹ nhàng và quan trọng nhất là có thời cơ để tìm về với chính mình. Nếu biết quán niệm hơi thở, đầu óc sẽ từ từ được thư giản, những tâm thức rối răm và đầy phiền phức sẽ từ từ bị trút bỏ. Con người sẽ không còn quá luyến tiếc về quá khứ, cũng chẳng chăm sóc nhiều cho tương lai vì việc gì đến nó sẽ đến mặc dầu mình có muốn hay không. Tại sao không tích cực thọ hưởng đời sống mình đang có chính bới nó đang nằm trong vòng tay của mình ? Một ngày qua là một ngày mình “ mất ” đi, nhưng một ngày trôi qua trong niềm hạnh phúc là một ngày mình có “ được ”. Tại sao mình không dành cho mình một khoảng chừng thời hạn nào đó thích hợp hằng ngày để ngồi xuống định tâm ? Dần dần tư thế ngồi sẽ vững chãi ví nó phản ảnh thể dạng tâm thức của người thực hành thực tế thiền. Khi một hành giả ngồi với tư thế tự do và vững chãi thì body toàn thân tỏa ra một sự thanh thản, yên bình khiến cho tâm thức trọn vẹn thư giản, nhẹ nhàng và đây là con đường đưa họ vào định. Thiền định giúp hành giả quay về để nhận thức con người thật của mình để nhận ra rõ ràng con người thật trong ta và những cảm tính, những ảo giác mà tất cả chúng ta đang làm nô lệ cho nó. Nói chung không nhất thiết phải ngồi thiền, nhưng tất cả chúng ta cần sự tỉnh lặng, và những khoảng thời gian ngắn thanh thản để tâm thức được thư thái, nhẹ nhàng. Có như thế đời sống sẽ tăng thêm ý nghĩa và giảm bớt căng thẳng mệt mỏi, nhức đầu.

3)Si mê là tâm tính mờ ám, không có trí tuệ sáng suốt để phán đoán việc tốt xấu, hay dở, lành dữ, đúng sai…khiến con người làm những điều tội lỗi tổn hại cho mình và người. Vậy cái gốc của si mê là  gì? Si mê là vì chấp thân, tâm (ngũ uẩn) này là Ta, là của Ta. Thật tình mà nói tất cả mọi người trên thế gian khi chưa thấu hiểu Phật pháp đều chấp thân này là thật Ngã tức là Ta, là của Ta. Vì chấp nó là Ta, là của Ta cho nên thấy nó là thật, nó cao quý rồi từ đó tham lam, đắm mê cũng vì nó. Chấp thân là thật cho nên Ta đam mê sự sống, tranh dành danh vọng, tham luyến sắc đẹp, chạy theo quyền lực, tích lủy tiền bạc, của cải thế gian. Khi si mê nổi dậy làm tối mắt che lấp lý trí khiến con người tác tạo hành động tội lỗi gây tổn hại đau thương cho người và tội nghiệp cho mình. Con người luôn sống với những ảo giác nhớ nghĩ quá nhiều về quá khứ hoặc mơ mộng ảo huyền cho tương lai chưa đến. Đây cũng là gốc rễ của si mê. Vì chấp thân là của Ta nên bị ai xúc phạm thì Ta nổi sân cho dù lời nói đó rất hợp lý. Bây giờ nếu chấp tâm làm ngã tức là Ta thì trong suy tưởng, tâm tư chất chứa biết bao ý tưởng yêu thương, giận ghét, phải quấy, tốt xấu, hơn thua, đúng sai, thiện ác, lành dữ. Vì thế nếu nghĩ thiện là Tôi thế thì ác là ai? Không lẽ một người mà lại có nhiều cái Tôi như thế hay sao? Đức Phật dạy rằng si mê chính là gốc rễ của luân hồi sống chết vô cùng vô tận khiến chúng sinh phải lăn lộn lên xuống trong ba cõi sáu đường. Cũng do si mê chấp Ngã nên cái Tôi của Ta cứ thế loanh quanh lẫn quẫn suốt ngày chỉ sống với sự yêu thương, ghét bỏ nghĩa là lúc thương người này, khi ghét người kia, thích món nầy, ghét món nọ…không biết đạo đức, nhân quả thậm chí không biết suy xét điều hay lẽ phải mà chỉ thích chạy theo âm thanh, sắc tướng, mùi vị, cảm xúc của thế trần. Muốn không còn si mê, hành giả thực hành rốt ráo chánh kiến và chánh tư duy nghĩa là thấy biết đúng với bản tánh thật của nó rồi từ đó suy tư cũng dựa theo bản tánh thật của nó, không cộng ngã kiến vào thì trí tuệ phát sinh và si mê (vô minh) sẽ bị diệt cũng như có ánh sáng thì màn đêm biến mất. Khi trí tuệ phát sinh thì tự mình nhận biết rằng thân, tâm này không phải là Ta hay là của Ta mà chỉ là sự vận hành của ngũ uẩn. Vì thân là vô thường, vô ngã cho nên bất cứ ai cũng phải nằm trong quy luật sinh, già, bệnh, chết. Do vậy, nếu biết sống nghĩa là sống khỏe, sống lành mạnh, sống đúng với đạo đức nhân bản, sống hòa hợp với thiên nhiên thì cuộc sống có ý nghĩa, nhiều hạnh phúc. Đừng lo nghĩ về những chuyện mà mình không thể thay đổi vì chẳng được gì, chỉ làm hại cho sức khỏe khiến cuộc sống nhiều phiền não, điên đão, khổ đau. Tham, sân, si ví như cặn bả trong một lu nước tâm thức. Nếu chúng ta chịu tĩnh tâm để lắng nghe và trở về với con người thật của chính mình thì những cặn bả kia sẽ từ từ lắng xuống và lu nước tâm thức bây giờ sẽ trở thành trong sạch, tinh khiết. Dĩ nhiên mọi thứ phiền não, khổ đau cũng hòa tan vào hư không. Nên nhớ tất cả cái gì trên thế gian mua được bằng tiền thì cái đó rẻ. Ngược lại sự giải thoát, an lạc và trí tuệ  không thể mua được thì mới vô giá.

Tóm lại, kinh Pháp Hoa xiễn dương tri kiến Phật để giúp chúng sinh trở lại sống với tri kiến Phật của chính mình. Tri kiến Phật mà kinh muốn nói ở đây chính là cái thấy biết như thật về sự quản lý và vận hành của ngũ uẩn để không còn chấp ngũ uẩn là Ta, là tự ngã của Ta. Tuy kinh Pháp Hoa là kinh Đại thừa, nhưng tựu trung vẫn là đưa chúng sinh trở lại với bài pháp thứ nhì của Kinh Chuyển Pháp Luân mà Đức Phật đã thuyết cho năm bạn bè Tôn giả Kiều Trần Như. Đó là chân lý vô ngã. Có đồng cảm và thực hành thực tế rốt ráo giáo lý vô ngã tức là khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật, hành giả sẽ không còn dính mắc, chấp thủ, bám víu vào những ảo giác của trần gian. Vì thế thời xưa những vị chứng đắc thánh quả A la hán cũng mang thân ngũ uẩn, nhưng tuyệt đối không xem thân, tâm là của những Ngài do đó mọi tham luyến, chấp thủ, bám víu cho thân, tâm bị diệt do đó những Ngài luôn sống trong thanh tịnh, tự tại, Niết bàn. Thật ra giáo lý của Đức Phật đơn thuần, không phức tạp, dễ vận dụng, nhưng thực hành thực tế để thành tựu trí tuệ Bồ-đề thì không dễ yên cầu hành giả phải có một ý chí sắt đá để viễn ly. Viễn ly những thói hư tật xấu, viễn ly những tham đắm dục tình, viễn ly những tham vọng đê hèn, viễn ly những ý nghĩ bất thiện … Càng viễn ly thì con người càng gần với an nhàn thanh tịnh Niết bàn. Do đó hàng loạt giáo lý Đức Phật chỉ là phương tiện đi lại mà thực chứng chân lý mới là cứu cánh. Đức Phật dạy chúng sinh đời là bể khổ vì Ngài thấy biết như vậy, nếu Đức Phật là đấng thần linh thì Ngài chì cần niệm “ Úm ba di bát nhị hồng ” rồi phảy cái phất trần thì trần gian làm gì còn đau khổ. Biết đời là bể khổ, con người lặn hụp trong biển trầm luân, nhưng chính Ngài không hề hóa giải nỗi khổ của chúng sinh mà mỗi người phải tự mình giải thoát ra khỏi mọi gông cùm của phiền não khổ đau mà giáo lý Đức Phật chính là tấm hải đồ giúp chúng sinh đến được bờ an nhàn. Lê Sỹ Minh Tùng

 

Muốn tìm hiểu thêm hàng loạt Kinh Pháp Hoa Giảng Giải của soạn giả Lê Sỹ Minh Tùng xin bấm vào : http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-73_4-16394_5-50_6-4_17-239_14-1_15-1/kinh-phap-hoa-giang-giai.html

Source: https://thevesta.vn
Category: Tâm Linh